Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bước đầu tìm hiểu phép thế và phép thế lâm thời trong văn bản nghệ thuật (dựa tr...

Tài liệu Bước đầu tìm hiểu phép thế và phép thế lâm thời trong văn bản nghệ thuật (dựa trên cứ liệu của nam cao và nguyễn huy thiệp)

.PDF
107
1710
77

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU PHÉP THẾ VÀ PHÉP THẾ LÂM THỜI TRONG VĂN BẢN NGHỆ THUẬT (DỰA TRÊN CỨ LIỆU CỦA NAM CAO VÀ NGUYỄN HUY THIỆP) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Hà Nội - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU PHÉP THẾ VÀ PHÉP THẾ LÂM THỜI TRONG VĂN BẢN NGHỆ THUẬT (DỰA TRÊN CỨ LIỆU CỦA NAM CAO VÀ NGUYỄN HUY THIỆP) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS TS Phạm Văn Tình Hà Nội – 2012 2 MỤC LỤC Trang Phần mở đầu 5 1. Lí do chọn đề tài 5 2. Đối tượng nghiên cứu 9 3. Mục đích và nhiệm vụ 10 4. Phương pháp nghiên cứu 10 5. Ý nghĩa về lí luận và thực tiễn 11 6. Bố cục luận văn 11 Phần nội dung 13 Chương I: Những cơ sở lí luận về phép thế 13 1.1. Quan điểm của các học giả nước ngoài về phép thế 13 1.2. Quan điểm, kết quả nghiên cứu về phép thế trong giới Việt ngữ học 14 1.3. Phép thế như một phương pháp liên kết văn bản nghệ thuật 17 1.4. Tiểu kết 25 5 Chương II: Hình thức biểu hiện của phép thế lâm thời trong 26 tác phẩm văn học 2.1. Biểu hiện theo độ dài 26 2.1.1. Khi thế tố là một từ 29 2.1.2. Khi thế tố là một ngữ 32 2.1.3. Khi thế tố là một cụm từ chính phụ (cụm danh từ) 42 2.2. Biểu hiện theo vị trí, hướng liên kết 46 2.3. Khả năng kết hợp của phép thế lâm thời với các phép liên kết khác trong 48 tác phẩm văn học 2.3.1 . Ở tác phẩm của Nam Cao 48 2.3.2. Ở tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp 49 2.4. Một vài nhận xét về thống kê định lượng 50 2.4.1. Nhận xét về số liệu thống kê độ dài thế tố 50 2.4.2. Nhận xét về số liệu thống kê thế tố là một từ 51 2.4.3. Nhận xét về số liệu thống kê thế tố là một ngữ 53 2.4.4. Nhận xét về số liệu thống kê thế tố là một câu 53 2.5. Tiểu kết 54 6 Chương III: Giá trị liên kết ngữ nghĩa của phép thế lâm thời trong việc 56 hình thành phong cách tác giả 1.1. Thế lâm thời và giá trị liên kết ngữ nghĩa 56 1.1.1. Thế lâm thời góp phần thể hiện đầy đủ diện mạo nhân vật 56 1.1.2. Thế lâm thời có khả năng biểu cảm cao 57 1.1.3. Thế lâm thời phản ánh thời đại mà nhà văn sống 58 1.1.4. Thế lâm thời thể hiện sự lựa chọn đề tài khác nhau của mỗi nhà văn 59 1.1.5. Thế lâm thời thể hiện tài năng ngôn ngữ của nhà văn 60 2.1. Một vài nhận xét về xu hướng và cách thức sử dụng 62 2.2. Khả năng kết hợp của phép thế lâm thời với các phép liên kết khác trong 63 tác phẩm văn học 2.3. Giá trị văn học trong một số thế tố điển hình 64 3. Tiểu kết 80 Kết luận 82 Tài liệu tham khảo 84 Phụ lục 88 7 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trước đây, trong khoảng thời gian trước thập niên 50 – 60 của thế kỷ XX, hầu hết giới ngôn ngữ học đều cho rằng, câu là đơn vị cuối cùng để nghiên cứu ngôn ngữ. Câu luôn được coi là đơn vị hoàn chỉnh, đơn vị cao nhất được nghiên cứu trong đối tượng quan sát của ngôn ngữ học. Một bộ môn khoa học mới ra đời lấy văn bản làm đối tượng nghiên cứu gọi là ngôn ngữ học văn bản mà hạt nhân của nó là ngữ pháp liên kết văn bản. Các nhà ngữ pháp đã coi văn bản như một đơn vị siêu cú pháp của ngôn ngữ trong sự sử dụng của nó và đây là một vấn đề hết sức mới mẻ và hấp dẫn. Có người nói: “Đơn vị cơ bản của ngôn ngữ trong sử dụng của nó không phải là từ, không phải là câu mà là văn bản. Việc nghiên cứu ngôn ngữ ở cấp độ văn bản là một vấn đề lí thuyết hấp dẫn và thiết thực đối với ngôn ngữ học” M. Halliday [53, 1988]. Lĩnh vực ngôn ngữ học văn bản ngày càng thu hút sự chú ý không chỉ của các nhà ngôn ngữ học mà còn của các nhà khoa học khác. Các nhà khoa học trong các lĩnh vực khác nhau cũng tìm thấy những phương pháp mới. Lĩnh vực văn bản theo cách nói hình tượng của V.A. Zvegincev [1980, tr. 14] gần như đã trở thành một “vũ trụ ngôn ngữ học”. Ngữ pháp văn bản là một bộ môn khoa học không tách rời được của ngôn ngữ học. Lấy văn bản làm đối tượng nghiên cứu của mình, ngữ pháp văn bản chuyên sâu đi vào nghiên cứu mối liên kết giữa các câu trong văn bản, tìm hiểu cách tổ chức văn bản và cấu tạo đoạn văn. Trước đây khi chưa có ngành ngữ pháp học văn bản thì câu là đơn vị cao nhất. Nhưng với sự ra đời của ngành ngữ pháp học văn bản thì câu không phải là đơn vị cao nhất của hệ thống ngôn ngữ 8 mà câu được xem là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp văn bản. Câu trong văn bản không thể xuất hiện một cách rời rạc mà chúng phải liên kết lại với nhau theo những quy tắc nhất định. Như vậy tính liên kết là đặc trưng quan trọng nhất của văn bản. “Mất tính liên kết văn bản chỉ còn là tập hợp hỗn độn các câu” Trần Ngọc Thêm [44, 1999]. Theo Halliday và Hasan trong Liên kết tiếng Anh (1976; 6), các phương thức liên kết ngữ pháp được chia thành 4 kiểu: quy chiếu, tỉnh lược, thế và nối. Sự liên kết trong văn bản tồn tại dưới hai mức độ: liên kết nội dung và liên kết hình thức. Liên kết về mặt nội dung bao gồm liên kết chủ đề là liên kết logic. Liên kết về mặt hình thức là dùng các phương tiện ngôn ngữ như ngữ pháp, từ vựng… để biểu đạt liên kết nội dung. Chính nhờ các phương tiện ngôn ngữ ấy, các các câu rời rạc liên kết lại với nhau tạo nên một văn bản hoàn chỉnh. Hệ thống các phương tiện ngôn ngữ đó được gọi là hệ thống các phương tiện liên kết câu. Việc đi sâu vào tìm hiểu sự hoạt động của một số phương tiện liên kết trong văn bản tiếng Việt là một việc làm cần thiết cho nghiên cứu ngữ pháp văn bản. Ngôn ngữ học văn bản nghiên cứu cách thức bảo trì sự liên kết, tính mạch lạc của văn bản, những cách chuyển đổi sự quy chiếu của người hay vật tức là những từ ngữ hoặc giống nhau hoặc khác nhau cùng chỉ về một người hay một sự vật xác định trong đó có sử dụng phương pháp thay thế (gọi tắt là phép thế). Theo Trần Ngọc Thêm, hệ thống các phương tiện liên kết câu bao gồm liên kết từ vựng - ngữ nghĩa và liên kết ngữ pháp. Nhóm từ vựng - ngữ nghĩa lại bao gồm các phép liên kết: phép lặp từ vựng, phép đối, phép thế và phép liên tưởng. Còn nhóm phương tiện liên kết ngữ pháp bao gồm: phép nối, phép tỉnh lược, phép lặp ngữ pháp và phép liên kết tuyến tính. Trần Ngọc Thêm [44, 1999] Phép thế xuất hiện trong hầu hết các thể loại văn bản. Các tác phẩm văn học là loại văn bản nghệ thuật. Trong văn bản loại này đã có sự gia công, sắp xếp, trau chuốt… bởi các “nghệ sĩ ngôn từ”. Đương nhiên, cách thức biểu hiện của các phép 9 liên kết, trong đó có phép thế là có sự khác biệt. Xuất phát từ lí do đó mà chúng tôi chọn văn bản văn học để làm đối tượng khảo sát cho luận văn của mình. Phép thế là việc sử dụng các đại từ (nhân xưng, chỉ xuất,...) thay thế cho từ được thay thế như cô ấy, bà ấy, họ, đây, đấy, kia… thế cho danh từ (cụm danh từ), vậy thế, đó… thế cho động từ (cụm động từ), tính từ (cụm tính từ), mệnh đề (cú) tương ứng có mặt trong các câu khác, trên cơ sở đó hai câu đang xét liên kết được với nhau. Sự thay thế đó cũng có thể mở rộng ở cấp độ lớn hơn từ (phát ngôn, đoạn văn…). Trong phép thế cái được quan tâm là các yếu tố được thế và các yếu tố được thay thế cho nội dung mà tác giả muốn đề cập tới. Tuy nhiên, có những trường hợp phép thế không dùng đại từ để thay thế. Đó là các dạng: - Thế đồng nghĩa (Vd: các từ ăn/ chén/ xơi/ tọng... có thể thay thế cho nhau tùy trường hợp): - Thế phủ định - Thế lâm thời (thế ngữ cảnh) Thế lâm thời (tức thế ngữ cảnh) là một dạng thay thế bắt nguồn từ một tính huống cụ thể. Nó được xác lập theo ý định của người viết. VD1: Mỹ Tâm là một ca sĩ đang nổi. Cô gái “tóc nâu môi trầm” này đã đoạt không ít giải cao (Mỹ Tâm = cô gái tóc nâu môi trầm)... Đó là một dạng thế lâm thời. Dạng thế lâm thời xuất phát từ những đặc điểm của nhân vật được nói đến và được viết theo dụng ý của tác giả. VD2: Sài Gòn đã làm cho thế giới kinh ngạc. Sức sống của thành phố không sao lượng nổi. (Sài Gòn = thành phố). Trong các văn bản tiếng Việt, đặc biệt là các tác phẩm văn học chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều các loại thế. Phép thế đồng nghĩa là một biện pháp tránh lặp từ vựng có hiệu quả, nó tạo cho văn bản một sự đa dạng và phong phú cao độ. Thế là 10 một dạng lặp (tác giả nói theo chủ quan của mình) và thay thế là một sự lặp lại không hoàn toàn. Đây là một thủ pháp nghệ thuật được thực hiện qua văn bản để làm rõ ý đồ của tác giả. Trần Ngọc Thêm [44, 1999]. Các tác phẩm văn học Việt Nam rất phong phú và đa dạng và có rất nhiều điều thú vị. Luận văn này của chúng tôi không thể nghiên cứu được hết mọi vấn đề. Vì vậy, chúng tôi chỉ đặt vấn đề tìm hiểu phép thế như một phương tiện liên kết trong văn bản và xem xét một số cách biểu hiện của chúng. Xuất phát từ lí do đó mà chúng tôi chọn văn bản văn học để làm đối tượng khảo sát cho luận văn của mình với tên gọi Buớc đầu tìm hiểu phép thế và phép thế lâm thời trong văn bản nghệ thuật (qua khảo sát các tác phẩm của Nam Cao và Nguyễn Huy Thiệp). Có thể nói rằng trong các thể loại văn bản thì thể loại văn học là nơi xuất hiện nhiều hiện tượng thuần túy ngôn ngữ nhất do vậy cũng là nơi hiện tượng thay thế xuất hiện nhiều nhất. Trong các thể loại văn bản văn học thường xuyên được sử dụng phép thế để giúp người đọc làm quen nhận biết các cấu trúc ngôn ngữ. Hướng nghiên cứu này hoàn toàn khác với những nghiên cứu trước đây. Các nghiên cứu trước đây chưa bao giờ nghiên cứu về hiện tượng thế lâm thời và đặc biệt là chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu về hai nhà văn Nam Cao và nguyễn Huy Thiệp. Cũng từ lí do đó mà chúng tôi chọn văn bản văn học để làm đối tượng khảo sát cho luận văn của mình. 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là nghiên cứu về phép thế lâm thời. Chúng tôi không nghiên cứu về phép thế đại từ. Phép thế lâm thời phản ánh dụng ý của nhà văn nhằm làm nổi bật lên tính cách, phẩm chất của nhân vật. Tránh lặp lại những từ không cần thiết dẫn đến sự nhàm chán của người đọc. Trong các tác phẩm văn học của Việt Nam có rất nhiều các tác giả đã sử 11 dụng phép thế này, nhưng ở luận văn này chúng tôi xin khảo sát 2 tác giả Nam Cao và Nguyễn Huy Thiệp. Hai tác giả này với 2 phong cách viết khác nhau và ở vào 2 giai đoạn khác nhau. Mỗi tác giả chúng tôi sẽ khảo sát một tuyển tập truyện ngắn (hoặc một tiểu thuyết) được xem là tiêu biểu nhất. Sở dĩ chúng tôi chọn 2 tác giả này (tiêu biểu cho các nhà văn hiện đại nhưng ở hai thế hệ khác nhau) là vì chúng tôi muốn nhằm mục đích so sánh đối chiếu các số liệu thống kê thu được của mỗi tác giả về phép thế và các cách sử dụng phép thế của mỗi tác giả có những phong cách khá khác biệt. Nam Cao và Nguyễn Huy Thiệp đều là những nhà văn nổi tiếng và đa để lại rất nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và những người trí thức nghèo song mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Còn Nguyễn Huy Thiệp lại xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam. Trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cũng in dấu khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Bên cạnh đó ông cũng viết truyện ngắn, viết kịch, thơ. Mảng đề tài của Nguyễn Huy Thiệp khá đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Khảo sát các hiện tượng và các biểu hiện của phép thế lâm thời trong các tác phẩm văn học ở các giai đoạn nhằm mục đích hiểu sâu hơn về các hiện tượng liên kết trong văn bản mà cụ thể ở đây là phép thế lâm thời trong văn bản nghệ thuật và thấy rõ được các mối liên hệ của các phát ngôn trong văn bản cũng như các biểu hiện của chúng trong mạch diễn ngôn. Cụ thể ở đây là tìm ra nét độc đáo trong việc sử dụng phép thế lâm thời của Nam Cao và Nguyễn Huy Thiệp. 12 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Ứng dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, nhưng phương pháp chủ yếu của chúng tôi trong luận văn này là phương pháp phân tích liên kết văn bản và phương pháp phân tích diễn ngôn. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các thủ pháp so sánh, đối chiếu văn bản. Chúng tôi lần lượt khảo sát từng tác phẩm của từng tác giả, ghi ra phiếu các trường hợp của phép thế lâm thời xuất hiện ở các câu trong văn bản. Sau đó thống kê, phân loại và phân tích chúng. Rồi so sánh cách sử dụng phép thế này của các tác giả. Và cuối cùng đưa ra một bảng số liệu thống kê các trường hợp thu được. 4.2. Chúng tôi đã xử lí các phiếu tư liệu rồi sau đó phân chia theo các loại biểu hiện của phép thế lâm thời. Đầu tiên là phương pháp thống kê. Từ một tác phẩm văn học chúng tôi thống kê những phát ngôn có sử dụng phép thế lâm thời. Sau đó xem xét và phân loại chúng theo từng tiểu loại khác nhau và xếp các tiểu loại giống nhau vào thành nhóm. Sau đó xem xét mối tương quan giữa các nhóm và đưa ra một bảng phân loại. Bước tiếp theo là chúng tôi tiếp tục làm việc và đưa ra sự so sánh cách sử dụng phương thức liên kết mà ở đây là phép thế lâm thời của 2 tác giả này và xem xét xem giữa các tác giả này có sự tương đồng hay khác biệt. 5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn - Về mặt lí luận: + Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm khái niệm về tính liên kết trong văn bản mà cụ thể ở đây là phép thế lâm thời. + Khẳng định vai trò quan trọng của việc nghiên cứu phương thức thế cũng như các phương tiện liên kết trong văn bản. + Kết quả nghiên cứu phép thế và đặc biệt là phép thế lâm thời đóng góp 13 thêm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu các vấn đề thuộc về văn bản, đặc biệt cho việc nghiên cứu các phương thức liên kết. - Về mặt ứng dụng thực tiễn: + Các nghiên cứu trong luận văn giúp chúng ta hiểu hơn về các hiện tượng liên kết trong văn bản thông qua phép thế lâm thời. + Giúp người đọc hiểu sâu hơn về phong cách của các tác giả mà cụ thể ở đây là Nam Cao và Nguyễn Huy Thiệp. 6. Bố cục của luận văn Chúng tôi cho rằng phép thế lâm thời trong văn bản nghệ thuật là một sự tồn tại tất yếu để tránh đi sự nhàm chán và lặp lại trong việc phải dùng mãi một từ (hoặc cụm từ) duy nhất trong việc miêu tả nhân xưng, miêu tả các sự vật, hiện tượng, đối tượng, tính cách, đặc điểm của nhân vật. Trên cơ đó chúng tôi phân chia bố cục của luận văn như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và còn có các chương 1, 2, 3. Cụ thể như sau:  Chƣơng I: Những vấn đề lí luận về phép thế  Chƣơng II: Hình thức biểu hiện của phép thế lâm thời trong tác phẩm văn học + Biểu hiện theo độ dài + Biểu hiện theo vị trí, hướng liên kết + Tính đa dạng ngữ pháp của phép thế lâm thời + Khả năng kết hợp của phép thế lâm thời với các phép liên kết khác trong tác phẩm văn học  Chƣơng III: Giá trị liên kết ngữ nghĩa của phép thế lâm thời trong 14 việc hình thành phong cách tác giả + Giá trị của phép thế ở các tác phẩm đã khảo sát + Một vài nhận xét về hệ thống định lượng + Một vài nhận xét về xu hướng và cách sử dụng + Khả năng kết hợp của phép thế lâm thời và các phép liên kết khác trong tác phẩm văn học + Giá trị văn học của một số thế tố điển hình Bên cạnh đó chúng tôi cũng đính kèm toàn bộ phần phụ lục có chứa các phépthế lâm thời để người đọc tiện theo dõi. 15 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ PHÉP THẾ 1.1. Quan điểm của các học giả nước ngoài về phép thế J. R. Frith (1951) là người đầu tiên đưa ra vấn đề nghiên cứu giao tiếp ở cấp độ trên câu. Z. Harris (1952) là người kế tiếp ủng hộ quan điểm này và khẳng định phải quan tâm nghiên cứu đến đối tượng diễn ngôn (văn bản). Tuy nhiên, với sự ảnh hưởng của các nhà ngữ học nổi tiếng đương thời như Bloomfield và N. Chomsky nên vấn đề này đã bị gác tạm sang một bên trong khoảng thời gian 14 năm. Đến 1966. H Weinrich đã xới lại vấn đề khi phát biểu: “Bình thường chúng ta nói không phải bằng các từ rời rạc mà bằng các câu và văn bản, và lời nói của chúng ta xây dựng trên tình huống”. Ông cho rằng cấu trúc luận ngôn ngữ học đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, và bây giờ đã đến giai đoạn phải chuyển sang một hướng nghiên cứu khác mới mẻ hơn. R. Quirk cùng nhóm tác giả (1972) đã bắt đầu nghiên cứu về ngữ pháp văn bản và có những nhận xét về phép thế như một phương tiện hữu hiệu của việc liên kết: “Phép thế là một phương tiện để viết ngắn lại và để tránh lặp lại. Ở phạm vi trên câu, phép thế dường như không bắt buộc và phục vụ cho mục đích tu từ. Trong phạm vi câu, việc sử dụng phép thế đôi khi mang tính bắt buộc. Hầu hết các từ thay thế sử dụng ở phạm vi câu đều có thể sử dụng liên câu. Halliday và Hasan (1976) cũng đưa ra những nhận xét tương đồng về phép thế trong văn bản: Phép thế là một quan hệ ở cấp độ văn bản trên bình diện từ vựng - ngữ pháp. Một từ thay thế có thể xem như là một phương tiện thế chỗ nhằm tránh lặp lại một yếu tố nào đó. O.I. Moskalskaja (1981) cũng công bố chuyên luận mang tên Ngữ pháp văn bản mà Trần Ngọc Thêm đã dịch sang tiếng Việt năm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996. 16 Tiếp đến phải kể đến một công trình liên quan đến nghiên cứu ngữ pháp ở cấp độ trên câu là tác phẩm Phân tích diễn ngôn của Gillian Brown – George Yule (1983) mà Trần Thuân đã dịch sang tiếng Việt nưm 2002, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Sau đó là ý kiến của Frank (1993): Phép thế là trường hợp mà trong đó một từ được sử dụng để thay cho toàn bộ một cấu trúc. Gần hơn nữa là ý kiến của Downing & Locke (1995): Phép thế được sử dụng để tránh nhắc lại thông tin mà người nghe đã biết. Khác với tỉnh lược để lại một khoảng trống trong cấu trúc, phép thế lấp đầy khoảng trống đấy bằng một từ chuyên thay thế. 1.2. Quan điểm, kết quả nghiên cứu về phép thế trong giới Việt ngữ học Những nghiên cứu về ngữ pháp văn bản có thể nói đều hướng đến mục đích tối thượng là chỉ ra cho được những yếu tố/giá trị liên kết để làm nên văn bản ấy như một chỉnh thể thông tin. Ở Việt Nam từ trước đến nay nổi bật lên hai chuyên luận của Trần Ngọc Thêm (Hệ thống liên kết văn bản – 1985, 1999) và Diệp Quang Ban (Giao tiếp – Văn bản – Mạch lạc – Liên kết – Đoạn văn). Bên cạnh đó có thể kể thêm hai tác phẩm Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt của Nguyễn Thị Việt Thanh và Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong văn bản tiếng Việt của Phạm Văn Tình. Gần đây hơn nữa là bài nghiên cứu Cơ sở nối kết lời tiếng Việt của Hoàng Cao Cương (Tạp chí Ngôn ngữ, số 8+9/2007). Tuy nhiên, hai tác phẩm như chúng tôi đã kể đến trước tiên vẫn là những tác phẩm có phạm vi nghiên cứu bao quát hơn cả, tương đối toàn diện và dầy dặn, phù hợp với những người muốn tìm hiểu về liên kết văn bản từ cấp độ đại cương cho đến những cấp độ cao hơn. Điểm khác biệt cơ bản giữa Trần Ngọc Thêm và Diệp Quang Ban là trong khi Trần Ngọc Thêm chia liên kết văn bản thành hai loại liên kết hình thức và liên kết nội dung (với nhiều tiểu loại liên kết khác nhau) thì Diệp Quang Ban cho rằng 17 còn có một khái niệm bao trùm lên liên kết là “mạch lạc”. Chính mạch lạc với các cấp độ và tiểu loại khác nhau của nó đã làm nên sự liên kết chặt chẽ và nhất quán trong một văn bản. Cùng với đó, không thể không nói đến sự tương đồng trong quan điểm nghiên cứu của Trần Ngọc Thêm và Diệp Quang Ban khi cùng thống nhất về vai trò, giá trị của một số phép liên kết quan trọng, đóng vai trò không thể thay thế trong việc liên kết, kết nối văn bản ở các cấp độ khác nhau, góp phần vào sự thành công của văn bản, góp phần làm nên giá trị của văn bản đó. Những phép liên kết điển hình được hai tác giả thống nhất từ khái niệm cho đến nội hàm hoặc một phần nội hàm bao gồm: phép thế, phép tỉnh lược, phép nối và phép lặp. Như vậy, phép thế là phép liên kết cùng được hai tác giả quan tâm và dành cho nó một vị trí thích đáng trong công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, phép thế trong quan niệm của Diệp Quang Ban chỉ đơn thuần là phép thế đại từ. Ông viết: “phép thế là việc sử dụng ở câu này các đại từ thay thế như đó, đây, kia, …thế cho danh từ (cụm danh từ), vậy, thế, đó…thế cho động từ (cụm động từ), tính từ (cụm tính từ), mệnh đề (cấu trúc chủ vị, hay cú) tương ứng có mặt trong câu khác; trên cơ sở đó hai câu đang xét liên kết được với nhau. Tất nhiên, các đại từ thay thế là những từ có nghĩa không cụ thể, và nghĩa cụ thể của chúng có thể tìm được ở những từ, tổ hợp từ mà chúng thay thế”. Ví dụ: Đoàn du lịch sẽ đến Hội An vào trưa mai. Đoàn sẽ ỏ lại đấy một ngày đêm. - Nước ta là một nước văn hiến. Ai cũng bảo thế Trong khi đó, Trần Ngọc Thêm lại phân biệt rất rõ hai loại thế là thế đại từ và thế đồng nghĩa. Thế đại từ được Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “là việc sử dụng trong câu kết yếu tố đại từ tính (đại từ, tổ hợp tử có tính chất đại từ) thay thế cho yếu tố tương ứng với nó ở câu chủ, để tạo liên kết. Có thể coi đây là cách quy chiếu bằng yếu tố đại từ tính (khác với quy chiếu của phép thế đồng nghĩa ở từ 18 dùng để thay thế)”. Xét theo vị trí trước sau của yếu tố được thay thế và yếu tố thay thế, thế đại từ được chia làm hai loại là thế đại từ hồi chiếu và thế đại từ khứ chiếu. Ví dụ: - Thế đại từ khứ chiếu: Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. - Thế đại từ hồi chiếu: Tri thức là gì? Tri thức là hiểu biết. Phép thế đồng nghĩa được Trần Ngọc Thêm định nghĩa “là việc sử dụng trong câu kết yếu tố (từ, cụm từ) có cùng nghĩa với yếu tố tương ứng ở câu chủ, để tạo liên kết giữa hai câu. Tên gọi thế đồng nghĩa có tính chất quy ước, hiểu đồng nghĩa trong nghĩa rộng, không đơn giản là chỉ dùng từ đồng nghĩa.”. Thế đồng nghĩa được chia làm bốn loại là đồng nghĩa từ điển, đồng nghĩa phủ định, đồng nghĩa miêu tả và đồng nghĩa lâm thời. - Thế đồng nghĩa từ điển: Phụ nữ lại càng cần phải học. Đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới. - Thế đồng nghĩa phủ định: Nó phải đi hết chỗ này chỗ nọ, để kiếm cái nhét vào dạ dày. Để nó sống. Vì nó chưa chết. - Thế đồng nghĩa miêu tả: Cai lệ1 tát vào mặt chị một cái đánh bốp (…) Chị Dậu2, nghiến hai hàm răng (…) túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện1 chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền2, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất. - Thế đồng nghĩa lâm thời: Một số phường săn đến thăm dò để giăng bẫy bắt con cọp xám. Nhưng con ác thú tinh lắm, đặt mồi to và ngon đến đâu cũng không lừa nổi nó. Diệp Quang Ban là người công bố công trình nghiên cứu sau thực ra cũng có ý thức rất rõ về sự khác biệt này khi ông viết những dòng chú thích trong tác phẩm 19 Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản [NXB Giáo dục, HÀ Nội, 2009, tr. 378]: “Cách hạn chế phương thức thế trong khuôn khổ các đại từ thay thế, không tính đến các yếu tố từ vựng đồng nghĩa , gần nghĩa tương ứng là nét khác biệt của hệ thống liên kết này so với hệ thống liên kết của Trần Ngọc Thêm (1985 và 1999). Các từ ngữ đồng nghĩa, gần nghĩa có tác dụng liên kết được xếp vào phương thức liên kết từ vựng, do bản tính từ vựng của chúng, không cần tính đến vị trí cú pháp”. Như vậy, phép thế đồng nghĩa trong quan điểm của Trần Ngọc Thêm chính là phép liên kết từ vựng theo quan điểm của Diệp Quang Ban. Nói cách khác, Diệp Quang Ban không cho rằng tồn tại phép thế đồng nghĩa bởi ông là người theo quan điểm ngữ pháp cực đoan. Với Diệp Quang Ban, phép thế chỉ có thể hiểu là thế đại từ mà thôi. 1.3. Phép thế như một phương thức liên kết của văn bản nghệ thuật Ngữ pháp học truyền thống coi câu là đơn vị cơ bản, có ý nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp, có tính chất độc lập, có chức năng thông báo và tạo lập văn bản. Nói cách khác, giới ngữ pháp tập trung vào nghiên cứu câu như một đơn vị mang đặc tính tột cùng trong các thang bậc đơn vị của ngành học. Tuy nhiên, dần dần người ta đã nhận thấy, việc nghiên cứu ngữ pháp học theo cách chỉ tập trung vào đơn vị câu sẽ không thể giải quyết được nhiều vấn đề nảy sinh mà ngôn ngữ học hiện đại đã chỉ rõ. Trong một công trình nghiên cứu của J. R. Firth năm 1951,cho rằng nhiệm vụ trọng tâm của ngôn ngữ học miêu tả là phải nêu bật được ý nghĩa lời nói và nhà ngôn ngữ học phải quan tâm đến quá trình giao tiếp trong ngữ cảnh vì ngôn ngữ chỉ có nghĩa khi đặt trong một ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Thế nhưng Firth lại không phải là người đầu tiên nghiên cứu cấp độ trên câu. Và lúc đó do dưới sự ảnh hưởng của các nhà ngôn ngữ học như L. Bloomfield và tiếp theo là N. Chomsky vấn đề này dường như bị bỏ sang một bên. Cho đến mãi cuối thập kỉ 50 các nhà ngôn ngữ học mới thực sự trở lại vấn đề này. 20 Ở Việt Nam từ trước đến nay, chưa có nhiều lắm những công trình nghiên cứu về ngữ pháp văn bản nói chung và nối kết nói riêng. Xin nói ngay rằng, thay vì cách dùng thuật ngữ “nối kết”, các nhà ngữ pháp ở Việt Nam trước đến nay đa số sử dụng thuật ngữ liên kết. Vì lẽ đó, sau đây xin được điểm lại những công trình nghiên cứu về liên kết văn bản ở Việt Nam. Có thể điểm lại quan điểm 4 chuyên luận và một bài nghiên cứu của một số nhà Việt ngữ học. Đầu tiên là chuyên luận Hệ thống liên kết văn bản của Trần Ngọc Thêm xuất bản lần đầu năm 1985 và tái bản năm 1999, 2001. Tác phẩm thứ hai là cuốn Giao tiếp – Văn bản - Mạch lạc – Liên kết - Đoạn văn của Diệp Quang Ban với các lần xuất bản 1998, 1999 và 2002. Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt của Nguyễn Thị Việt Thanh. Chuyên luận thứ tư là Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc và tỉnh lược trong văn bản tiếng Việt của Phạm Văn Tình. Tuy nhiên, ngay từ tựa đề cho thấy, tác phẩm này đã tự giới hạn lại phạm vi của nó, chỉ khảo sát những đối tượng ngữ trực thuộc và các vấn đề tỉnh lược mà thôi. Tác phẩm gần đây nhất là bài báo Cơ sở nối kết lời tiếng Việt của Hoàng Cao Cương, đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ số 8+9/2007. Ngoài ra còn có thể kể đến một số không nhiều lắm các khóa luận tốt nghiệp làm về các phép liên kết trong văn bản mà một trong những khóa luận thực hiện sớm nhất có lẽ là khóa luận của Phạm Thị Ngoan (1983) do Trần Ngọc Thêm hướng dẫn với tên gọi Tìm hiểu phép liên tưởng như một phương tiện liên kết trong văn bản tiếng Việt hiện đại . Trần Ngọc Thêm trong tác phẩm của mình đưa ra sự phân biệt giữa liên kết hình thức và liên kết nội dung. Liên kết hình thức được hiểu là những dấu hiệu tạo liên kết trên bề mặt của văn bản, có thể được tổng kết và khái quát lại thành những thủ pháp. Còn liên kết nội dung chính là thứ liên kết vĩ mô, xuyên suốt toàn bộ văn bản và làm nên chủ đề của văn bản, quyết định việc hình thành văn bản. Theo đó, liên kết hình thức được Trần Ngọc Thêm tổng kết lại thành 10 phép, bao gồm: 1. Phép lặp 21 2. Phép đối 3. Phép thế đồng nghĩa 4. Phép liên tưởng 5. Phép tuyến tính 6. Phép thế đại từ 7. Phép tỉnh lược yếu 8. Phép nối lỏng 9. Phép tỉnh lược mạnh 10. Phép nối chặt Liên kết nội dung bao gồm hai bình diện là liên kết chủ đề và liên kết logic. Liên kết chủ đề bao gồm liên kết duy trì chủ đề và liên kết phát triển chủ đề. Liên kết logic bao gồm liên kết logic bên trong một câu và liên kết logic giữa câu với câu. Các phương tiện liên kết trong văn bản: Sự liên kết về hình thức được biểu hiện bằng những phương tiện ngôn ngữ nhất định hoặc là rõ ràng hoặc là không rõ ràng trên văn bản tiếng Việt có thể được phân loại như sau: Liên kết hình thức Liên kết tường minh Liên kết không tường minh Liên kết ngữ pháp Liên kết từ vựng ngữ ngĩa 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan