Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bước đầu nghiên cứu áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội...

Tài liệu Bước đầu nghiên cứu áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội

.PDF
75
240
76

Mô tả:

Bước đầu nghiên cứu áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội
TIỂU LUẬN: Bước đầu nghiên cứu áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội Lời mở đầu Môi trường đóng một vai trò cực kỳ to lớn, nó có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế và sự sống của con người, bởi vì nó không chỉ cung cấp các nguồn tài nguyên (đầu vào) cho các quá trình sản xuất, cung cấp tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa đựng và hấp thụ những chất thải của con người thải ra. Bảo vệ môi trường ngày nay trở thành cấp thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. ở Việt nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, phương pháp: “Mệnh lệnh – kiểm tra” đã và đang được sử dụng để thực hiện các mục tiêu về môi trường. Song, trong cơ chế mới - cơ chế kinh tế thị trường: “Mệnh lệnh – kiểm tra” chưa thể tạo điều kiện tốt để các doanh nghiệp lựa chọn được giải pháp tối ưu tuân thủ qui định của nhà nước về bảo vệ môi trường. Hiện nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, qúa trình công nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra nhanh chóng đã và đang gây ô nhiễm ngày càng tăng đối với môi trường nói chung và môi trường đô thị của thủ đô nói riêng. Do đó tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng các công cụ kinh tế được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với mục đích điều hoà các xung đột giữa phát triển kinh tế thị trường & bảo vệ môi trường. Các công cụ kinh tế sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động có kế hoạch đưa bảo vệ môi trường vào chi phí sản xuất, kinh doanh và hoạch toán giá thành sản phẩm. Công cụ kinh tế là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ môi trường, đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt là trong các nước công nghiệp phát triển (OEDC). Tính ưu việt của các công cụ kinh tế là chúng không những đưa ra được con số giới hạn tổ chức cho các quyết định về môi trường, mà còn cho phép định lượng riêng biệt từng trường hợp một cách linh hoạt, trong khi vẫn đảm bảo được yêu cầu chung về chất lượng môi trường trong toàn khu vực. Bên cạnh đó các công cụ kinh tế còn mang lại các lợi ích tiềm tàng như: Nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy sự đổi mới trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm và giảm bớt chi phí trong kiểm soát ô nhiễm. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi các hoạt động kinh tế được điều chỉnh theo cơ chế thị trường, trong đó chi phí để đảm bảo chất lượng môi trường rất khác nhau giữa các doanh nghiệp. Sự giám sát chất thải hoặc mức độ khai thác tài nguyên của các doanh nghiệp không còn dễ dàng như trong cơ chế quản lý theo kế hoạch hoá tập trung. Tuy nhiên, để công tác quản lý môi trường – cũng như các công cụ kinh tế được thực thi và đem lại hiệu quả đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cá nhân và cộng đồng. Đó là sự tham gia từ xây dựng đến thực thi chính sách môi trường là ngôi nhà chung của toàn nhân loại. Hơn nữa, nhà nước pháp quyền Việt nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên nhân dân vừa là chủ thể quản lý, vừa là khách thể quản lý. Như thế có nghĩa là nhân dân vừa là người quản lý, vừa là người bị quản lý. Với suy nghĩ như vậy, em rất vui mừng và hân hạnh được các thầy cô giáo giao cho nhiệm vụ nghiên cứu đề tài về “Bước đầu nghiên cứu áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội”. Chuyên đề của em gồm các phần chính như sau: Chương I: Cơ sở khoa học của việc sử dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi trường. Phần này trình bày các cơ sở phương pháp luận, cơ sở khoa học – Thực tiễn, cơ sở pháp lý của việc ứng dụng các công cụ kinh tế, bản chất nội dung, đồng thời giới thiệu sơ lược về công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. Chương II: Thực trạng sử dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội. Chương này nêu lên thực trạng ô nhiễm môi trường và quản lý môi trường trên địa bàn Hà nội. Chương III: áp dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội. Phần này đưa ra những cơ sở lý luận của những kiến nghị về chính sách và các giải pháp áp dụng công cụ kinh tế để nâng cao năng lực quản lý môi trường đô thị ở Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng. Chương I: Cơ sở khoa học của việc sử dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi trường I. khái niệm chung về quản lý môi trường, sự cần thiết phải quản lý môi trường. 1. Khái niệm chung về quản lý môi trường. Trước tiên chúng ta hiểu quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường ngoài. Quản lý môi trường là một dạng của quản lý. Đó là sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi trường nên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành các hoạt động phát triển trong hệ thống môi trường và khách thể quản lý môi trường, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý môi trường đã đề ra, phù hợp với luật pháp và thông lệ hiện hành. Sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi trường chính là việc tổ chức thực hiện các chức năng của quản lý môi trường nhằm phối hợp mục tiêu và các động lực hoạt động của mội người nằm trong hệ thống môi trường để đạt tới mục tiêu chung của hệ thống môi trường. Việc sử dụng tốt nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống là việc sử dụng có hiệu quả nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài của hệ thống môi trường trong điều kiện tương tác với các hệ thống khác, chấp nhận các rủi ro có thể xảy ra cho hệ thống. Việc tuân thủ luật pháp và các thông lệ (Công ước quốc tế) hiện hành là việc tiến hành các hoạt động phát triển theo đúng những điều mà luật pháp trong nước và quốc tế không cấm, những công ước mà thế giới đã thoả thuận. 2. Sự cần thiết phải quản lý môi trường. Xét về mặt tổ chức kỹ thuật của hoạt động quản lý, quản lý môi trường chính là sự kết hợp mọi sự lỗ lực chung của con người hoạt động trong hệ thống môi trường và việc sử dụng tốt các cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc phạm vi sở hữu của hệ thống môi trường để đạt tới mục tiêu chung của toàn hệ thống và mục tiêu riêng của cá nhân hoặc nhóm người một cánh khôn khéo và có hiệu quả nhất. Quản lý môi trường phải trả lời các câu hỏi “ Phải tiến hành các hoạt động phát triển nào, để làm gì?”, “Phải tiến hành hoạt động phát triển đố như thế nào, bằng cách nào?”, “Tác động tích cực và tiêu cực nào có thể xảy ra?”, “ Rủi ro nào có thể gánh chịu và cách sử lý ra sao?”. Quản lý môi trường được tiến hành chính là để tạo ra một hiệu quả hoạt động phát triển cao hơn, bền vững hơn so với hoạt động của từng cá nhân riêng rẽ hay của một nhóm người. Nói một cách khác, thực chất của quản lý môi trường là quản lý con người trong các hoạt động phát triển và thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của hệ thống môi trường. Là hoạt động chủ quan của chủ thể quản lý vì mục tiêu lợi ích của hệ thống, đảm bảo ch hệ thống môi trường tồn tại, hoạt động và phát triển lâu dài, cân bằng và ổn định vì lợi ích về vật chất và tinh thần của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau, vì lợi ích của cá nhân, cộng đồng địa phương, vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế. II. Đối tượng, mục tiêu, nội dung và các nguyên tắc của quản lý nhà nước về môi trường. 1. Đối tượng của quản lý môi trường. Quản lý môi trường, trước hết là quản lý một hệ thống bao gồm các phần tử (yếu tố) tự nhiên và nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên. Đó là một hệ thống bao gồm các phần tử của thế giới vô sinh và hữu sinh hoạt động theo những qui luật khác nhau và có con người tham dự. 2. Mục tiêu của quản lý môi trường. Mục tiêu chung, lâu dài và nhất quán của quản lý môi trường là nhằm góp phần tạo lập sự phát triển bền vững. Đó là cách phát triển “Thoả mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng thoả mãn nhu cầu của thế hệ mai sau”. Và được xem là một tiến trình đòi hỏi sự tiến triển đồng thời của cả bốn lĩnh vực: Kinh tế, xã hội nhân văn, môi trường và kỹ thuật với những mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực. Giữa bốn lĩnh vực này có mối quan hệ tương tác rất chặt chẽ và hành động trong lĩnh vực này có thể thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển. Chẳng hạn néu muốn phát triển kinh tế theo kiểu bền vững, thì không thể không chú ý đến những khó khăn nan giải về môi trường hoặc dựa vào sự huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên, và sự phát triển cũng không thể thành công, nêu snhư không có sự phát triển đồng thời tài nguên nhân văn, nó cũng đòi hỏi sự chuyển dịch cơ sở công nghiệp hiện tại, phát triển và quảng bá những kỹ thuật và công nghệ thân thiện với môi trường, với hành tinh nói chung. 3. Nội dung của quản lý môi trường. Quản lý môi trường được tiến hành ở cả cấp vĩ mô và vi mô. ở cấp vĩ mô, quản lý môi trường bao gồm các nội dung sau đây: + Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường. + Xây dựng,chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng – chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. + Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường. + Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường. + Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh. + Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường. + Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường: giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. + Đào tạo cán bộ về học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức – pháp luật về bảo vệ môi trường. + Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. + Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 4. Các nguên tắc quản lý môi trường. 4.1. Khái niệm. Các nguyên tắc quản lý môi trường là các qui tắc chỉ đạo những tiêu chuẩn hành vi mà các chủ thể quản lý phải tuân thủ trong suốt quá trình quản lý môi trường. 4.2. Yêu cầu của các nguyên tắc quản lý môi trường. + Thể hiện được yêu cầu của các qui luật khách quan. + Phù hợp với mục tiêu quản lý. + Phải phản ánh khách quan và đúng đắn tính chất và các mối quan hệ quản lý. + Phải đảm bảo tính hệ thống, tính thống nhất, nhất quán và được bảo đảm bằng pháp luật. 4.3. Các nguyên tắc quản lý môi trường. Các nguyên tắc quản lý môi trường phải phản ánh yêu cầu khách quan của các qui luật tự nhiên, kinh tế xã hội đang chi phối quá trình quản lý môi trường. Đối với nước ta, quản lý môi trường cần dựa và những nguyên tắc sau đây: + Bảo đảm tính hệ thống. + Bảo đảm tính tổng hợp. + Bảo đảm tính tập trung dân chủ. + Kết hợp quản lý theo nghành và quản lý theo lãnh thổ. + kết hợp hài hoà các lợi ích. + Tiết kiệm và hiệu quả. III. Các công cụ quản lý môi trường. 1. Khái niên chung về công cụ quản lý môi trường. Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp và phương tiện giúp cho việc thực hiện những nội dung của quản lý môi trường được tốt hơn. Phân loại công cụ quản lý môi trường, theo chức năng có ba loại: Công cụ điều chỉnh vĩ mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Theo bản chất gồm có các công cụ luật pháp chính sách, công cụ kinh tế và công cụ kỹ thuật quản lý. Xét trên giác độ kinh tế và quản lý môi trường về mặt nhà nước có thể phân thành hai loại công cụ cơ bản: + Công cụ pháp lý. + Công cụ kinh tế. 2. Cưỡng chế hành chính bằng luật pháp và tiêu chuẩn. 2.1. Mệnh lệnh và kiểm soát (CAC). Hai phương thức chính để kiểm soát và quản lý chất thải là mệnh lệnh và kiểm soát và các chiến lược kinh tế. Kể từ khi khởi đầu các chính sách môi trường ở phàn lớn các nước công nghiệp hoá, các chính sách đã có xu hướng sử dụng mệnh lệnh và kiểm soát (Tức là qui định trực tiếp cùng với các hệ thống giám sát và cưỡng chế) như một chiến lược chính thống trong kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải. Phương cách này nói chung, đòi hỏi chính phủ phải đặt ra các mục tiêu môi trường lấy sức khoẻ con người hoặc sinh thái làm gốc, hoặc qui định các tiêu chuẩn, lượng các chất ô nhiễm được phép thải bỏ, hoặc công nghệ mà những người gây ô nhiễm có thể sử dụng để đạt được những mục tiêu ấy. Trong phần lớn các trường hợp phương thức mệnh lệnh và kiểm soát còn qui định thời gian biểu cho việc đáp ứng tiêu chuẩn, các thủ tục cấp phép và cưỡng chế thực thi đối với các phương tiện, qui trach nhiệm pháp lý và những hình phạt đối với những người vi phạm. trách nhiệm xây dựng và buộc thực hiện các tiêu chuẩn cùng các yêu cầu khác, được chia sẻ, theo các qui định của pháp luật, giữa các cấp chính quyền quốc gia và địa phương. Mặc dù chiến lược mệnh lệnh và kiểm soát đã đạt được các tiến bộ đáng kể trong nhiệm vụ giảm bớt ô nhiễm, nhưng nó cũng đã bị phê phán là không hoàn thành được các mệnh lệnh và thời hạn cuối cùng pháp lý khác nhau, không hiệu quả kinh tế và khó thực thi. Các chiến lược này không có hiệu quả đối với các cơ quan điều chỉnh cần có các thông tin chi tiết về các qúa trình sản xuất và về sự thích hợp của các thiết bị kiểm soát ô nhiễm khác nhau. Đối với các nghành công nghiệp đa dạng, thì việc có được những thông tin và tri thức chuyên sâu cần thiết đối với từng nghành công nghiệp, là một công việc cực kỳ tốn kém tiền của và thời gian. Chỗ yếu khác của phương thức này là chi phí cao cho việc kiểm soát ô nhiễm lên hiếm có cơ hội để tận dụng được qui mô kinh tế. Mặc dù các tiêu chuẩn có thể được áp dụng khác nhau, tuỳ thuộc vào tuổi và loại phương tiện, phần lớn những người gây ô nhiễm sử dụng cùng một qúa trình sản xuất, lại cũng phải yêu cầu phải đáp ứng một tiêu chuẩn. Những người gây ô nhiễm có khả năng giảm ô nhiễm với chi phí thấp hơn lại không có cơ hội để thực hiện. Hơn nữa, có rất ít sự linh động đối với những người gây ô nhiễm đã đàu tư vào một kiểu hệ thống kiểm soát ô nhiễm nào đó. Kết quả là, phương thức mệnh lệnh và kiểm soát ô nhiễm ít khuyến khích đổi mới trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm, một khi tiêu chuẩn đã đạt được rồi. Hơn nữa, phương thức này là không đủ và không hữu hiệu trong việc giải quyết nhiều vấn đề kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải mà các nhà quản lý môi trường gần đây đã gặp phải như: ô nhiễm không khí nguồn điểm (Nonpoint source pollution) (Như nước thải Nông nghiệp và Đô thị), đổ bỏ chất thải rắn, các vấn đề môi trường toàn cầu như suy giảm tầng ôzôn và sự thay đổi khí hậu. Phương thức mệnh lệnh và kiểm soát để kiểm soát ô nhiễm mà quản lý chất thải, chủ yếu dựa vào các công cụ pháp lý (Các tiêu chuẩn, các giấy phép, kiểm soát việc sử dụng đất…). 2.2. Các tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn là phương tiện chính để trực tiếp điều chỉnh chất lượng môi trường ở hầu hêt các nước phát triển. Chúng xác định các mục tiêu môi trường và đặt ra số lượng hay nồng độ của các chất thải vào khí quyển, đất, nước hay được phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng. Các loại tiêu chuẩn gồm: Các tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh, tiêu chuẩn thải nước, khí, các tiêu chuẩn dựa vào công nghệ, các tiêu chuẩn vận hành, các tiêu chuẩn sản phẩm và các tiêu chuẩn về qui trình công nghệ. Các tiêu chuẩn cũng có thể bao gồm các qui cách kỹ thuật và thiết kế của các kỹ thuật hoặc phương tiện và sự tiêu chuẩn hoá các phương pháp lấy mẫu hoặc phân tích. Trong một số trường hợp, khi xây dựng các tiêu chuẩn môi trường hoặc giới hạn thải bỏ đã cân nhắc đến việc chuyển các chất thải từ một môi trường trung gian này sang sang một môi trường trung gian khác, cũng như sự đáp ứng môi trường đối với chất ô nhiễm. Một loạt tiêu chuẩn được dùng làm qui chế cho việc đánh giá hoặc mục tiêu hành động và kiểm soát pháp lý. Nói chung, tiêu chuẩn là do Chính phủ trung ương xây dựng, tuy nhiên trong một số trường hợp Chính phủ trung ương chỉ đặt ra những qui định khung để chính quyền địa phương, khu vực thực hiện. Các tiêu chuẩn cấp bộ nghành nói chung không kém chặt chẽ trừ các trường hợp thật đặc biệt, một số trường hợp có thể chặt chẽ hơn tiêu chuẩn quốc gia. Việc xây dựng tiêu chuẩn dựa trên giả định đã có cơ quan giám sát để giám sát những hoạt động của những người gây ô nhiễm và có quyền ra lệnh phạt những người vi phạm. nếu cơ quan phụ trách không có quyền cưỡng chế thi hành thì điều duy nhất khiến người gây ô nhiễm phải làm đúng tiêu chuẩn sẽ là lương tri xã hội. Do vậy, nói chung tiêu chuẩn phải gắn với hình phạt (Như phạt tiền đối với người vi phạm, thu hồi giấy phép), những người gây ô nhiễm cũng có thể bị hoặc đe doạ bị truy tố trước pháp luật. *** 2.3. Các loại giấy phép. Việc cấp hoặc không cấp các loại giấy phép hoặc các loại uỷ quyền khác là một công cụ quan trọng để kiểm soát ô nhiễm. Các loại giấy phép nói chung thường được gắn kết với các tiêu chuẩn về chất lượng nước hay không khí và có thể còn phải thoả mãn những điều kiện cụ thể như phù hợp với qui phạm thực hành, lựa chọn địa điểm thích hợp để giảm tới mức tối thiểu những ảnh hưởng kinh tế và môi trường, lắp đặt một nhà máy sử lý hay một thiết bị kiểm soát ô nhiễm trong vòng một thời gian nhất định, hoặc sử dụng các biện pháp bảo vệ môi trường khác. một lợi thế chính của các loại giấy phép là chúng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các chương trình môi trường bằng cách ghi vào văn bản tất cả những kiểm soát ô nhiễm của cơ sở đó. Những lợi thế khác có thể rút hoặc tạm treo các giấy phép, tuỳ theo nhu cầu của nền kinh tế quốc dân hay lợi ích xã hội khác, và thường yêu cầu phải trả lệ phí để trang trải các chi phí cho chương trình kiểm soát ô nhiễm. 2.4. Công tác kiểm soát việc sử dụng đất và nước. Kiểm soát việc sử dụng đất (Như khoanh vùng, các qui định về chia nhỏ) chủ yếu là công cụ của chính quyền địa phương được áp dụng để bảo vệ môi trường. Khoanh vùng có thể định nghĩa là sự phân chia lãnh thổhay một khu vực hành chính khác thành quận, huyện và những qui định về việc được phép sử dụng đất, chiều cao, qui mô của các toà nhà hay cấu trúc khác trong những quận, huện đó (Ví dụ: Phần trăm tối đa diện tích mặt bằng có thể sử dụng được, so với tổng diện tích lô đất) kích thước tối thiểu của lô đất được cấp và mật độ dân số. Do vậy, khoanh vùng có thể ngăn ngừa việc bố trí các nghành công nghiệp gây ô nhiễm tại các địa điểm không thích hợp làm ảnh hưởng tới địa phương. Các biện pháp kiểm soát đối với việc sử dụng nước đặc biệt có thể được tiêu dùng để giới hạn hoặc cấm việc phát triển năng lượng, khai thác tài nguyên thiên nhiên tại bờ sông, đáy biển, các hoạt động giải trí (Câu cá, bơi, bơi thuyền) và sử dụng có nhiều khả năng gây ô nhiễm khác, tại các vùng nước qui định. Trong nhiều trường hợp, những qui định này tạo một bộ phận của các biện pháp qui hoạch khu vực, hoặc qui hoạch đặc biệt, nhằm mục đích quản lý vùng ven biển, các vườn quốc gia, các bờ biển và các khu bảo tồn. 3. Giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức. 3.1. giáo dục. Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng, mang tính xã hội rộng lớn, đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ dân trí. Thông qua giáo dục, ý thức bảo vệ môi trường của cá nhân và cộng đồng ngày một nâng cao. Thực tế cho thấy rằng ở các quốc gia, các vùng, các địa phương khác nhau có những nhạn thức khác nhau về môi trường và tầm quan trọng của nó. Cho nên, ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường cũng khác nhau. Môi trường là ngôi nhà chung của nhân loại, là tài sản vô giá của con người. Để bảo vệ môi trường tốt hơn, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống toàn diện của con người hướng tới một xã hội bền vững, cần phải tiến hành giáo dục thường xuyên, tuyên truyền sâu rộng ở khắp mọi nơi, mọi lúc về môi trường và bảo vệ môi trường. Qua qúa trình đi thực tập vừa qua, theo ý kiến chủ quan của tôi thì việc giáo dục môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân ở Việt nam cần phải tập trung vào những hướng chính sau đây: + Giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường là môn khoa học bắt buộc đưa vào trong cơ cấu chương trình của môn học bậc phổ thông từ cấp tiểu học cho đến hết cấp trung học. ở bậc đại học, tuỳ theo đặc trưng của nghành học, mà xây dựng nội dung chương trình môn học cho phù hợp, nhưng về cơ bản có hai dạng chính là: Giáo dục môi trường cho giai đoạn đại cương và giáo dụcđào tạo môi trường chuyên nghành. + Giáo dục môi trường cho các nhà quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh và hoạch định chính sách. Đối với đối tượng này, những kiến thức về kinh tế môi trường phải là bộ phận bắt buộc trong cơ cấu kiến thức chuyên môn. + Đối với quảng đại quần chúng cần có những chương trình chuyên sâu, liên tục thông qua các chương trình, hoạt động bổ ích thiết thực, tránh hình thức. Tuy nhiên, hiệu quả của chương trình, hoạt động này phải được hỗ trợ đắc lực của pháp luật, các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Nếu chương trình hoạt động tuyên truyền, giáo dục công chúng này có kết quả sẽ đạt được mục tiêu kép: một là, nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân, từ đó có thể tiết kiệm được những chi phí cho việc giám sát sử lý ô nhiễm môi trường; hai là, khi bảo vệ môi trường đảtở thành ý thức của nhân dân, có thể tạo ra được áp lực ngày càng mạnh mẽ và sắc bén để bảo vệ môi trường, nhất là trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.2. Truyền thông môi trường. Truyền thông môi trường tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi thái độ hành vi của con người trong cộng đồng, từ đó thúc đẩy họ tự nguyện tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường từ đơn giản nhất cho đến phức tạp nhất, và không những chỉ tự mình tham gia vào mà còn lôi cuốn những người khác cùng tham gia tạo ra các kết quả có tính đại chúng. Truyền thông môi trường là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho các loại công cụ khác trong quản lý môi trường. Trong bối cảnh quốc gia nói chung và các tỉnh, thành phố nói riêng tại Việt nam hiện nay, khi mà công cụ kinh tế môi trường, công cụ kỹ thuật công nghệ môi trường… đang tìm cách thích ứng để thâm nhập vào đời sống xã hội một cánh không dễ dàng thì truyền thông môi trường cần phải được sử dụng và khai thác tối đa hiệu quả các lợi thế của nó, ngay trước mắt cũng như thường xuyên, lâu dài để khơi dậy mọi nguồn lực trong cộng đồng cùng tham gia vệ sinh môi trường, tức xã hội hoá công tác môi trường. Tuy nhiên, truyền thông môi trường rất đặc biệt vì: + Môi trường là một hệ thống phức tạp. + Tác động và hậu quả của hành vi không phù hợp với môi trường không dễ dàng thấy được ngay. + Nhiều người gây tác động đến môi trường thường không mang lại lợi nhuận trực tiếp. + Đối tượng truyền thông là những người có trình độ học vấn, chuyên môn, kinh nghiệm sống, vị trí xã hội… rất khác nhau. Do đó, mục tiêu của truyền thông môi trường phải gắn liền với cộng đồng qua các nội dung cụ thể sau: + Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tình trạng của họ quan tâm đến việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục. + Huy động, các kinh ngiệm kỹ năng, bí quyết địa phương tham giavào các chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường. + Thương lượng hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp môi trường giữa các cơ quan, trong nhân dân. + Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi trường – xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. + Thông qua đối thoại thường xuyên trong xã hội khả năng thay đổi các hành vi sẽ được hữu hiệu hơn. Ta có sơ đồ diễn tả mối liên hệ truyền thông môi trường như sau: Vấn đề môi trường. Truyền thông môi trường Tác động Cộng đồng có liên quan. Điều chỉnh Sau đây là sơ đồ của các bước truyền thông hữu hiệu: Tài liệu hoá và giám sát Phân tích tình hình và xác định vấn 1 2 Phân tích khâu thính giả và kiến thức, tập quán của họ 9 3 Trình diễn của các phương tiện truyền thông và áp dụng Mục tiêu truyền thông Sự tham gia của cộng đồng địa phương 4 8 Xây dựng chương trình truyền Tạo sản phẩm và làm thử 7 Thiết kế thông điệp Đánh giá Lập kế hoạch Hoạt động và phân phối Lựa chọn phương tiện truyền thông và kết hợp 5 6 Tạo sản phẩm 3.3. Hiện nay, Ngân hàng thế giới đã phát triển và cổ vũ cho một cách tiếp cận mới: Sử dụng thông tin như là một công cụ quản lý để hỗ trợ cho các phương pháp quản lý môi trường bằng công cụ pháp qui và công cụ kinh tế, đã trở lên quen thuộcvới doanh nghiệp và Chính phủ. Thông tin về mức độ tuân thủ môi trường của các doanh nghiệp được thu thập đầy đủ, chính xác , toàn diện nhiều mặt mang tính hỗ trợ bổ sung cho nhau. Và thông tin này được phổ biến cộng đồng một cách phù hợp với hoàn cảnh địa phương và phương thức ứng xử theo truyền thống văn hoá cộng đồng tại địa phương. Cộng đồng có ý thức về môi trường và hiểu biết về sử dụng thông tin từ đó chủ động tham gia vào các hoạt động tại địa phương tạo ra những thách thức cho các doanh nghiệp phải thay đổi hành vi về môi trường trong hoạt động kinh doanh của mình. 4. Các công cụ kinh tế. Khác với cách tiếp cận của công cụ pháp chế. Các công cụ kinh tế lấy nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường làm cơ sở để cân bằng phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường, tạo điều kiện để công tác bảo vệ môi trường trở thành động lực phát triển sản xuất. Các công cụ kinh tế sử dụng để đạt được mục tiêu môi trường bằng cách tạo cơ hội và điều kiện để nhà sản xuất chuyển chi phí bảo vệ môi trường gián tiếp cho người tiêu dùng. Bằng cách đó sẽ khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư bảo vệ môi trường xứng với mức đầu tư phát triển sản xuất. Để hiểu rõ hơn và phù hợp với vai trò của công cụ kinh tế trong đề tài này. Ta đi tìm hiểu về công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. I\/: Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. 1. Công cụ kinh tế là gì? Tại sao phải áp dụng công cụ kinh tế? 1.1. Công cụ kinh tế là gì?. Công cụ kinh tế là những chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của những hành động của hoạt động kinh tế thường xuyên xảy ra tác động tới môi trường, tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra huỷ hoại môi trường. Công cụ kinh tế sử dụng sức mạnh thị trường để đề ra các quyết định nhằm đạt tới mục tiêu môi trường, từ đó sẽ có cách ứng sử hiệu quả chi phí cho bảo vệ môi trường. Công cụ kinh tế đơn giản là con đườngmà Chính phủ có thể thay đổi hành vi ứng xử của mọi người. Thông qua việc lựa chọn những phương thức kinh tế khác nhau hoặc giảm thiểu chi phí trên thị trường nhằmđạt mục tiêu môi trường. Công cụ kinh tế là biên pháp cung cấp “Những tín hiệu thị trường để giúp cho những người ra quyết định ghi nhận hiệu quả môi trường trong việc lựa chọn của họ”. Từ các địng nghĩa trên, ta có thể rút ra hai điểm làm sáng tỏ thêm nội dung của công cụ kinh tế của phương tiện chính sách. 1) Công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá của các hành động làm tổn hại đến môi trường hoặc hạ giá cả của các hành động bảo vệ môi trường xuống. 2) Công cụ kinh tế dành khả năng lựa chọn cho các công ty và cá nhânhành động sao cho phù hợp với điều kiện của họ. Như vậy, công cụ kinh tế tương phản thường xuyên với các qui định “Mệnh lệnh và kiểm soát – CAC”. Đó là hai mặt của phương tiện chính sách “Mệnh lệnh và kiểm soát – CAC” được tiến hành thông qua những cơ chế ra lệnh cho các hành động môi trường xử phạt nếu không tuân thủ các qui định của nhà nước. Ngược lại, các công cụ kinh tế duy trì một tập hợp tương đối rộng rãi các hành động môi trường có tính pháp lý, nhưng có xác định những hậu quả khác nhau đối với những sự lựa chọn khác nhau. Từ những trình bày trên ta thấy: + Công cụ kinh tế là một trong những phương tiện chính sách được sử dụng để đạt tới mục tiêu môi trường thành công. + Công cụ kinh tế không phải là phương tiện chính sách riêng biệt mà chúng được sử dụng thường xuyên cung với các phương tiện chính sách khác như đã qui định pháp lý về “Mệnh lệnh và kiểm soát – CAC”. 1.2. Tại sao phải sử dụng công cụ kinh tế? ở Việt nam, quan niệm công cụ kinh tế như là một phương tiện chính sách quản lý môi trường là điều hoàn toàn mới mẻ. Trước thời kỳ đổi mới, quản lý đất nước chủ yếu bằng mệnh lệnh, chỉ huy từ một trung tâm gần giống như CAC ở các nước tư bản. Từ khi đổi mới đến nay, mặc dù tàn dư của chế độ cũ còn khá nặng nề nhưng chúng ta đã từng bước đổi mới, nhìn nhận khôn khéo và khách quanhơn trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế đất nước. Trong hoạt động bảo vệ môi trường, khoảng 30 năm trước đây các nước tư bản phương tây cũng chỉ áp dụng như công cụ quản lý “Mệnh lệnh và kiểm soát – CAC” để quản lý môi trường, nhưng thực tế cho thấy chỉ bằng “Mệnh lệnh và kiểm soát – CAC” đã không đạt được hiệu quả mong muốn. Bởi vì sự cắt giảm dần năng lực quản lý môi trường, thêm vào đó là sự quan tâm tới môi trường mang tính cứng nhắc, thiếu linh hoạt, CAC trở thành ưu tiên cao hơn phương tiện chính sách thông qua giá cả. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao phương tiện chính sách thông qua cơ chế tài chính lại có linh hoạt và mềm dẻo để cho mọi cá nhân, các doanh nghiệp và các công ty có thể hưởng ứng giá mong muốn. Đó là vì ba điều thuận lợi chủ yếu: + Tăng hiệu quả đầu tư. + Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới. + Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin tốt hơn. 2. Các nguyên tắc. 2.1. nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). Nguyên tắc PPP có nguồn gốc từ sáng kiến của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OEDC) đề ra năm 1972 và 1974. PPP tiêu chuẩn năm 1972 cho rằng, những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP “Mở rộng” năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ra ô nhiễm thì ngoài việc phải tuân thủ các chi phí khắc phục ô nhiễm gây ra còn phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm khắc phục và hoàn trả. Ví dụ: Giả sử có một công ty sản xuất giấy từ các vật liệu thô. Trong qúa trình sản xuất, họ tự tiện thải các chất thải gây ô nhiễm vào sông dưới dạng các sản phẩm thải loại, mà không phải trả một đồng nào cả. như vậy là công ty đã gây ra thiệt hại cho môi trường, nhưng lại không bị thu phí để bồi thường thiệt hại này. Nguyên tắc PPP cho rằng công ty đó phải dặt thiết bị giảm thiểu ô nhiễm hoặc phải bồi thường cho những người sống ở cuối dòng sông, tức là những người bị thiệt hại do việc làm ô nhiễm dòng sông gây ra. Xuất phát từ những luận điểm của Pigou về kinh tế phúc lợi. Nội dung quan trọng nhất đối với một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hoá và dịch vụ có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường (Chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng nhưca dạng chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hoá dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn đến viêc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm môi trường trở lên trầm trọng hơn so với mức tối ưu đối với xã hội. Việc buộc người gây ô nhiễm phải trả tiền là một trong những cách tốt nhất để làm giảm bớt các tác động của ngoại ứng gây tác động xấu tới môi trường. Có những trường hợp nguyên tắc PPP bị phản đối. Bởi vì: + Thứ nhất: Các tác nhân gây ô nhiễm có thể được cung cấp, trợ giúp về tài chính kỹ thuật, trong khi đó nguyên tắc PPP đòi hỏi phải được áp dụng nhằm đạt được các mục tiêu môi trường rộng rãi và sâu sắc. + Thứ hai: Nếu thực hiện nguyên tắc PPP được dự kiến là dán đoạn quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một thời gian ngắn, thì những người gây ô nhiễm vẫn có thể được trợ giúp tương tự như trên. Mặc dù nguyên tắc PPP tự nó sẽ còn phát triển tiếp tục nhưng gần đây, nó đã được củng cố bởi bốn nguyên tắc cơ bản khác nhằm tạo ra các nguyên tắc chủ đạo cho việc hoạch định các chính sách môi trường “ nguyên tắc phòng ngừa”, “ nguyên tắc hiệu quả kinh tế, tiết kiệm chi phí”, “nguyên tắc cấp dưới” và “nguyên tắc hiệu quả về luật pháp”. Những nguyên tắc này đã bổ xung cho các thiếu sót của nguuyên tắc PPP. 2.2 Nguyên tắc người hưởng thụ phải trả tiền (BPP). Nguyên tắc này chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường. Đối nghịch với việc trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản chi phí. Nói cách khác là trong tất cả những ai hưởng lợi do có được môi trường trong lành, không bị ô nhiễm thì đều phải nộp phí. Nguyên tắc đưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường với cách nhìn nhận tương đối là việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cao chất thải gây ô nhiễm môi trường. Về thực chất, nguyên tắc BPP có thể được sử dụng như là một định hướng hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu môi trường, cho dù là mục tiêu bảo vệ hay là phục hồi môi trường. Nếu mức phí có thể thu đủ để dành cho các mục tiêu môi trường, thì lúc đó chính sách này có thể coi là chính sách có hiệu quả về môi trường. Mục tiêu của BPP là nhằm bảo vệ môi trường, do đó nó được công chúng ủng hộ rộng rãi. Xét về mặt hiệu quả kinh tế, thì nguyên tắc BPP là nguyên tắc có tính phù hợp cao, ví rằng hiệu quả kinh tế chỉ có thể đạt được nếu các nguồn lợi được sử dụng tối ưu. Do vậy, hiệu quả kinh tế có thể đạt được nếu việc xác định mức phí, lệ phí môi trường đưa ra ở mức tối ưu và khoản phí, lệ phí thu được chủ yếu phục vụ cho các biện pháp cụ thể liên quan đến bảo vệ môi trường.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng