Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bt_lê thị thanh thảo_thực trạng sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp tại việt nam...

Tài liệu Bt_lê thị thanh thảo_thực trạng sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp tại việt nam

.DOCX
29
174
136

Mô tả:

việc sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp tại Việt Nam
1 LỜI NÓI ĐẦU Nông nghiệp là ngành cung cấp các sản phẩm thiết yếu như lương thực, thực phẩm cho con người. Điều này cho ta thấy được vai trò quan trọng của nông nghiệp trong việc duy trì sự sống cũng như các hoạt động trong xã hội, nâng cao mức sống của người dân, góp phần đảm bảo sự ổn định an ninh, chính trị, xẫ hội của đất nước. nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định về chính trị và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển, từ đó sẽ làm cho các nhà kinh doanh không yên tâm bỏ vốn vào đầu tư dài hạn. Ở Việt Nam trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều đến nông nghiệp và đã đạt được nhiều thành tựu nhất định về mọi mặt. tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng còn những vấn đề tồn tại cần được giải quyết và khắc phục, trong đó có vấn đề về việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp. Chính vì thế mà em xin chọn đề tài “Thực trạng sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp tại Việt Nam”. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn thầy Đào Quyết Thắng đã hướng dẫn em thực hiện đề tài này. 2 PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ CHO NÔNG NGHIỆP 1.1. Khái niệm vốn đầu tư Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài... nhằm để : tái sản xuất, các tài sản cố định để duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, để đổi mới và bổ sung các cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho các ngành hoặc các cơ sở kinh doanh dịch vụ, cũng như thực hiện các chi phí cần thiết tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới được bổ sung hoặc mới được đổi mới. 1.2. Vai trò của ngành nông nghiệp đối với nền kinh tế Trong nền kinh tế quốc dân vai trò của ngành nông nghiệp vô cùng quan trong. Ngành nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học – cây trồng, vật nuôi. 1.2.1. Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã hội Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên ở những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản cuả các nước này khá lớn và không ngừng tăng, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống cho con người những sản phẩm tối cần thiết đó là lương thực, thực phẩm. Lương thực thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Điều đó do tác động của các nhân tố: sự gia tăng dân số và nhu cầu nâng cao mức sống của con người. Thực tiễn lịch sử các nước trên thế giới đã chứng minh, chỉ có thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh lương thực. Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định chính trị và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển, từ đó sẽ làm cho các nhà kinh doanh không yên tâm bỏ vốn vào đầu tư dài hạn. 3 1.2.2. Cung cấp yếu tố đầu vào cho phát triển công nghiệp và khu vực đô thị Nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị. Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường… Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế trong đó có công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, bởi vì đây là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản… trong đó thuế có vị trí rất quan trọng. 1.2.3. Làm thị trường tiêu thụ của công nghiệp và dịch vụ Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, nâng cao thu nhập dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm của nông nghiệp và có thể cạnh tranh với thị trường thế giới. 1.2.4. Nông nghiệp tham gia vào xuất khẩu Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông, lâm thủy sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hóa công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm, thủy sản. Tuy nhiên xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản thường bất lợi do giá cả trên thị trường thế giới có xu hướng giảm xuống, trong lúc đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên, tỷ giá kéo khoảng cách giữa hàng nông nghiệp và hàng công nghệ ngày càng mở rộng làm cho nông nghiệp, nông thôn bị thua thiệt so với công nghiệp và đô thị. Gần đây một số nước đa dạng hoá sản xuất và xuất khẩu nhiều loại nông lâm thuỷ sản, nhằm đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước. 1.2.5. Nông nghiệp có vai trò qua trọng trong bảo vệ môi trường 4 Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường vì sản xuất nông nghiệp gắn liền trực tiếp với môi trường tự nhiên: đất đai, khí hậu, thời tiết, thủy văn. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu bệnh … làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Quá trình canh tác dễ gây ra xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở rộng diện tích đất rừng… vì thế trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường. 1.3. Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Vốn sản xuất vận động không ngừng: từ phạm vi sản xuất đến phạm vi lưu thông và trở về sản xuất . Vốn trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp . Để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, nhằm bảo đảm an toàn lương thực quốc gia, tăng nông sản xuất khẩu và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đa dạng hoá nông nghiệp thì vấn đề đầu tiên, mang tính chất quyết định là vốn. 1.3.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước Vấn đề đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn luôn được Nhà nước quan tâm. Trước hết cần khẳng định rằng vốn đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Vốn Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp có vai trò to lớn, giúp tăng cường năng lực sản xuất, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Mặt khắc, do đặc điểm của đầu tư trong nông nghiệp là khả năng thu hồi vốn chậm hoặc không có khả năng thu hồi vốn, rủi ro cao nên không thu hút được các nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Vốn ngân sách đóng vai trò đi tiên phong, mở đường để thu hút các nguồn vốn khác thông qua các hình thức: tạo ra cơ sở hạ tầng tốt, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp đồng thời tạo cho các nhà đầu tư có cảm giác yên tâm hơn đầu tư vào nông nghiệp khi có sự tham gia của Nhà nước. Vốn ngân sách Nhà nước chủ yếu đầu tư cho thuỷ lợi, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đầu tư vào các công trình trồng rừng, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. 1.3.2. Vốn đầu tư của các hộ nông dân Cùng với vốn đầu tư của ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của các hộ nông dân cũng góp phần rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nguồn vốn này được đầu tư để phát triển sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất 5 nông nghiệp, mua phân bón, giống mới... Hiện nay, vốn đầu tư của các hộ nông dân được tập trung vào mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại với số vốn đầu tư tương đối lớn. Tiềm năng của nguồn vốn này là rất to lớn bởi vì nó phụ thuộc lớn vào thu nhập của các hộ nông dân. Khi năng lực sản xuất tăng, năng suất lao động tăng thì thu nhập của hộ nông dân cũng tăng. Thu nhập của các hộ nông dân một phần phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày, một phần tích luỹ. Mặt khác, đầu tư của các hộ nông dân phụ thuộc phần lớn vào tiết kiệm của họ nên khi năng lực sản xuất tăng thì đầu tư của hộ nông dân cũng tăng lên. 1.3.3. Vốn đầu tư cho nông nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng Ngoài vốn ngân sách, Nhà nước còn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn qua hệ thống ngân hàng như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng vì người nghèo, ngân hàng thương mại ... theo phương thức cho vay không lãi hoặc lãi suất ưu đãi để bù giá vật tư nông nghiệp, giá bán nông sản hàng hoá cho nông dân. Các ngân hàng trên cho các hộ nông dân vay với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất nông nghiệp, mua phân bón, mua giống, mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, phục vụ cơ sở hạ tầng nông thôn. Ngoài ra, các ngân hàng này còn cho các doanh nghiệp vay để mua nông sản của các hộ nông dân với giá trần hợp lý, bù đắp một phần thua thiệt của họ khi giá nông sản trên thị trường xuống quá thấp. Các ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất ưu đãi trong các lĩnh vực trọng điểm hoặc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. Chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thông thường của ngân hàng thương mại được ngân sách Nhà nước cấp bù- đó là vốn có nguồn gốc từ ngân sách. Hình thức này được áp dụng đối với các chương trình chung sống với lũ, chương trình xoá đói giảm nghèo. Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong việc phục vụ nhu cầu đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn. 1.3.4. Vốn nước ngoài Đối với các nước đang phát triển, để phát triển kinh tế, thoát khỏi cảnh nghèo thì vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt, từ đó sẽ dẫn đến thiếu nhiều thứ khác như công nghệ, cơ sở hạ tầng... Nông nghiệp cũng là ngành nằm trong xu thế đó. Để phát triển một nền nông nghiệp bền vững thì tất yếu phải đầu tư cho nông nghiệp. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước nghèo, nên vốn đầu tư từ trong nước còn rất hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư phát triển đất nước. Vì vậy, trên con đường phát triển không thể 6 không huy động nguồn vốn nước ngoài, tranh thủ nguồn vốn này nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nguồn FDI chủ yếu tập trung vào trồng và chế biến cao su, cà phê, chè, mía đường, chăn nuôi gia súc, gia cầm theo phương pháp công nghiệp với mục đích nâng cao năng lực sản xuất và chế biến nông, lâm, thuỷ sản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường quốc tế. Nguồn này có ý nghĩa quan trọng, nhờ công nghệ tiên tiến tạo ra nhiều sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, hiệu quả kinh tế cao. Ngoài nguồn FDI còn có các nguồn vốn vay, viện trợ, hợp tác khoa học kỹ thuật của các quốc gia phát triển và các tổ chức quốc tế như UNDP, PAM, FAO, ADB, WB, IMF, UNICEF, OECF... đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nguồn này chủ yếu tập trung vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, nước sạch, vệ sinh môi trường, sức khoẻ cộng đồng đặc biệt là sức khoẻ phụ nữ và trẻ em. Lợi thế của nguồn vốn này là cho vay với lãi suất thấp ( 0- 2%), thời gian trả nợ dài ( từ 30- 40 năm). Đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã đóng góp tốc độ và quy mô đầu tư cho nông nghiệp và cho nền kinh tế. Phương thức đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp là hỗ trợ kỹ thuật, giống cây trồng vật nuôi, ứng trước vốn cho nông dân mua vật tư, phân bón để đảm bảo sản xuất. Ngoài ra các doanh nghiệp còn bao tiêu sản phẩm nông nghiệp cho các hộ nông dân, nhất là những sản phẩm nông sản là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Nguồn vốn này đã góp phần hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, giải quyết phần nào nhu cầu về vốn cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. 1.4. Nội dung sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp Vốn đầu tư là vấn đề then chốt để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Vì vậy, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp là một yêu cầu khách quan. Yêu cầu đó là: Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, các cơ sở nghiên cứu và thực nghiệm khoa học kỹ thuật, đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao dân trí… Ngày nay, không nước nào tách nông nghiệp ra khỏi nông thôn và vì vậy đầu tư cho nông nghiệp cũng gắn với đầu tư thông qua các hình thức khác như hướng dẫn miễn phí về kỹ thuật sản xuất, kinh doanh, tổ chức bán vật tư nông nghiệp với giá thấp, bồi dưỡng kinh nghiệm sản xuất và hỗ trợ một phẩn vốn đầu tư ban đầu để nông dân nghèo có tiền tự đi lên… 7 1.4.1. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển của một quốc gia trong đó có Việt Nam, nó giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: đầu tư cho thuỷ lợi, hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, hệ thống thông tin liên lạc, kho tàng,bến bãi, chợ,hệ thống cung cấp nước sạch... Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là đầu tư có tác động kép, nó không chỉ là động lực để chuyển dịch cơ cấu nông thôn mà còn kéo theo sự thu hút đầu tư vào khu vực này. Cơ sở hạ tầng càng hoàn thiện thì quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp càng có điều kiện mở rộng và nâng cao hiệu quả bởi vì cơ sở hạ tầng tốt không chỉ đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, giảm giá thành sản xuất mà còn hạn chế các rủi ro trong đầu tư. Thực tế cho thấy, những địa phương nào mà cơ sở hạ tầng yếu kém thì khó thu hút các nhà đầu tư và khi không thu hút được các nhà đầu tư thì khả năng cải tạo cơ sở hạ tầng càng hạn chế tạo nên một vòng luẩn quẩn là vùng nào cơ sở hạ tầng yếu kém thì ngày càng tụt hậu tạo nên sự phát triển không đồng đều giữa các vùng. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn là rất quan trọng nhưng cần lượng vốn lớn. Tuỳ theo khả năng của ngân sách, nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ sản xuất, tạo tiền đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong quá trình thực hiện cần kiểm tra, giám sát và có những biện pháp nhằm quản lý tốt vốn bỏ ra để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. 1.4.2. Đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp Sản xuất nông nghiệp bao gồm hai bộ phận chính là trồng trọt và chăn nuôi. Vì vậy, đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp là phải đồng thời đầu tư vào hai lĩnh vực này. Để sản xuất nông nghiệp phát triển trước hết ta phải quan tâm đến đầu vào của sản xuất nông nghiệp bao gồm: đất đai, giống, phân bón... Muốn vậy, ta phải lựa chọn giống vật nuôi, cây trồng có năng xuất cao, chống chịu sâu bệnh tốt, thích nghi với các điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu. Đối với ngành trồng trọt, giống chỉ là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất cây trồng, ngoài ra, nó còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như đất, nước, các điều kiện tự nhiên. Vì vậy, đầu tư cho trồng trọt là phải đầu tư cải tạo đất 8 tốt, đầu tư nghiên cứu giống tốt,đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh, đầu tư mua phân bón, thuốc trừ sâu... Trong lĩnh vực chăn nuôi, để phát triển được cần đầu tư để mua giống tốt, xây dựng các cơ sở vật chất cần thiết, có chế độ cho ăn phù hợp... Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đầu vào, coi trọng sản xuất mà xem nhẹ đầu ra thì sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ sẽ gặp khó khăn,sản xuất chậm phát triển. Vì vậy, một trong những biện pháp thúc đẩy sản xuất phát triển là quan tâm đến đầu ra của sản phẩm,đến thị trường tiêu thụ của sản phẩm đó. Một trong những hình thức này là đầu tư qua giá mua vật tư và bán nông sản của các hộ sản xuất. Các hộ sản xuất được mua vật tư, xăng dầu phục vụ sản xuất với giá ổn định và thấp và được bán nông sản hàng hoá và sản phẩm ngành nghề dịch vụ ở nông thôn với giá cao và ổn định. Nhà nước bù lỗ phần chênh lệch giữa giá thị trường với giá thu mua hoặc giá bán của nhà nước cho hộ sản xuất. Đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ các nông sản và hàng hoá sản xuất tại địa bàn nông thôn bao gồm: xây dựng hệ thống chợ nông thôn, tổ chức mạng lưới thu mua nông sản từ các hộ sản xuất, xây dựng hệ thống kho tàng dự trữ, bảo quản nông sản phẩm, quảng cáo và tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước. Thị trường là đầu ra nên càng thông thoáng thì sản xuất càng có điều kiện phát triển nhanh. Ở các nước đang phát triển thường ít quan tâm đến vấn đề thị trường nên nông nghiệp vẫn phát triển trong thế không ổn định, tốc độ tăng trưởng thấp trong khi đó những nước có nền nông nghiệp hàng hoá phát triển nay cũng là những nước biết đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu và mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. 1.4.3. Đầu tư nghiên cứu và triển khai tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp vào sản xuất Tiến bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp có nội dung rộng lớn, liên quan đến sự phát triển của tất cả các yếu tố, bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất của ngành này. Nhìn chung, chính phủ các nước đều quan tâm đến đầu tư cho nghiên cứu, triển khai, mời chuyên gia đến trao đổi kinh nghiệm, nhập nội các giống tốt và quá trình công nghệ tiên tiến, cử cán bộ đi đào tạo nước ngoài, chi phí tập huấn, chuyển giao công nghệ đến hộ nông dân, đến đồng ruộng, khuyến nông. Nội dung chủ yếu bao gồm:  Thuỷ lợi hoá nông nghiệp: là tiến bộ khoa học công nghệ liên quan đến vấn đề nước của sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn nhằm cải tạo và chinh phục thiên nhiên trên cơ sở nhận thức quy luật tự nhiên. Đầu tư xây dựng các công 9 trình thuỷ nông theo các hướng chủ yếu là đầu tư xây dựng phát triển các hệ thống thuỷ nông mới, đầu tư khôi phục, sửa chữa lớn và nâng cấp các hệ thống thuỷ nông đang vận hành đã hết hạn sử dụng, đầu tư ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào sản xuất, trợ giá dịch vụ thuỷ nông trong các trường hợp thiên tai, trợ cấp đầu tư phát triển thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi nội đồng xã...  Cơ giới hoá nông nghiệp: là quá trình thay thế công cụ thủ công thô sơ bằng công cụ lao động cơ giới, thay thế động lực người, gia súc bằng động lực của máy móc, thay thế phương pháp sản xuất thủ công, lạc hậu băng phương pháp sản xuất với kỹ thuật cao. Để tiến hành cơ giới hoá nông nghiệp cần phải đầu tư mua máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, do đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là lao động thủ công là chính nên cần đầu tư đào tạo lực lượng lao động nông nghiệp để họ có khả năng sử dụng máy móc thiết bị, công nghệ trong quá trình sản xuất.  Điện khí hoá nông nghiệp, nông thôn: Là một tiến bộ khoa học công nghệ trong việc sử dụng nguồn điện năng vào các hoạt động sản xuất và phục vụ đời sống nông thôn. Tiến hành điện khí hóa nông thôn là bên cạnh các sở điện lực do trung ưng quản lý, cần đầu tư xây dựng các trạm thuỷ điện vừa và nhỏ kết hợp với nhiệt điện, xây dựng mạng lưới điện nông thôn để phục vụ sản xuất, đời sống sinh hoạt của người dân. Cần giáo dục cho mọi người ý thức tiết kiệm điện, nắm bắt được tối thiểu về kỹ thuật điện, sử dụng an toàn điện cho các cơ sở dùng điện ở nông thôn, đặc biệt là hộ nông dân.  Hoá học hoá nông nghiệp: Là quá trình áp dụng những thành tựu của ngành công nghiệp hoá chất phục vụ cho nông nghiệp bao gồm việc sử dụng các phương tiện hoá học vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Nội dung của hoá học hoá là: Bổ xung, tăng cường cung cấp thức ăn cho cây trồng vật nuôi bằng việc sử dụng các loại phân bón hoá học, thức ăn gia súc có bổ xung các nguyên tố vi lượng, sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, trừ dịch bệnh gia súc, gia cầm....  Sinh học hoá nông nghiệp: Là quá trình nghiên cứu và áp dụng những thành tựu về khoa học sinh vật và khoa học sinh thái vào nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái. Như vậy, cần nghiên cứu, phát hiện và nắm chắc các quy luật phát sinh và phát triển của cá thể và quần thể để nghiên cứu ra giống vật nuôi cây trồng phù hợp với quy luật và điều kiện tự nhiên của nước ta. 10 Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ, chuyên gia giỏi cho lĩnh vực nông nghiệp với đủ ngành nghề, từ kỹ thuật đến quản lí, có chính sách khoa học kỹ thuật phù hợp sẽ tạo ra hành lang thu hút các nguồn đầu tư khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp. 1.4.4. Đầu tư khác Đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến sản phẩm của nông nghiệp như: Nhà máy đường, dệt ... tức là hỗ trợ quá trình tiêu thụ sản phẩm đầu ra của nông nghiệp đây là hình thức đầu tư gián tiếp vào nông nghiệp. Ngoài ra, trợ giúp vốn cho nông dân nghèo là giải pháp tăng nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thực tế cho thấy đầu tư cho hộ nghèo là cần thiết để tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội. Đầu tư vốn của nhà nước để phát triển nông nghiệp và nông thôn được thực hiện qua chính sách thuế sử dụng đất và thuế doanh thu. Đối với các nước đang phát triển, nguồn thu ngân sách chủ yếu vẫn dựa vào thuế nông nghiệp. Chính sách giảm hoặc miễn thuế nông nghiệp được coi là một khoản đầu tư cho nông nghiệp. Ngoài ra, nhà nước đầu tư khai hoang và xây dựng cơ sở hạ tầng sau đó chuyển giao cho nông dân nghèo từ nơi khác đến lập nghiệp là chính sách tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nghèo, phân bố lại dân cư và lao động trên các vùng lãnh thổ làm cho sản xuất phát triển, rút ngắn chênh lệch giữa các vùng, các hộ nông dân với nhau, sản phẩm xã hội được tạo ra nhiều hơn. 11 PHẦN 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ CHO NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM 2.1. Những thành tựu quan trọng của ngành nông nghiệp trong những năm qua Bước vào triển khai kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 trong điều kiện kinh tế thế giới suy thoái, kinh tế trong nước tăng trưởng chậm lại, giá vật tư tăng, sức mua giảm, tiêu thụ sản phẩm của ngành gặp khó khăn… Biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra nhiều hơn, diễn biến khó lường, mức độ gây hại lớn, phạm vi ảnh hưởng rộng. Trong khi đó, vốn đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu thực hiện các chương trình, dự án phát triển của ngành; việc thu hút vốn đầu tư FDI và vốn đầu tư ngoài ngân sách còn ít… Trong bối cảnh đó, toàn ngành đã khai thác và tận dụng có hiệu quả các cơ hội thuận lợi từ trong và ngoài nước. Tập trung triển khai quyết liệt các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ về chủ trương phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015; chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch hàng năm và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất. Đặc biệt là tập trung triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nhờ vậy bước đầu có thể đánh giá ngành nông nghiệp và PTNT giai đoạn 2011 – 2015 đã đạt được kết quả khá toàn diện. Nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng cao, ổn định Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng GDP khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt bình quân 3,1%/năm; giá trị sản xuất tăng bình quân 3,6%/năm. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năm 2010 đến 2014, tỷ lệ giá trị gia tăng/giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng từ 57% lên 65%; năng suất lao động xã hội ngành tăng 1,75 lần, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt tăng 1,45 lần, trên 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng 1,71 lần. Ngành trồng trọt thực hiện chủ trương tái cơ cấu, áp dụng các tiến bộ về giống và biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trên 3,15%/năm vượt chỉ tiêu đề ra là 2,83%, an ninh lương thực được đảm bảo, các cây công nghiệp, cây ăn quả có lợi thế cạnh tranh tiếp tục phát triển. Ngành chăn nuôi triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành, hướng chủ yếu vào nâng cao năng suất, chất lượng đàn vật nuôi. Nhờ đó, 5 năm 2011 – 2015, tuy không tăng về số lượng đầu con, nhưng giá trị sản xuất toàn ngành vẫn tăng bình quân gần 3,4%/năm, trọng lượng lợn thịt xuất chuồng bình quân từ 67,7 kg/con năm 2011 lên 70 kg/con năm 2014. Đặc biệt là phương thức chăn nuôi trang trại, công nghiệp tiếp tục phát triển mạnh. Đối với chăn nuôi lợn, phương thức chăn nuôi trang trại, công nghiệp chiếm 35% 12 đầu con và 43% về sản lượng; tương tự chăn nuôi gia cầm là 30% về đầu con và 40% về sản lượng. Trong thủy sản, hoạt động khai thác đang chuyển dần ra xa bờ, sử dụng các phương tiện, máy móc hiện đại; diện tích nuôi trồng thủy sản tăng nhanh, chuyển mạnh theo hướng thâm canh, phát triển đa loài, đa loại hình, đa phương thức theo hướng thân thiện với môi trường.[2] Một số kết quả ngành nông nghiệp qua các năm Bảng 2.1. Sản lượng và diện tích gieo trồng lúa qua các năm Năm Sản lượng (triệu tấn) Diện tích gieo trồng (nghìn ha) 2013 2014 2015 44,1 45 45,2 7900 7800 7800 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Bảng 2.2. Sản lượng một số cây ăn quả Đơn vị: nghìn tấn Năm Bưởi Xoài Quýt Cam Vải 2011 417,6 595,8 190,3 510,5 700,8 Cà phê Cao su Hồ tiêu 2012 43,7 7753,2 2014 2015 505,4 547,9 688,9 702 170,3 161,6 572,9 579,5 697,1 362,2 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Bảng 2.3. Sản lượng và diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm Năm Chè 2011 42,3 7651,4 Sản lượng (nghìn tấn) Diện tích (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn) Diện tích (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn) Diện tích (nghìn ha) Cao su (nghìn tấn) Diện tích (nghìn ha) 2012 435,6 776,3 180,4 509,9 649,3 2013 449,3 969,1 177,7 530,9 641,1 2011 2012 2013 2014 2015 888,6 923,1 921,7 962,5 1000 114,8 115,8 114,1 132,1 134,7 1167,9 1292,4 1289,5 1395,6 1445 533,8 574,2 584,6 641,7 645,2 811,6 863,6 949,1 953,7 1017 471,9 505,8 545,6 977,7 981 109,4 112,7 122,1 147,4 168,8 45,1 46,9 51,1 83,8 97,6 13 (Nguồn:Tổng cục thống kê) Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lớn với 10 loại nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD/năm. Kết cấu hạ tầng nông nghiệp được nâng cấp, hiện đại. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT, tới nay cả nước đã xây dựng được 904 hệ thống thủy lợi vừa và lớn; trên 6.648 hồ chứa các loại, 10 nghìn trạm bơm; 5.500 cống tưới, tiêu; 234 nghìn km kênh mương, 25.960 km đê các loại. Trong 5 năm 2011 – 2015 tăng thêm năng lực tưới 151.000 ha, năng lực tiêu 100.000 ha, năng lực ngăn mặn 172.000 ha. Tỷ lệ diện tích gieo trồng hàng năm được tưới ổn định bình bình 68,8%. Tổng công suất cảng, bến cá năm 2015 tăng thêm 228 nghìn tấn, tăng 48 nghìn tấn so với năm 2011. Tổng công suất các khu neo đậu tránh trú bão tăng thêm 5 năm 2011 – 2015 là 292,5 nghìn tấn, bình quân 58,5 nghìn tấn/năm. Toàn ngành triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia. Các Chương trình giảm nghèo đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân về thay đổi cơ cấu mùa vụ sản xuất, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, canh tác... Nhờ đó, đời sống của người dân, nhất là những người nghèo từng bước được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 4%/năm trong các huyện nghèo và 1,54%/năm trong khu vực nông thôn. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào trong cả nước, được cả hệ thống chính trị và người dân đồng tình hưởng ứng. Với nhiều cách làm sáng tạo, nhiều nguồn lực được huy động để xây dựng nông thôn mới, nhờ đó diện mạo nhiều vùng nông thôn nước ta đổi mới, đời sống tinh thần và vật chất của người dân được nâng lên. Đến cuối năm 2015 có khoảng 1.500 xã và 9 huyện, thị xã đạt chuẩn nông thôn mới. Kết quả chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 5 năm 2011 – 2015, tỷ lệ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh bình quân mỗi năm tăng 2%, dự kiến cuối năm 2015 đạt khoảng 86%. Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, dịch vụ hiệu quả Kinh tế tập thể chuyển biến tích cực hơn, đã có hàng trăm HTX kiểu mới được thành lập và phát triển. Cả nước hiện có 10.046 HTX; trong đó số HTX hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ có lãi chiếm trên 55,8%.[2] Hiện có khoảng 135.899 tổ hợp tác, cơ chế tổ chức và quản lý đang từng bước được hoàn thiện, chặt chẽ hơn. Kinh tế trang trại có xu hướng phát triển khá, đến hết năm 2014 cả nước có 27.114 trang trại đang phát huy tốt trong phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn của nền nông nghiệp hiện đại. Các doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả công ty nông, lâm nghiệp về cơ bản đã được sắp xếp lại theo hướng tái cơ cấu và cổ phần hóa. Quản lý, sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi 14 trường bền vững Việc đẩy mạnh các biện pháp quản lý và sử dụng đất nông nghiệp, kết hợp đầu tư thủy lợi, áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến, khai hoang mở thêm đất còn khả năng, nên đất sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng, chất lượng đất ổn định. Giữ ổn định 3,8 triệu ha đất trồng lúa là chủ trương lớn được Quốc hội thông qua nhằm đảm bảo an ninh lương thực cũng như sinh kế của nông dân. Nhờ đó, lợi thế của cây lúa được phát huy và có nhiều chính sách mới ra đời nhằm hỗ trợ và nâng cao đời sống người trồng lúa. Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng có nhiều tiến bộ, rừng được bảo vệ tốt hơn, diện tích rừng được khoán bảo vệ tăng từ 2,6 triệu ha giai đoạn 2006 – 2010 tăng lên 4,6 triệu ha giai đoạn 2011 – 2015. Các hoạt động nhằm ngăn chặn các vi phạm pháp luật về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản được triển khai quyết liệt ở hầu hết các địa phương. Thực hiện kế hoạch tái tạo, phục hồi và phát triển nguồn lợi thủy sản, đầu tư các khu bảo tồn biển và nội địa. Tái cơ cấu nông nghiệp hiệu quả thiết thực Tái cơ cấu ngành nông nghiệp được triển khai thực hiện trên cơ sở phát huy lợi thế của cả nước và mỗi địa phương gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong 5 năm 2011 – 2015, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phê duyệt 24 quy hoạch phục vụ tái cơ cấu; trong đó có 17 quy hoạch trên phạm vi cả nước và 7 quy hoạch vùng, địa bàn cụ thể…góp phần quan trọng duy trì, phát triển sản xuất, kinh doanh và tăng trưởng của toàn ngành. Nhiều luật định về nông nghiệp được Quốc hội thông qua Trong 5 năm 2011 – 2015, Quốc hội đã thông qua nhiều bộ luật nhất về lĩnh vực nông nghiệp, đó là: Luật Phòng chống thiên tai, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luật Thú y; Chính phủ ban hành nhiều Nghị định và Thủ tướng ban hành nhiều quyết định triển khai các Luật vừa ban hành và chỉ đạo, điều hành sản xuất, kinh doanh, xây dựng nông thôn mới, phát triển hạ tầng. Tạo hành lang pháp lý thống nhất, thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước về các lĩnh vực trong nông nghiệp. Trước tình hình mới, nông nghiệp nước ta cũng đang bộc lộ một số tồn tại, yếu kém về năng suất lao động thấp; chất lượng tăng trưởng chưa cao và có xu hướng chậm lại; chất lượng và khả năng cạnh tranh nhiều loại sản phẩm còn thấp; ô nhiễm và nguy cơ gây suy thoái môi trường; chênh lệch giàu nghèo lớn; an ninh dinh dưỡng chưa được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, những thành tựu trên vẫn là cơ bản, thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đúng đắn, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, nỗ lực cao và sự đóng góp biết bao công sức của nông dân cả nước. Đây cũng chính là tiền đề vững chắc 15 để nông nghiệp, nông thôn nước ta tiến quân vào thực hiện kế hoạch 5 năm tới đầy triển vọng.[2] 2.2. Thực trạng về việc sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp Trong giai đoạn 2011 - 2015, tổng vốn Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt trên 610.959 tỷ đồng, tăng 1,83 lần so với 5 năm trước. Theo Báo cáo của Chính phủ gửi các đại biểu Quốc hội về việc thực hiện chính sách đầu tư công cho nông nghiệp, nông thôn, quốc hội và Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi đầu tư từ vốn ngân sách Nhà nước (NSNN) cũng như ưu đãi thu hút đầu tư xã hội vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được ban hành tương đối đầy đủ. Từ năm 2012 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách, giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp, nông thôn, bao gồm các chính sách khuyến khích phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Về nguồn lực đầu tư, Chính phủ đã ưu tiên bố trí vốn đầu tư từ NSNN, trái phiếu Chính phủ và tăng cường huy động các nguồn vốn xã hội đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tổng vốn đầu tư Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt trên 610.959 tỷ đồng, tăng 1,83 lần so với 5 năm trước. Trong đó, đầu tư cho phát triển sản xuất nông lâm thủy sản khoảng 221.515 tỷ đồng, đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn khoảng 389.444 tỷ đồng. Cùng với đó, tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn luôn tăng với tốc độ cao, bình quân đạt 20%/năm, so với tốc độ tăng tín dụng chung cho nền kinh tế là 18,5%. Tổng dư nợ tín dụng ngành nông nghiệp, nông thôn tính đến tháng 8/2016 đạt khoảng 900.000 tỷ đồng. Một số chương trình tín dụng đặc biệt cho tái canh cà phê, hỗ trợ phát triển chăn nuôi, thủy sản, giảm tổn thất sau thu hoạch; liên kết sản xuất cánh đồng lớn, ứng dụng công nghệ cao và xuất khẩu... đã được triển khai. Kết quả đạt được là hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện đã góp phần đáng kể cho tăng trưởng GDP ngành giai đoạn 2011 - 2015 đạt 3,13%/năm, vượt chỉ tiêu kế hoạch của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra (2,6 - 3%); giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng 3,68%/năm. Đời sống của dân cư nông thôn tiếp tục được cải thiện, thu nhập bình quân/người/tháng khu vực nông thôn đến hết 2015 khoảng 2,2 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm từ 17,4% năm 2010 xuống 16 còn khoảng 8,2%, tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh tính đến hết năm 2015 đạt 86%.[3] 2.2.1. Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước Hơn 30 năm qua, nhiều thể chế, chính sách tài chính đã được ban hành để hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư từ ngân sách Nhà nước (NSNN) cho nông nghiệp, nông thôn liên tục được mở rộng, năm sau cao hơn năm trước. Tình hình chung khó khăn trong vài năm năm gần đây khiến vai trò của nông nghiệp nổi lên như một trụ đỡ vững chắc cho cả nền kinh tế. Bởi vậy, nguồn vốn dành cho ngành nông nghiệp cũng ngày càng được quan tâm đầu tư. Cụ thể, Nhà nước tăng cường đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp, nông thôn và liên tục được mở rộng, tốc độ chi NSNN cho nông nghiệp, nông thôn cơ bản được duy trì cao hơn tốc độ tăng chi NSNN chung những năm gần đây. Tỷ lệ chi cho nông nghiệp, nông thôn trong tổng chi NSNN đã tăng từ 32,8% năm 2008 lên 41,3% năm 2013. Trong giai đoạn 2009-2013, tổng số vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đạt 520.441 tỷ đồng, bằng 51,67% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và trái phiếu chính phủ (TPCP), tăng 2,62 lần so với 5 năm trước.[4] Tổng vốn đầu tư ngân sách nhà nước do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý giai đoạn 2006-2014 là khoảng 33.522 tỷ đồng (bình quân mỗi năm 3.700 tỷ đồng). Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đầu tư các công trình thủy lợi do Bộ quản lý trong giai đoạn này vào khoảng 36.096 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 52% nguồn vốn đầu tư qua Bộ. Đây được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho ngành nông nghiệp đầu tư vào nhiều dự án thủy lợi quy mô lớn, cấp bách ở miền Trung, Tây Nguyên, Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. 2.2.2. Vốn đầu tư từ các hộ nông dân Vốn đầu tư trong các hộ nông dân là một nguồn đầu tư quan trọng đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. Các hình thức đầu tư của các hộ nông dân rất đa dạng như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản… Đặc biệt trong các năm gần đây đầu tư trang trại của các hộ nông dân đang được phổ biến. Số liệu về các trạng trại như sau Bảng 2.4. Số trang trại phân theo lĩnh vực sản xuất Đơn vị: trang trại 17 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng 20.078 22.655 23.744 27.114 29.389 Trang trại trồng trọt Trang trại chăn nuôi Trang trại nuôi trồng thủy sản Trang trại khác (*) 8.635 6.267 8.861 8.133 8.745 9.206 8.935 12.642 9.178 15.068 4.440 4.720 4.690 4.644 4.175 736 941 1.133 893 968 (Nguồn: Tổng cục thống kê) ((*) bao gồm trang trại lâm nghiệp và trang trại tổng hợp) Có thể thấy hiện nay số nông trại trong cả nước ngày càng tăng lên, đặc biệt là các trang trại chăn nuôi chiếm số lượng ngày càng lớn trong tổng số các trạng trại trong cả nước (từ 31% năm 2011 lên 51,27% năm 2015), trong khi đó trang tại nuôi trồng thủy sản có xu hướng giảm dần từ 20,83% năm 2012 xuống 14,21% năm 2015. 2.2.3. Vốn thông qua hệ thống tín dụng ngân hàng Để ưu đãi tín dụng khu vực nông nghiệp nông thôn, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Cụ thể, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tái cấp vốn để hướng dòng vốn tín dụng vào nông nghiệp; Tạo điều kiện cho các Tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới tại các vùng sâu, vùng xa, các địa bàn nông nghiệp, nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Kết quả là tín dụng nông nghiệp của hệ thống ngân hàng luôn có tỷ trọng của tín dụng cho ngành nông nghiệp giao động ở mức xung quanh 10%, gia tăng bình quân trên 10% năm. Năm 2010, dư nợ tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn đạt 381.900 tỷ đồng đã tăng lên đến khoảng 825.000 tỷ đồng vào tháng 11/2015. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) – ngân hàng gắn bó mật thiết nhất với khu vực nông nghiệp, nông thôn có tổng nguồn vốn huy động đến tháng 6/2016 đạt trên 847.471 tỷ đồng và tổng dư nợ tín dụng đạt 700.622 tỷ đồng. Vốn tín dụng nông nghiệp chiếm trong tổng tín dụng của toàn ngành khoảng 18-19%, nếu cộng cả dư nợ của Ngân hàng Chính sách thì chiếm khoảng 20-22%, tương ứng với mức đóng góp cho GDP cả nước của ngành nông nghiệp.[5] Ngoài ra còn có các chương trình hỗ trợ cho vay qua các chương trình tín dụng mục tiêu; Chính sách cho vay hộ nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn Chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn thời gian qua cũng được điều chỉnh tăng mức tín dụng cho vay không có tài sản đảm bảo cũng được nâng lên gấp 18 Năm 19962000 4-5 lần, từ dưới 10 triệu đồng đối với nông dân, 50 triệu đồng/trang trại và 100 triệu đồng/HTX lên tương ứng 50-200-500 triệu đồng. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, thay thế Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng cho nông nghiệp nông thôn cũng tăng mức cho vay không thế chấp có thể tối đa lên đến 100 triệu với cá nhân, 300 triệu với hộ kinh doanh, lên đến 3 tỷ đối với liên hiệp hợp tác xã. Các ngân hàng cũng đơn giản hóa thủ tục vay vốn cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ về pháp lý, an toàn vốn vay, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, như: Rà soát và hoàn thiện hồ sơ tín dụng theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục, giấy tờ; đưa ra các sản phẩm tín dụng phù hợp với hoạt động sản xuất của nông dân như cho vay liên vụ, cho vay qua sổ tín dụng, xuống tận địa bàn để cho vay, thu nợ (gốc, lãi) ngay tại địa bàn của người vay thay vì phải đến trụ sở ngân hàng, áp dụng cho vay qua sổ đối với những khoản vay dưới 50 triệu đồng. 2.2.4. Vốn đầu tư từ nước ngoài 2.2.4.1. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA Trong những năm qua, nguồn vốn này đã ngày càng tăng lên với hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, vốn này đã góp phần quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhất là trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn (thủy lợi, giao thông, bưu điện, giải trí, chương trình nước sạch, bảo vệ môi trường… ). Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA kể từ khi chính thức nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế vào tháng 11 năm 1993. Hiện nay, Việt Nam có 51 nhà tài trợ song phương và đa phương(28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương), ODA đã dần trở thành một nguồn vốn lớn góp phần đáng kể vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam, kể từ thời kỳ đổi mới. Tính từ năm 1992 đến nay, tổng lượng vốn ODA cam kết tài trợ cho Việt Nam đạt khoảng 70 tỷ USD, trong đó, tổng lượng vốn ODA giải ngân dự tính đến hết năm 2012 đạt gần 40 tỷ USD. Trong tổng số vốn ODA tài trợ, có khoảng 8090% là vốn vay và 10- 20% là vốn viện trợ không hoàn lại. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng lượng vốn ODA huy động trong giai đoạn 1996-2015 đạt khoảng gần 6 tỷ USD, và được huy động qua các thời kỳ thể hiện ở bảng sau.[6] Bảng2.5. Huy động vốn trong ngành nông nghiệp thời kì 1996-2015 Đơn vị: USD Nông Lâm nghiệp Thủy lợi PTNT Thủy sản Tổng ODA nghiệp 276.877.453 239.158.434 134.613.426 162.987.443 65.620.000 879.256.756 19 20012005 20062008 20092015 231.742.410 245.368.163 821.638.900 155.585.016 60.821.000 1.515.155.489 122.870.091 341.939.583 343.087.547 190.471.829 1.280.850 999.649.900 92.712.560 416.258.805 1.302.033.835 628.483.103 30.311.277 2.441.799.580 (Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT) Đây không chỉ là một nguồn vốn lớn trực tiếp trong quá trình thực hiện và hoàn thành các chương trình, dự án, nguồn vốn ODA, mà còn có tác dụng “kéo” lượng vốn từ các nguồn khác đầu tư theo, hoặc đầu tư tiếp sang lĩnh vực khác theo sự lan tỏa của nguồn ODA khi thực hiện. Vốn ODA cũng là các ngoại tệ mạnh, góp phần cải thiện cán cân thanh toán tổng thể của quốc gia, có tác dụng bổ sung dự trữ ngoại hối, tăng sức mạnh tài chính của đất nước. Có thể nói, ODA đã tác động tích cựcvà cụ thể trên nhiều ngành, lĩnh vực của Việt Nam, trong đó có một số ngành, lĩnh vực quan trọng, như: phát triển nông nghiệp, nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo và góp phần đáng kể thúc đẩy và thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn.[6] Trong giai đoạn 1996-2015, tổng số vốn ODA thì ngành thủy lợi chiếm tỷ lệ cao nhất với 44,6%, tiếp theo là ngành nông nghiệp (21,3%), phát triển nông thôn (19,5%), lâm nghiệp (12,4%) và ít nhất là thủy sản với chỉ 2,7%.[6] Bảng trên cho thấy, về cơ cấu phân bổ ODA theo các giai đoạn, tỷ lệ huy động vốn ODA trong ngành Nông nghiệp tăng dần, vào khoảng trên dưới 20% nhưng đang có xu hướng giảm từ sau 2008. Huy động vốn của ngành Lâm nghiệp đạt tỷ lệ cao ở giai đoạn 1996 – 2000, chiếm 31% sau đó giảm dần còn 15 % và giai đoạn 2009 đến nay chỉ còn khoảng 3,8%. Lĩnh vực phát triển nông thôn có xu thế ngược chiều, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn ODA, hiện nay đang chiếm hơn 25%, trong khi đó, ngành Thủy sản huy động được nhiều vốn giai đoạn trước 19931995, chiếm 13 %, sau giảm dần và chỉ còn 1 % sau năm 2005. ODA dành cho Thủy lợi chiếm tỷ lệ khá cao, hiện nay chiếm 53,3%.[6] 2.2.4.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. FDI trong lĩnh vực nông 20 nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Nhịp độ thu hút vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp đã đạt mức cao giai đoạn 1991 đến 2000. Tuy nhiên, giai đoạn gần đây, thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này đã giảm mạnh. Nếu như cách đây 15 năm, FDI vào nông lâm ngư nghiệp chiếm 15% trong tổng vốn đầu tư FDI của cả nước thì trong 3 năm gần đây chiếm chưa đến 0,5%. Cụ thể, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng nguồn vốn FDI đăng ký mới và bổ sung từ năm 2011 đến 2013 tăng liên tiếp: Từ 14,7 tỷ USD (năm 2011) lên 21,6 tỷ USD (năm 2013). Trong khi đó, FDI vào nông nghiệp liên tục giảm trong thời gian này: từ 130,7 triệu USD (năm 2011) xuống còn 86,73 triệu USD (năm 2013).[1] Tính đến tháng 9/2014, cả nước có 514 dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 3,63 tỷ USD, chiếm 3,01% tổng số dự án và 1,5% tổng vốn đầu tư đăng ký, đứng thứ 9 trong số 18 ngành kinh tế có đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Như vậy bình quân mỗi năm nông nghiệp chỉ thu hút được khoảng 20 dự án và 130 triệu USD trong tổng số dự án FDI được cấp phép đầu tư ở Việt Nam là 17.072 dự án với tổng vốn 241,6 tỷ USD. Qua đó có thể thấy, tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp là rất thấp trong cơ cấu ngành kinh tế và có xu hướng ngày càng giảm.[1] Hiện có hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam, đứng đầu là Đài Loan. Tuy nhiên, nhiều nhà nhà đầu tư chủ yếu đến từ khu vực châu Á có nền công nghệ chưa cao như Thái Lan, Đài Loan, Indonesia..., còn các các nước có nền công nghệ cao như Mỹ, Nhật, EU lại chưa thu hút được nhiều dự án FDI vào nông nghiệp. Không chỉ vậy, chất lượng các dự án FDI lĩnh vực nông nghiệp chưa cao, phần lớn là các dự án quy mô nhỏ. Nếu như quy mô vốn đầu tư bình quân một dự án FDI vào khoảng 14,7 triệu USD thì một dự án FDI nông nghiệp chỉ đạt 6,6 triệu USD. Bên cạnh đó, sự phân bổ vốn FDI trong nông nghiệp cũng không đồng đều. Các dự án FDI tập trung chủ yếu ở các dự án thu hồi vốn nhanh như chăn nuôi, chế biến thức ăn chăn nuôi, trồng rừng, chế biến gỗ và lâm sản, thủy sản. Trồng rừng và chế biến gỗ chiếm khoảng 78% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, trong khi các ngành chế biến nông sản, thủy sản còn rất khiêm tốn.[1] 2.3. Những hạn chế trong việc sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng