Phân tích cơ sở pháp lý của hoạt động bảo lãnh ngân hàng và thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại tổ chức tín dụng năm 2015
MỞ ĐẦU
Bảo lãnh là một trong những sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, là nghiệp vụ
chính của ngân hàng, đem lại cho ngân hàng những lợi nhuận dáng kể. Hoạt động
bảo lãnh đã và đang góp phần làm tăng vị thế của ngân hàn, mở rộng quan hệ đại
lý trên thị trường trong nước và quốc tế, thúc đẩy giao dịch vốn và các giao dịch
kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng, đầu tư, thực hiện hợp đồng,… .
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở nước ta thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả
dáng kể, góp phần tích cực vào sự thành công của các giao dịch kinh tế. Chính vì
vậy, việc không ngừng nâng cao pháp luật về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ở nước
ta là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay. Sau đây, em xin đi sâu tìm hiểu
đề tài: “Phân tích cơ sở pháp lý của hoạt động bảo lãnh ngân hàng và thực
trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại tổ chức tín dụng năm 2015.”
NỘI DUNG
A.CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
I.
Tổng quan về bảo lãnh ngân hàng
1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Khái niệm bảo lãnh dưới góc độ kinh tế xã hội và góc độ pháp lý được hiểu
theo các cách khác nhau. Ngoài ra, khái niệm bảo lãnh theo quy định của pháp luật
các nước khác nhau cũng có những điểm khác biệt.
Bảo lãnh được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, bảo lãnh là bảo người khác
thực hiện một nghĩa vụ và chịu trách nhiệm nếu người đó không thực hiện; Thứ
hai, bảo lãnh là việc dung tư cách, uy tín của mình để bảo đảm cho hành động, tư
cách của người khác. Nhìn chung khái niệm bảo lãnh được quy định tương đối
giống nhau trong pháp luật các nước.
Trong pháp luật đân sự nước ta khái niệm bảo lãnh được nêu trong Điều 361
Bộ luật Dân sự: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam
kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
thế cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các
bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi
bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì: “Bảo lãnh ngân hàng
được hiểu là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên
nhân bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
đã cam kêt; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thảo
thuận.”
Điều 2 khoản 1 quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của
thống đốc ngân hàng Nhà nước có quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng
văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh)
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số
tiền đã được trả thay.”
2. Đặc điểm bảo lãnh ngân hàng
Về bản chất, bảo lãnh ngân hàng là hình thức bảo đảm nghĩa vụ (giao dịch
đảm bảo) mang tính phải sinh. Với tính chất đó, bảo lãnh ngân hàng có những đặc
điểm sau:
- Bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch thương mại đặc thù: Một mặt, bảo lãnh
ngân hàng do tổ chức tín dụng (chủ yếu là các ngân hàng) thực hiện với tính chất
chuyên nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Mặt khác, khi thực hiện nghiệp vụ bảo
lãnh, ngân hàng phải sử dụng đến các chuyên môn nghiệp vụ của mình nhằm bảo
đảm an toàn cho nguồn vốn bỏ ra khi nhận vai trò người thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng. Hoạt động nà chịu sự chi phối của các quy định pháp
luật và các quy định riêng của từng ngân hàng áp dụng cho quan hệ bảo lãnh có
tính chất chuyên nghiệp của các tổ chức tín dụng như thủ tục bảo lãnh, phí bảo
lãnh, giới hạn bảo lãnh và chế tàu đối với các bên vi phạm cam kết trong quan hệ
bảo lãnh.
- Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau: Để thiết lập quan hệ
bảo lãnh thì swh thoat thuận giữa bên bả lãnh và bên nhận bảo lãnh là điều kiện bắt
buộc. Thông thường bảo lãnh bao gồm bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên
được bảo lãnh; nhưng về mặt pháp lý thì quan hệ bảo lãnh chỉ đòi hỏi bắt buộc
phải có hai bên là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ bảo lãnh phát sinh hay chấm dứt là phụ thuộc lẫn nhau.
- Tính độc lập trong trách nhiệm thanh toán: Mặc dù mục đích của bảo lãnh
ngân hàng là bồi hoàn những thiệt hại từ việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ của bên được bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên,
tính độc lập thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân hàng. Ở bất kỳ trường
hợp nào thì ngân hàng cũng phải thanh toán hoàn toàn tài sản bảo lãnh nếu bên
được bả lãnh không chó khả năng thanh toán.
3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
- Bảo lãnh ngân hàng là chức năng bảo đảm: đây là chức năng chính của bảo
lãnh ngân hàng, nó cung cấp cho người thụ hưởng một sự bảo đảm chắc chắn với
quyền lợi của họ.
- Bảo lãnh ngân hàng là công cụ tài rợ vốn: Không chỉ là bảo đảm, bảo lãnh
còn là công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh, người được
bảo lãnh không phải xuất vốn, hỗ trự thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được
kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực
tiếp cấp vốn cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng được hưởng
những lợi nhuận về vốn như trong trường hợp cho bay.
- Bảo lãnh ngân hàng có chức năng đôn độc hoàn thành hợp đồng: Bảo lãnh
ngân hàng cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được
bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và
ngân hàng có quyền đòi lại khoản tiền này. DO đó, ngân hàng luôn phải theo dõi,
kiểm tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện hợp đồng cảu bên được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh luôn phải chịu một áp lực cho việc bồi hoàn bảo lãnh khi
không hoàn thành hợp đồng đã ký kết.
4. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng
- Đối với doanh nghiệp: Bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng sản
xuất của doanh nghiệp. Nhờ có bảo lãnh ngân hàng, doanh nghiệp có điều kiện tìm
kiếm đối tác, tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng không tốn nhiều thời gian và
kinh ohis, đồng thời hạn chế rủi do đến với bên nhận bảo lãnh. Khi được ngân
hàng bảo lãnh thì doanh nghiệp phải chịu một khoản phí bảo lãnh, điều này đòi hỏi
các doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiêp.
- Đối với ngân hàng: Bảo lãnh ngân hàng đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân
hàng thong qua cho phí bảo lãnh, phí này đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng,
nó chiếm tỷ trọng không nhỏ so với tỷ trọng các lợi nhuận thu được từ các nghiệp
vụ khác của ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, bảo lãnh ngân hàng góp phần không nhỉ
tring việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng.
II.
Pháp luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Phân loại theo phương thức bảo lãnh:
Bảo lãnh trực tiếp: là hình thức ngân hàng trực tiếp thanh toán tiền bảo lãnh
cho người thụ hưởng mà không thong qua một trung gian nào, sau đó truy đòi nợ
từ người được bảo lãnh, Việc phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng có thể
thong qua một ngân hàng trung gian có thể là ngân hàng đại lý hoặc ngân hàng thụ
hưởng nhưng đều gọi chung là ngân hàng thong báo.
Bảo lãnh gián tiếp: là hình thức bảo lãnh qua đó người yêu cầu bảo lãnh
không liên hệ trực tiếp với ngân hàng phát hành mà thông qua một ngân hàng trung
gian là ngân hàng phục vụ mình hoặc ngân hàng có điều kiện thuận lựi hơn trong
việc giao dịch với ngân hàng phát hành.
Đồng bảo lãnh: là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa
vụ của khách hàng thong qua một tổ chức tín dụng đầu mối.
2. Chủ thể trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng
Nghiệp vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng vốn mang bản chất hoạt động
thương mại nên có cấu trúc pháp lý khá đặc thù bao gồm sự gắn kết giữa hai hợp
đồng: Hợp đồng bảo lãnh được ký kết giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh và
hợp đồng dịch vụ được ký jeets giữa bên bảo lãnh với bên được bảo lãnh.
Cấu trúc của hoạt động bảo lãnh ngân hàng gồm:
• Bên bảo lãnh: là các tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh bao
gồm Các tổ chức tín dụng thành lập và hoatj động theo Luật tổ chức tín dụng và
Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thanh toán quốc tế
được thực hiện các loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức tín dụng và
cá nhân nước ngoài.
Xét về điều kiện củ thể, một tổ chức tín dụng chỉ được phép thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
- Có tư cách pháp nhân và có người đại diện hợp pháp. Trong nghiệp vụ bảo
lãnh, người đại diện hợp pháp cho tổ chức tín dụng bảo lãnh chỉ có thể là Tổng
giám đốc, giám đốc (đại diện đương nhiên) hoặc phó tổng giám đốc, phó giám đốc
(đại diện theo ủy quyền). Riêng người được ủy quyền về nguyên tắc không được
ủy quyền lại cho người khác.
- Được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với
khách hàng (điều kiện này thường được ghi rõ ttrong giấy phép thành lập và hoạt
động của tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nươc cấp).
• Bên được bảo lãnh: là khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh.
Khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong
và ngoài nước, trừ những cá nhân sau đây:
a.Thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc),
Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) của tổ chức tín dụng;
b.Cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng đó thực hiên thẩm định, quyết định
bảo lãnh;
c. Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát,
tồng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tồng giám đốc (Phó giám đốc);
Việc áp dụng quy định đối với người được bảo lãnh là bố, mẹ, vợ, chồng,
con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng do tổ chức tín
dụng xem xét quyết định.
Theo quy định của pháp luật, không phải mọi tỏ chức, cá nhân đều được các
tổ chức tín dụng bảo lãnh. Căn cứ vào các điều khoản của quy chế và nghiệp vụ
bảo lãnh của tổ chức tín dụng, những điều kiện đó bao gồm:
(1) Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dan sự theo quy
định của pháp luật;
(2) Mực đích đề nghị tổ chức tín dụng bảo lãnh là hợp pháp;
(3) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo
lãnh trong thời hạn cam kết;
(4) Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì các điều
kiện nêu trên phải tuân thủ quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam.
•Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền
thụ hưởng bảo lãnh của tỏ chức tín dụng.
Khi tham gia hợp đồng bảo lãnh với các tổ chức tín dụng bên nhận bảo lãnh
phải thỏa mãn những điều kiện chủ thể do pháp luật quy định nhằm góp phần đảm
bảo sự hiện hữa của hợp đồng. Các điều kiện đó bao gồm:
- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với người bảo lãnh là
một tổ chức thì tổ chức đó phải có người đại diện hợp pháp đủ năng lực và thẩm
quyền.
- Có các giấy tờ tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ nợ trong
một nghĩa vụ cần bảo đảm.
3. Hình thức và nội dung của giao dịch bảo lãnh ngân hàng
• Hình thức: Pháp luật quy định việc bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng phải được lập thánh văn bản. Bao gồm các hình thức sau: Hợp đồng
bảo lãnh, thư bảo lãnh và các hình thức khác pháp luật không cấm và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Theo khoản 3 Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng thì cam kết bảo lãnh được
thực hiện thông qua:
- Hợp đồng bảo lãnh: “là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và
bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách và các bên
liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.”
- Hợp đồng cấp bảo lãnh “là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng và các bên liên quan (nếu có) về quyền và nghĩa vụ của các bên rong
việc thực hiện bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho khách hàng.”
•Nội dung: Các bên tham gia bảo lãnh Ngân hàng phải thỏa thuận rõ ràng
các điều khoản trong đơn xin bảo lãnh và văn bản bảo lãnh như điều khoản xác
định chủ thể kí kết hợp đồng; điều khoản về đối tượng hợp đồng (bao gồm việc xác
định nghĩa vụ được bảo lãnh, mức phí bảo lãnh, phạm vi bảo lãnh); điều khoản về
thời gian bảo lãnh…
4. Phạm vi bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng
Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hagf của cá tổ chức tín dụng, phạm vi bảo
lãnh được hiểu là giới hạn của nghĩa vụ tài sản mà bên bảo lãnh (tổ chức tín dụng)
cam kết sẽ thực hiện thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) đơi với bên có
quyền.
Theo quy định tại Điều 9 Thông tư về hoạt động bảo lãnh ngân hàng cảu
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 28/2012TT-NHNN Bên bảo lãnh có thể cam kết
bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ sau đây:
(1)Nghĩa vụ trẩ nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản
vay;
(2)Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa, máy móc, thiết bị và các
khoản chi phí để thực hiện các dự án hoặc phương án đầu tư, phương án sản xuất,
kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống;
(3)Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với
nhà nước;
(4)Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia dự thầu;
(5)Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia qua hệ hợp đồng với bên nhận bảo
lãnh, như thực hiện hợp đồng, bả đảm chất lượng sản phẩm, nhận và hoàn trả tiền
ứng trước;
(6)Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thỏa thuận.
5. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng
•Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, do tổ chức tín dụng phải giao
kết hai loại hợp đồng với hai chủ thể khác nhau nên chủ thể này sẽ có hai tư cách
pháp lý khác nhau ttrong quan hệ pháp luật độc lập với cơ cấu quyền và nghĩa vụ
pháp lý khác nhau.
- Bên bảo lãnh có quyền:
Chấp nhận hoặc từ chối đề nghị cấp bảo lãnh của khách hàng hoặc hên bảo
lãnh đối ứng;
Đề nghị bên xác nhận bảo lãnh đối với khoản bảo lãnh của mình cho khách
hàng;
Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu thông tin có lien quan đến việc
thẩm định bảo lãnh và tài sản bảo đảm (nếu có);
Yêu cầu khách hàng có các iện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ được tổ chức tín
dụng bảo lãnh (nếu cần);
Thu phí bảo lãnh theo thỏa thuận;
Hạch toán ghi nợ và yêu cầu khách hàng hoặc bên bảo lãnh đối ứng hoàn trả
số tiền mà bên bảo lãnh đã trả thay.
Xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng theo thỏa thuận và quy định của pháp
luật.
Khởi kiện theo quy định của pháp luật khi khách hàng, bên bảo lãnh đối ứng
vi phạm nghĩa vụ đã cam kết;
Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho tổ chức tín dụng khác
nếu được các bên có liên quan chấp thuận bằng văn bản.
- Bên bảo lãnh có nghĩa vụ:
Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh;
Hoàn trả đầy đủ tài sản bảo đảm (nếu có) và các giấy tờ có liên quan cho
khách hàng khi tiến hành thanh lý hợp đồng cấp bảo lãnh.
•Quyền và nghĩa vụ của khách hàng được bảo lãnh
Với tư cách là bên hưởng dịch vụ bảo lãnh, khách hàng được bao lãnh sẽ có
các quyền và ghĩa vụ sau đây:
- Khách hàng có quyền:
Đề nghị tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh cho mình;
Yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện đúng cam kết bảo lãnh và các thỏa thuận
trong Hợp đồng bảo lãnh;
Khởi kiển theo quy định của pháp luật khi tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ
đã cam kết;
Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình nếu được các bên có liên
quan chấp thuận bằng văn bản.
- Khách hàng có nghĩa vụ:
Cung cấp đầy đủ, chính xác và trung thực các tài liệu và các thông tin theo
yêu cầu của tổ chức cấp tín dụng bảo lãnh;
Thực hiện đúng hạn và đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh;
Thanh toán đầy đủ và đúng hạn phí bảo lãnh cho tổ chức tín dụng theo thỏa
thuận;
Nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền tổ chức tín dụng đã trả
thay, bao gồm cả gốc, lãi và các chi phí trực tiếp phát sinh từ việc thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh;
Chịu sự kiểm tra, kiểm soát và báo cáo tình hình hoạt động có liên quan đến
giao dịch bảo lãnh cho tổ chức tín dụng bảo lãnh.
•Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh
Trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng bảo lãnh, người nhận
bảo lãnh phải chứng minh họ là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, do đó họ
mới có thể thiết lập được tư cách đồng thời là chủ nợ của tổ chức tín dụng bảo
lãnh. Chỉ với tư cách là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, đồng thời cũng là
chủ nợ của tổ chức tín dụng bảo lãnh thì bên bảo lãnh mới có quyền yếu cầu tổ
chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ này thay cho người được bảo lãnh khi
người này không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với mình. Khi thực hiện
quyền năng này đối với tổ chức tín dụng bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh phải chứng
minh rằng việc đòi tiền của mình là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh như đã được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh.
6. Thực hiện bảo lãnh ngân hàng
Thời hạn và nghĩa vụ bảo lãnh
Thời hạn bảo lãnh được xác địn từ khi phát hành bảo lãnh cho đến thời điểm
chấm dứt bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam kết bảo lãnh
không ghi cụ thể thời điểm chấm dứt bảo lãnh thì thời điểm chấm dứt bảo lãnh
được xác định tại thời điểm nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt.
Nghĩa vụ bảo lãnh cỏa tổ chức tín dụng chấm dứt trong các trường hợp sau
(Điều 21 Thông tư 28/2012TT-NHNN):
(1) Nghĩa vụ của bên được bảo lãnh chấm dứt.
(2) Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh.
(3) Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
(4) Hiệu lực của cam kết bảo lãnh đã hết.
(5) Bên nhận bảo lãnh miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh.
(6) Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp khác theo quy định
của pháp luật.
(7) Theo thỏa thuận của các bên.
Điều 21 Thông tư 28/2012TT-NHNN cũng quy định rõ ràng các trường hợp
được miễn nghĩa vụ bảo lãnh tại Điều 19 như sau: Trong trường hợp bên nhận bảo
lãnh miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật quy định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Trong trường hợp một trong số các tổ chức tín dụng liên đới cho một nghĩa
vị của khách hàng được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì
tố chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bo lãnh của họ.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng bảo lãnh
- Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận áp dụng hoặc không áp dụng các
biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín dung bảo lãnh.
- Các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín
dụng bảo lãnh bao gồm: Cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba, ký quý và các
biện pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
Phí bảo lãnh
Điều 17 Thông tư 28/2012TT-NHNN quy định về phí bảo lãnh như sau:
(1) Bên bảo lãnh thỏa thuận mức thu phí bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh.
Trong trường hợp có bảo lãnh đối ứng hoặc xác nhận bảo lãnh, mức phí bảo lãnh
do các bên thỏa thuận trên cơ sở mức phí bảo lãnh được bên được bảo lãnh chấp
thuận.
(2) Trường hợp thực hiện đồng bảo lãnh, các bên thỏa thuận, thống nhất mức
phí bảo lãnh từng bên được hưởng trên cơ sở thỏa thuận về tỷ lệ tham gia đồng bảo
lãnh và mức phí thu được của bên được bảo lãnh.
(3) Trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh
cho một nghĩa vụ liên đới thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
thỏa thuận với từng khách hàng về mức phí phải trả trên cơ sở nghĩa vụ liên đới
tương ứng của mỗi khách hàng.
(4) Trường hợp đồng tiền bảo lãnh là ngoại tệ, các bên thỏa thuận thu phí
bảo lãnh bằng ngoại tệ hoặc quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá bán của bên bảo
lãnh tại thời điểm thu phí.
(5) Trong thời hạn bảo lãnh, các bên có thể thỏa thuận điều chỉnh mức phí.
7. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng bảo lãnh và cách thức xử lý
Cũng tương tự như giải quyết tranh chấp trong các vấn đề khác thì giải quyết
tranh chấp trong bảo lãnh ngân hàng có 4 biện pháp sau đây
-
Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng;
Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải;
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài;
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.
B. THỰC TRẠNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TẠI TỔ CHỨC TÍN
DỤNG NĂM 2015
Năm 2015, hàng loạt các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ gây ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Bảo lãnh ngân hàng
cũng không thể nằm ngoài phạm vi những ảnh hưởng này. Không thể phủ nhận
rằng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng ở nước ta năm 2015 đã
có những thành tựu nhất định nhưng bên cạnh đó còn không ít những yếu kém, hạn
chế.
Các ngân hàng có uy tín lớn trong nghiệp vụ bảo lãnh ở Việt Nam có thể kể
đến như: Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng Công thương
Incombank, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV… Phần lớn các khoản vay của
doanh nghiệp là các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ bản… giúp doanh
nghiệp duy trì sản xuất, nhập được kỹ thuật công nghệ hiện đại, giảm giá thành,
tăng tính cạnh tranh của hàng hóa, thúc đấy tăng trưởng kinh tế… .
Trong bảo lãnh sự thầu, các ngân hàng giúp cho khách hàng có đủ điều kiện
để tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà bắt buộc hải có bảo lãnh của ngân
hàng; trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp
hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa
vụ cam kết; chuyên viên khách hàng sẵn sang hướng dân khách hàng lựa chọn dịch
vụ bảo lãnh cũng như hoàn tất thu tục với ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại đã có uy tín hơn trong nghiệp vụ bảo lãnh, bởi
các quy định rõ ràng, rành mạch về nghiệp vụ này nghiệp vụ này như: quy trình
thực hiện thủ tục bảo lãnh được hướng dẫn tận tình đến khách hàng, phí bảo lãnh
được quy định chính xác, công khai. Tuy nhiên, trong những tháng vừa qua, các
ngân hàng đã phải đối mặt với những tồn tại khó khăn từ phía bên được bảo lãnh
dẫn đến khó có khả năng thu lời như: các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh
kém hiệu quả, không cạnh tranh được với thị trường; nhiều máy móc thiết bị được
đầu tư từ chi phí bảo lãnh không sử dụng hết công suất, không đủ nguyên liệu sản
xuất; hàng hóa sản xuất ra có nơi không tiêu thụ được…
Bê bối trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng xảy ra tại nhiều ngân hàng dẫn
đến hàng loạt những rủi ro trong khả năng thanh khoản. Những bê bối này nếu có
tính chất không nghiêm trọng (số tiền bảo lãnh không quá lớn) thì thường được các
ngân hàng ém nhẹm để khỏi mất tín nhiệm, niềm tin với khách hàng. Chỉ những vụ
bê bối lớn hoặc xảy ra quá nhiều tại một ngân hàng mới “may ra” bị phát hiện.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy được một phần nào hạn chế của các
ngân hàng nước ta hiện nay trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Mặc dù các quy
định của pháp luật về hoạt động này đã được xây dừng một cách khá chặt chẽ và
chi tiết nhưng việc tuân thủ hoàn toàn theo pháp luật trong nội bộ các ngân hàng lại
là một câu chuyện khác.
LỜI KẾT
Qua nghiên cứu bảo lãnh ngân hàng thì có thể hiểu rõ hơn về đặc điểm, bản
chất, ý nghĩa cũng như căn cứ phân loại các loại bảo lãnh ngân hàng trên thị trường
hiện nay. Đồng thời, qua phân tích tình hình, thực trạng về dịch vụ bảo lãnh ngân
hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam để thấy được những thuận lợi, khó
khăn trong bảo lãnh ngân hàng, những nguyên nhân làm cho dịch vụ bảo lãnh ngân
hàng Việt Nam còn kém phát triển. Từ đó sẽ đưa ra các giải pháp phát triển hoàn
thiện hơn nữa dịch vụ này, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của
các ngân hàng thương mại Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như trên thế
giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2012.
2. Bộ luật dân sự năm 2005;
3. Luật thương mại năm 2005;
4. Luật doanh nghiệp năm 2005;
5. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010;
6. Thông tư về hoạt động bảo lãnh ngân hàng cảu Ngân hàng Nà nước Việt Nam số
28/2012TT-NHNN;
- Xem thêm -