BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ LOAN
BỔ SUNG MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÒA ÂM THẾ KỶ XX
VÀO CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY TẠI HỌC VIỆN ÂM NHẠC
QUỐC GIA VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ÂM NHẠC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.Phạm Tú Hương
Hà Nội - 03/2019
Công trình được hoàn thành tại Học viện âm nhạc
Quốc gia Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Phạm Tú Hương
Phản biện 1: …………………………………………………
………………………………………………...
Phản biện 2: …………………………………………………
………………………………………………...
Phản biện 3: …………………………………………………
………………………………………………...
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án
cấp Học viện họp tại
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, 77 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội.
Vào hồi…….. giờ ……… ngày ……. tháng ……. năm ………….
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
HVANQGVN là trung tâm đào tạo hàng đầu về âm nhạc chuyên nghiệp
trong toàn quốc có trách nhiệm bổ sung, cập nhật những kiến thức khoa học
mới vào công việc đào tạo giảng dạy cũng như nghiên cứu. Trong một vài
năm trở lại đây, sinh viên cũng đã được tiếp cận với nhiều tác phẩm âm nhạc
thế kỷ XX trong những bài học chuyên ngành như Piano, Guitar, Accordeon,
các nhạc cụ bộ gỗ v.v… và nhiều tác phẩm viết cho dàn nhạc cũng như các tác
phẩm hòa tấu thính phòng. Một số nhạc sĩ và các trào lưu âm nhạc sáng tác
thuộc thế kỷ XX cũng đã được bổ sung vào chương trình giảng dạy môn lịch
sử âm nhạc thế giới, mà vẫn chưa được cập nhật vào môn Hoà âm.
Luận án chúng tôi sẽ đề cập đến một số nội dung hoà âm thế kỷ XX và
tìm hiểu xem các cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới đã đưa hoà âm thế kỷ
XX áp dụng vào giảng dạy ở các trường âm nhạc như thế nào? Và tiếp đến
việc làm sao cập nhật bổ sung chương trình hoà âm thế kỷ XX đưa vào giảng
dạy tại HVANQGVN trong thời gian sớm nhất.
Hiện nay bộ môn Lý luận đã được đổi tên thành Âm nhạc học, trong luận
án này chúng tôi dùng theo cách gọi Âm nhạc học.
Môn Hoà âm đã và đang được dạy ở HVANQGVN, được gọi là phần
“Hoà âm cổ điển”. Qua tìm hiểu chương trình hòa âm cho sinh
viên các chuyên ngành tại HVANQGVN cho thấy, mặc dù từ
năm 2013 đã có chủ trương đưa phần hòa âm thế kỷ XX vào
giảng dạy cho một số chuyên ngành. Tuy nhiên do nhiều lý
do, phần kiến thức này cho đến nay vẫn chưa được triển khai
khiến cho sinh viên gặp rất nhiều khó khăn khi chơi những tác phẩm hiện đại
và càng bỡ ngỡ hơn khi tham gia vào chương trình biểu diễn hòa tấu giao lưu
với nhiều trường bạn trên thế giới. Sinh viên khoa Sáng tác - Chỉ huy - Âm
nhạc học cũng không dễ dàng khi thực hiện các bài viết chuyên ngành liên
quan đến ngôn ngữ âm nhạc thế kỷ XX.
Hoà âm thế kỷ XX là một phần không thể thiếu trong môn hoà âm giảng
dạy tại HVANQGVN. Nhận thức được yêu cầu cấp bách của việc
đưa một số kiến thức hòa âm ở thế kỷ XX vào chương trình giảng
dạy môn hòa âm ở HVANQGVN, và với trách nhiệm của những
người thầy thuộc thế hệ sau, chúng tôi thấy có nghĩa vụ phải
cập nhật kiến thức mới cho chương trình giảng dạy âm nhạc
nói chung và hoà âm nói riêng. Đây cũng chính là lý do khiến
chúng tôi lựa chọn lĩnh vực nghiên cứu này. Đề tài luận án có
tiêu đề “Bổ sung một số đặc điểm hoà âm thế kỷ XX vào
chương trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
Nam”.
2
Đây là mô ̣t đề tài mang tính cấp thiết nhưng đông thời cũng là mô ̣t đề tài
khó. Hy vọng sẽ được sự ung hô ̣ và giúp đỡ cua những bâ ̣c thầy đi trước và
các đông nghiê ̣p để bổ sung vào chương trình giảng dạy môn Lý thuyết hoà
âm cua HVANQGVN nhằm giúp sinh viên có thể tiếp câ ̣n với ngôn ngữ âm
nhạc mới trong các tác phẩm đương đại cũng như phân tích và thưởng thức
những tác phẩm mới.
2. Lịch sử đề tài
Vấn đề nghiên cứu để làm sao có thể đưa những đặc điểm, những thành
tựu cua âm nhạc thế kỷ XX vào giảng dạy tại HVANQGVN đã được thể hiện
ở nhiều công trình nghiên cứu cũng như trong các luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ.
Luận án tiến sĩ cua Vũ Đình Thạch bảo vệ năm 2009 có tiêu đề: Âm nhạc thế
kỷ XX và vai trò của nó trong việc đào tạo kèn Clarinette tại Nhạc viện Hà Nội.
Luận án tiến sĩ cua Phạm Phương Hoa Những thủ pháp sáng tác trong
một số trường phái âm nhạc thế kỷ XX bản bảo vệ năm 2010.
Luận án tiến sĩ cua Ngô Phương Đông Đào tạo âm nhạc thế kỷ XX cho
kèn Hautbois tại HVANQGVN được bảo vệ năm 2011.
Luận án tiến sĩ cua Cao Sĩ Anh Tùng Nghệ thuật Guitar đương đại nửa sau
thế kỷ XX trong đào tạo Guitar chuyên nghiệp tại Việt Nam bảo vệ năm 2015.
Các thu pháp hoà âm thế kỷ XX đã được trình bày rất phong phú và đa dạng
trong các tài liệu cua nước ngoài. Chúng tôi sẽ trình bày một số công trình tiêu
biểu trong mục Tổng quan tình hình nghiên cứu ở chương 1 cua luận án.
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về hoà âm thế kỷ XX cua
Phương Tây, cũng như hoà âm trong các tác phẩm âm nhạc mới Việt Nam
không có nhiều và cũng chỉ giới hạn trong một vài giáo trình, luận án hay luận
văn trong lĩnh vực Âm nhạc học.
Cuốn Giáo trình hoà thanh (Bậc đại học) cua Phạm Minh Khang (2005),
có giới thiệu chương IV “Sơ khảo sự hình thành và phát triển một số thủ pháp
hoà âm trong âm nhạc TKXX”, do Trung tâm thông tin - Thư viện âm nhạc
xuất bản.
Ngoài cuốn giáo trình này, trong một số luận án, luận văn thuộc chuyên
ngành Âm nhạc học đã bảo vệ tại HVANQGVN có đề cập đến lĩnh vực hoà
âm trong các tác phẩm âm nhạc phương Tây cũng như tác phẩm cua các nhạc
sĩ Việt Nam có liên quan đến hoà âm thế kỷ XX mà chúng tôi đã giới thiệu ở
phần lịch sử đề tài.
Vấn đề này sẽ được chúng tôi phân tích sâu trong phần Tổng quan tình
hình nghiên cứu ở chương một luận án.
Tại Việt Nam cho đến thời điểm này, chúng tôi chưa thấy một công trình
nghiên cứu khoa học nào đề cập tới vấn đề Bổ sung một số đặc điểm hoà âm
thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
Nam hay một cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp nào ở Việt Nam. Vì thế,
đề tài luận án không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3
3. Mục đích nghinn cưu
Mục đích nghiên cứu cua luận án hướng tới việc bổ sung một số kiến
thức hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy, sau khi đã kết thúc
phần hoà âm cổ điển cho sinh viên các chuyên ngành âm nhạc, nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi cua xã hội trong giai
đoạn hiện nay. Qua đó có thể giúp sinh viên cập nhật được những
kiến thức mới khi biểu diễn hoặc phân tích các tác phẩm đương
đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghinn cưu
4.1 Đối tượng nghinn cưu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Thứ nhất là sinh viên hệ đại học cua
HVANQGVN chuyên ngành biểu diễn và Sáng tác - Chỉ huy - Âm nhạc học là
đối tượng nghiên cứu cua luận án. Thứ hai là nghiên cứu chương trình, giáo
trình, phương pháp giảng dạy môn Hoà âm tại HVANQGVN, để cập nhật một
số kiến thức hoà âm thế kỷ XX vào giảng dạy cho sinh viên tại Học viện. Thứ
ba là chọn một số tác phẩm âm nhạc Phương Tây và Việt Nam ưa sử dụng ngôn ngữ
hoà âm thế kỷ XX để đưa vào phần nghiên cứu và bài tập phân tích môn Hoà âm. Thứ
tư là chọn một số nội dung tiêu biểu về hoà âm thế kỷ XX để đưa vào chương
trình giảng dạy tại HVANQGVN trong thời kỳ này.
4.2 Phạm vi nghiên cứu: Giảng dạy hoà âm thế kỷ XX cho sinh viên đại
học tại HVANQGVN.; Tác phẩm âm nhạc thế giới và Việt Nam tiêu biểu sử
dụng ngôn ngữ hoà âm thế kỷ XX.
5. Phương pháp nghinn cưu
5.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp phân tích, so sánh,
qui nạp, đối chiếu, tổng hợp v.v... các kiến thức hoà âm ở thế kỷ XX nhằm tìm
ra những vấn đề cốt lõi để bổ sung vào chương trình giảng dạy môn Hoà âm
bậc đại học tại HVANQGVN.
Xem xét chương trình, giáo trình đã có, cũng như đúc kết lại những kinh
nghiê ̣m, phương pháp giảng dạy hoà âm cua các thế hê ̣ giảng viên, các giáo sư,
tiến sĩ đầu ngành; kế thưa, tiếp thu các thành tựu khoa học có liên quan đến đề tài
nghiên cứu để xây dựng phần ứng dụng nội dung mới thực hành.
5.2 Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: Tổ chức dạy thực nghiệm
một số nội dung hoà âm thế kỷ XX cho sinh viên các chuyên ngành khác
nhau để kiểm chứng tính khả thi cua những kiến thức đưa vào chương
trình giảng dạy, phương pháp dạy học và khả năng tiếp thu cua sinh viên.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia,
phỏng vấn những người có liên quan để xem kiến thức hoà âm thế kỷ XX
được tiếp cận như thế nào trong các cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới.
6. Đóng góp của luận án
6.1 Về mặt lý luận: Tổng kết ngôn ngữ hoà âm thế kỷ XX
thông qua một số dạng điệu thức, cấu trúc hợp âm - chồng
4
âm, các thủ pháp hòa âm v.v... Đề xuất đưa nội dung hoà âm
thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy cho sinh viên đại học tại
HVANQGVN đáp ứng nhu cầu đào tạo sinh viên âm nhạc
chuyên nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
6.2 Về mặt thực tiễn: Đưa phần kiến thức hoà âm tiêu biểu
của thế kỷ XX vào giảng dạy hệ đại học tại HVANQGVN. Xây
dựng chương trình và nội dung phần hoà âm thế kỷ XX cho
bậc đại học, góp phần hoàn thiện chương trình môn học hoà
âm nói chung. Đề xuất một số phương pháp dạy phần hòa âm
thế kỷ XX.
Ngoài ra, thông qua luận án này có thể gợi mở phần nào
về tư duy, ý tưởng kết hợp những nhân tố âm nhạc truyền
thống dân tộc với các thủ pháp hiện đại cho sinh viên sáng
tác, nhằm tạo ra các tác phẩm vừa có tính dân tộc vừa phù
hợp với hơi thở cuộc sống, thẩm mỹ thời đại. Với sinh viên
thuộc các chuyên ngành khác, kiến thức hoà âm thế kỷ XX
giúp các em có thể tiếp cận thuận lợi hơn, sâu sắc hơn với các
tác phẩm âm nhạc đương đại khi phân tích, tìm hiểu phong
cách tác giả hoặc thể hiện các tác phẩm âm nhạc này.
7. Bố cục của luận án
Luận án dài 148 trang gôm Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Nội dung luận
án gôm 3 chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN - TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU VÀ THỰC TRẠNG DẠY HOÀ ÂM Ở HỌC VIỆN ÂM NHẠC
QUỐC GIA VIỆT NAM
1.1 Cơ sở lý luận
Hòa âm là một môn học quan trọng trong chương trình đào tạo âm nhạc
chuyên nghiệp tại các Học viện âm nhac, Nhạc viện. Tư trình độ trung cấp đến
đại học, tư các chuyên ngành biểu diễn đến các chuyên ngành Sáng tác - Chỉ
huy - Âm nhạc học, ở mỗi cấp học, mỗi chuyên ngành, học sinh - sinh viên
được tiếp cận với các kiến thức, các kỹ năng thực hành hòa âm khác nhau.
Môn hòa âm giúp cho học sinh - sinh viên có thể hiểu về cấu trúc hình
thức cua tác phẩm, sự sắp xếp các dạng hợp âm trong các điệu thức khác nhau
và những nguyên lý kết hợp các hợp âm theo chiều dọc và chiều ngang cũng
như vị trí các hợp âm trong tác phẩm âm nhạc v.v… Qua đó có thể hiểu thêm
về quan điểm thẩm mỹ, phong cách sáng tác cua tác giả.
Trong lịch sử phát triển cua hòa âm, kể tư khi nhạc sĩ J.P. Rameau
(1683-1764) đúc kết thành những nguyên lý mang tính khoa học cho đến
nay, ngôn ngữ hòa âm đã có rất nhiều thay đổi. Do ở mỗi giai đoạn, mỗi
trường phái âm nhạc, luôn đòi hỏi cần có sự đổi mới về các phương tiện thể
5
hiện nghệ thuật âm nhạc cho phù hợp với nội dung, với yêu cầu cua xã hội
đương thời.
Đặc biệt, tư cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX đã có nhiều trào lưu, nhiều
trường phái, nhiều khuynh hướng sáng tác cũng như quan điểm nghệ thuật,
quan điểm thẩm mỹ xuất hiện. Các nhà soạn nhạc ở giai đoạn này đều lao vào
để tìm kiếm mọi khả năng biểu hiện ở mức độ tối đa cua ngôn ngữ hòa âm.
[24/tr.121]
Hòa âm ở thế kỷ XX có nhiều khuynh hướng mới, nhiều thu pháp mới
hoàn toàn xa rời những nguyên tắc hòa âm cua những thế kỷ trước. Vì lý do
đó, chúng tôi cho rằng việc đưa những kiến thức hòa âm ở thế kỷ XX vào
chương trình giảng dạy môn Hòa âm trong HVANQGVN là rất cần thiết. Việc
làm này sẽ giúp cho sinh viên có những kiến thức cơ bản về hòa âm trong giai
đoạn hiện nay. Giúp các em có thể hiểu và sử lý các tác phẩm âm nhạc thế kỷ
XX có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, như trên chúng tôi đã trình bày, ngôn ngữ hòa âm ở thế kỷ
XX rất phức tạp và phong phú vì có nhiều trường phái, nhiều khuynh hướng
sáng tác khác nhau, dẫn đến có rất nhiều thu pháp phát triển mới, kết hợp cùng
lúc các dạng điệu thức với nhau và ra đời nhiều dạng cấu tạo hợp âm không
sắp xếp theo qui luật quãng ba như cấu tạo hợp âm chông quãng bốn, cấu tạo
hợp âm chông quãng hai và nhiều dạng hợp âm thêm nốt v.v…Với thời lượng
dành cho môn hòa âm rất khiêm tốn, mặt bằng chung về kiến thức hòa âm cua
sinh viên còn thấp, vì vậy chúng tôi khi viết luận án này đã phải lựa chọn
trong những phần kiến thức hòa âm thế kỷ XX những nội dung nổi bật vưa
đơn giản, dễ hiểu, nhưng thể hiện được những điểm đặc trưng cua hòa âm ở
giai đoạn này để đưa vào chương trình giảng dạy. Chúng tôi hy vọng những
nghiên cứu và thử nghiệm cua mình sẽ góp phần vào việc đổi mới, nâng cao
chất lượng đào tạo môn Hòa âm trong HVANQG VN.
1.2 Tổng quan tình hình nghinn cưu về hoà âm Thế kỷ XX
1.2.1 Sách và các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tìm được chín cuốn sách đã
được xuất bản dưới dạng sách giáo khoa hòa âm thế kỷ XX bằng tiếng Anh và
tiếng Đức, trong đó phải kể đến:
Cuốn “Twentieth-Century Harmony” do Vincent Persichetti biên soạn
(Nhà xuất bản W.W.Norton &Company, 1961) dày 279 trang. Đây là một
trong những cuốn hòa âm được dùng nhiều ở các trường nhạc trên thế giới. Và
tác giả Vincent Persichtti còn được nhiều người biết đến là cuốn lý thuyết hòa
âm thế kỷ XX cua ông với tiêu đề “Twentieth-Century Harmony Creative
Aspects and Practice”. Tác giả nghiên cứu sẽ trình bày nội dung chi tiết hơn
trong chương 2 cuả luận án.
Ngoài ra có thể tham khảo thêm chín đầu sách khác mà chúng tôi trình
bày trong luận án chương I mục 1.2.1.
1.2.2 Tình hình nghiên cứu ở trong nước
6
Môn hoà âm đã và đang được dạy ở HVANQGVN, được gọi là phần
“Hoà âm cổ điển”, chu yếu dựa theo sách giáo khoa Hoà âm cua bốn tác giả
Nga I.Đubôpxki, X.Epxeep, I.Xpaxobin, V.Xôcolop.
Chúng tôi nhận thấy về sách giáo khoa hoà âm ở Việt Nam chu yếu vẫn
đề cập các kiến thức hoà âm cổ điển, thiếu hẳn phần hoà âm thế kỷ XX.
Ở Việt Nam nói chung và HVANQGVN nói riêng, chưa áp dụng chương
trình giảng dạy hoà âm thế kỷ XX cho sinh viên đại học. Do vậy, việc nghiên
cứu “Bổ sung một số đặc điểm hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy
tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam” được đặt ra là một vấn đề cấp thiết
và có hướng ứng dụng thiết thực.
1.3 Thực trạng dạy hoà âm ở HVANQGVN
1.3.1 Môn Hoà âm trong quá trình phát triển từ Trường Âm nhạc Việt
Nam đến HVANQGVN ngày nay
Cách đây hơn 60 năm, Trường Âm nhạc Việt Nam đã ra đời (1956) đánh
dấu một sự kiện lớn trong đời sống âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ.
Những ngày đầu mới thành lập, với đội ngũ giảng viên còn quá ít ỏi, trình
độ chuyên môn cua họ phần lớn là tự học, không được đào tạo một cách chính
quy, bài bản. Với số giảng viên không đầy đu các chuyên ngành, cơ sở vật
chất tư trường, lớp đến các nhạc cụ và sách giáo khoa âm nhạc còn rất nghèo
nàn, thiếu thốn nhưng với lòng yêu nghề và ý chí quyết tâm cao, các giảng
viên cua trường đã bắt đầu khai giảng khoá trung cấp đầu tiên.
Chương trình dạy hoà âm lúc bấy giờ chu yếu là những kiến thức hoà
âm cổ điển Phương Tây và đưa vào giảng dạy ở trình độ trung cấp. 1
Phải kể đến nhạc sĩ Ca Lê Thuần - Là người được đào tạo chuyên sâu về
chuyên ngành Hoà âm - Phức điêụ, ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng
chương trình cua hai môn học này ở Trường Âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ.
Chương trình môn hoà âm do nhạc sĩ Ca Lê Thuần biên soạn chu yếu dựa
vào chương trình cua các nhạc viện ở Liên Xô (cũ) thời bấy giờ.
Nội dung chương trình chu yếu trình bày các kiến thức cua hoà âm thời
kỳ cổ điển. Phần hoà âm thế kỷ XX chưa được đưa vào chương trình. Thầy Ca
Lê Thuần chỉ đưa vào dạy một số nét khái quát về hoà âm giai đoạn nửa sau
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như một dạng Semine. 2
Do vậy, cho đến nay các kiến thức hoà âm được dạy trong HVANQGVN
vẫn chu yếu là hoà âm Phương Tây ở giai đoạn cổ điển.
Đến phần cao học, các khoá đào tạo trước đây được học môn Lịch sử hoà
âm thế kỷ XX do nhạc sĩ Phạm Minh Khang giảng dạy có giới thiệu đôi nét về
phong cách hoà âm cua một số nhạc sĩ thuộc trường phái âm nhạc nửa đầu thế
kỷ XX.
1
2
Cuộc trao đổi với nhạc sĩ Hông Đăng ngày 28 tháng 1 năm 2018 tại nhà riêng cua nhạc sĩ.
Trao đổi với giảng viên PGS.TS.Phạm Tú Hương
7
Sau này trường có mời một số chuyên gia nước ngoài sang giảng dạy cho
các lớp cao học giới thiệu về ngôn ngữ hoà âm thế kỷ XX.
Hiện tại tổ Hòa âm - Lý thuyết - Phức điệu có năm giảng viên cơ hữu và
hai cộng tác viên với việc giảng dạy ba môn: Lý thuyết âm nhạc, Hoà âm và
Phức điệu, ở cả hệ trung cấp và đại học.
Hiện nay việc giảng dạy môn Hoà âm tại HVANQGVN được phân chia
theo chương trình và giáo trình giảng dạy dưới đây.
1.3.2 Chương trình và giáo trình
1.3.2.1 Chương trình
Đối với trình độ trung cấp
Chia làm hai nhóm ngành đào tạo phù hợp với các đối tượng học: Lớp
hoà âm trung cấp biểu diễn và lớp hoà âm trung cấp Sáng tác - Chỉ huy - Âm
nhạc học. Chương trình hoà âm trung cấp đều được bắt đầu học tư năm trung
cấp hai (gọi theo cách phân hệ đào tạo trước đây) và được học lý thuyết hoà
âm trong một năm, bao gôm hai học kỳ, tương đương hai tiết/1 tuần/90 phút,
với tổng số là 28 tuần học và thi, tương đương 56 tiết. Riêng lớp hoà âm trung
cấp Sáng tác - Chỉ huy - Âm nhạc học, được chia thành hai môn học: Hoà âm
lý thuyết kéo dài bốn học kỳ, học năm thứ hai và thứ ba, tương đương 112
tiết/1 năm và hoà âm trên đàn hai học kỳ, học năm thứ ba, tương đương 84
tiết/1 năm.[PL2.1 và 2.2]
Đối với trình độ đại học
Đối với chương trình hoà âm đại học cũng được phân theo hai dạng đối
tượng đào tạo giống ở bậc trung cấp, đó là chuyên ngành biểu diễn và chuyên
ngành Sáng tác - Chỉ huy - Âm nhạc học, nhưng số tiết học được kéo dài hơn
một tuần / cho mỗi kỳ. Vậy tổng số là 60 tiết trong một năm.
* Chương trình hoà âm đại học chuyên ngành biểu diễn được học hai học
kỳ trong năm thứ nhất, nội dung được học hết phần chuyển điệu cấp I. [Xem
PL2.2]
* Chương trình hoà âm đại học chuyên ngành Sáng tác - Chỉ huy - Âm
nhạc học, cũng được chia thành hai môn học là Hoà âm lý thuyết (Học ba học
kỳ, bao gôm hai học kỳ năm thứ nhất và học kỳ I năm thứ hai, tương đương 90
tiết / 1 năm) và môn Hoà âm trên đàn học hai học kỳ vào năm thứ hai, tương
đương 60 tiết/1 năm). [Xem PL2.3]
Hiện nay Học viện vẫn đang sử dụng “Sách giáo khoa hoà âm” cua bốn
tác giả Nga và “Sách hợp tuyển để phân tích hoà âm” để làm giáo trình giảng
dạy cho học sinh và sinh viên trong nhiều năm qua.
Ngoài ra, còn có một số sách dưới đây dùng tham khảo thêm trong
chương trình giảng dạy:
- “Sách giáo khoa hoà âm” cua Phạm Tú Hương và Vũ Nhật Thăng
(1993), nhà xuất bản âm nhạc.
- “Sách Đáp án và bài tập hoà âm phần Diatonic” cua Hoàng Hoa.
8
- “Sách Tuyển chọn bài tập phân tích hoà thanh” cua Hoàng Hoa &
Trương Ngọc Bích v.v…
Tất cả các sách hòa âm nói trên đều được chọn là tài liệu giảng dạy và
tham khảo ở môi trường âm nhạc chuyên nghiệp cua Việt Nam, chu yếu vẫn là
kiến thức hòa âm cổ điển, chưa có sách giáo khoa hòa âm nào bổ sung những
kiến thức hòa âm thế kỷ XX vào chương trình đào tạo đại học tại
HVANQGVN.
1.3.3 Phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra - đánh giá
1.3.3.1 Phương pháp giảng dạy
Tại HVANQGVN cũng như một số cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp
khác, khi giảng dạy môn Hòa âm các giảng viên thường dùng ba phương pháp
chính, đó là: phương pháp thuyết trình, phương pháp trực quan và phương
pháp thực hành.
Thực hành phối hoà âm trên giấy: Ở HVANQGVN phần thực hành phối
hoà âm trên giấy có ba dạng chính:
- Phối hòa âm cho một giai điệu (bè Soprano)
- Phối hòa âm cho một bè trầm (bè Basse)
- Phối hòa âm theo các công năng cho trước.
Riêng đối với các sinh viên các chuyên ngành Sáng tác - Chỉ huy - Âm
nhạc học đôi khi sử dụng dạng bài tập: tự sáng tác một đoạn nhạc có chuyển
điệu theo yêu cầu cua giảng viên. Dạng bài tập này thường áp dụng cho phần
thi kết thúc môn học hòa âm.
Thực hành phân tích hòa âm
Phần thực hành phân tích này quan trong đối với tất cả các chuyên ngành,
đặc biệt cần thiết đối với các sinh viên chuyên ngành biểu diễn, giúp họ có thể
nhận biết được hòa âm trong các tác phẩm chuyên ngành cua mình. Các vòng hòa
âm kết sẽ giúp họ xử lý phân câu, phân đoạn trong các tác phẩm hợp lý hơn.
Thực hành hòa âm trên đàn piano
Ở HVANQGVN phần hòa âm trên đàn mới chỉ áp dụng đối với các sinh
viên chuyên ngành Sáng tác - Chỉ huy - Âm nhạc học. Giáo viên có thể
đưa ra ví dụ một vòng nối tiếp hoà âm và hướng dẫn sinh viên cách nối tiếp
vòng hoà âm đó trên đàn, sau đó yêu cầu sinh viên có thể thực hành nhưng ở
điệu tính khác v.v.... Đây là phần thực hành sinh viên gặp nhiều khó khăn nhất
vì hạn chế bởi tay đàn.
1.3.3.2 Phương pháp kiểm tra - đánh giá
Môn Hòa âm cũng như các môn kiến thức âm nhạc khác trong
HVANQGVN, mỗi học kỳ có hai lần kiểm tra. Kiểm tra giữa học kỳ và kiểm tra
cuối học kỳ. Học kỳ cuối cua chương trình sẽ là phần thi tốt nghiệp môn học.
Hiện nay phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập cua môn Hòa
âm trong HVAN chu yếu là hình thức kiểm tra viết. Nội dung cua các bài
kiểm tra thường là phối hòa âm cho một giai điệu hay phối hòa âm cho các
công năng cho trước. Độ khó, dễ cua đề thi phụ thuộc vào nội dung chương
9
trình cua học kỳ đó. Ngoài bài viết phối hòa âm trên giấy, sinh viên còn làm một
bài phân tích hòa âm.
Ngoài ra, còn phần thi hoà âm trên đàn đối với lớp chuyên ngành Sáng
tác - Chỉ huy - Âm nhạc học.
1.3.4 Đánh giá kết quả giảng dạy
Đánh giá kết quả và tình hình giảng dạy môn Hoà âm
chúng tôi nhận thấy có một số ưu và nhược điểm sau:
Về ưu điểm: Các giảng viên đã giảng dạy theo đúng nội
dung chương trình đã được qui định. Hàng năm thường chú ý
rà soát chương trình học, bổ sung những kiến thức mới nhằm
làm cho môn học phong phú, hấp dẫn hơn. Cố gắng tìm các
dạng bài tập cho phù hợp với từng đối tượng sinh viên là
chuyên ngành biểu diễn hay chuyên ngành Sáng tác - Chỉ huy
- Âm nhạc học v.v... nhằm đưa môn Hoà âm góp phần hỗ trợ
cho các em khi học chuyên ngành hay học các môn học khác
như: Phân tích tác phẩm, Hình thức âm nhạc, Phối khí hay Hoà
tấu dàn nhạc v.v... Đa dạng các hình thức kiểm tra đánh giá
sau mỗi buổi học, mỗi học trình nhằm một mặt đánh giá đúng
trình độ, sự hiểu biết của sinh viên, một mặt tạo sự hứng thú,
say mê khi học môn Hoà âm.
Về nhược điểm: Chưa tích cực bổ sung những kiến thức
hoà âm mới ở thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy. Do vậy,
chưa cập nhật được những kiến thức mới làm cho sinh viên
còn bỡ ngỡ nhiều khi tiếp xúc với các tác phẩm âm nhạc
đương đại. Giảng viên khi lên lớp chủ yếu dạy theo các
phương pháp truyền thống như: phương pháp thuyết trình,
phương pháp trực quan hay phương pháp thực hành mà còn ít
sử dụng các phương pháp giảng dạy mới được phát triển trong
giai đoạn hiện nay. Do điều kiện thời gian có hạn, phần thực
hành nghe hoà âm trên đàn hay phân tích hoà âm trong các
tác phẩm còn chưa được coi trọng đúng mức. Sinh viên nhiều
em còn lười học, lười làm bài tập, nghỉ học nhiều do vậy dẫn
đến kết quả học không tốt, phải thi lại và học lại nhiều.
Tiểu kết chương 1
Thông qua nội dung chương 1, giới thiệu tổng quan tình
hình nghiên cứu và thực trạng dạy hoà âm ở HVANQGVN từ
những ngày mới thành lập trường cho đến ngày nay. Trải qua
nhiều thế thệ các thầy cô giáo cùng chung tay xây dựng bộ
môn ngày càng phát triển.
Môn Hoà âm nói chung và các môn kiến thức âm nhạc nói
riêng cũng đã hình thành rõ nét trong đào tạo âm nhạc các
10
cấp học ở HVANQGVN.
Trong phần lịch sử đề tài, giới thiệu một cách tóm lược các
công trình nghiên cứu có liên quan đến ngôn ngữ âm nhạc thế
kỷ XX.
Trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu về hoà âm thế
kỷ XX, giới thiệu chín đầu sách có liên quan đến kiến thức hoà
âm thế kỷ XX, bao gồm cả sách giáo khoa hoà âm thế kỷ XX,
sách bài tập bằng tiếng Anh và tiếng Đức.
Đây là những tư liệu vô cùng quí giá giúp chúng tôi trong
quá trình nghiên cứu viết luận án và thực hành giảng dạy
phần hoà âm thế kỷ XX.
Trình bày thực trạng về môn Hoà âm đã và đang được
dạy tại HVANQGVN, chủ yếu vẫn là giảng dạy phần hoà âm
cổ điển.
Trong mục này chúng tôi giới thiệu khái quát về chương
trình, giáo trình giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá,
đội ngũ giảng viên và sinh viên, cũng như đánh giá kết quả
giảng dạy, nêu những ưu điểm và nhược điểm cần khắc phục
trong việc giảng dạy môn Hoà âm tại HVANQGVN.
Nhìn chung qua nội dung trình bày ở chương 1 chúng ta
thấy vẫn thiếu vắng phần hoà âm thế kỷ XX chưa được đưa
vào giảng dạy cho sinh viên đại học tại HVANQGVN. Thực tế
đó dẫn đến những khó khăn cho việc tiếp cận với âm nhạc ở
thế kỷ XX trong cả đào tạo, sáng tác, biểu diễn và nghiên
cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu và bổ sung những kiến thức cần
thiết cho phần giảng dạy về hoà âm thế kỷ XX tại
HVANQGVN là rất cần thiết.
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ HOÀ ÂM THẾ KỶ XX
VÀ VIỆC GIẢNG DẠY HOÀ ÂM THẾ KỶ XX Ở
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1 Khái quát về hoà âm thế kỷ XX
Âm nhạc thế giới tư những năm đầu thế kỷ XX đến nay có rất nhiều biến
động theo tình hình chính trị, xã hội và văn hóa ở nhiều quốc gia khác nhau.
Trong âm nhạc phải kể đến vai trò cua hòa âm đã góp phần quan trọng trong
việc phản ánh sự thay đổi về cách nhìn, cách xây dựng nội dung, chu đề hình
tượng âm nhạc và thay đổi về thẩm mỹ âm thanh cũng như phản ánh bút pháp
riêng cua tưng tác giả, tưng trường phái âm nhạc khác nhau. Trong đó âm
nhạc Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy đó, nhiều nhạc sĩ đã vận
dụng những ngôn ngữ hòa âm mới vào trong sáng tác cua mình.
Trong lịch sử phát triển âm nhạc trên thế giới nói chung và các dân tộc
nói riêng đã cho chúng ta thấy thẩm mỹ “Hòa âm” được thay đổi theo chiều
11
dài thời gian và thay đổi theo quan niệm thẩm mỹ cua tưng thời đại, tưng
trường phái và tưng văn hóa cua các dân tộc khác nhau. Đã có nhiều nhà khoa
học âm nhạc đưa ra những tổng kết về phong cách hòa âm cua tưng trường
phái tư Tiền cổ điển, Cổ điển, Lãng mạn. Sang đến nửa đầu thế kỷ XX, hình
thành nhiều ý tưởng hòa âm được thay đổi, mở rộng quan niệm về màu sắc
trong âm nhạc, cơ cấu hòa âm sinh động. Các nhà soạn nhạc đã sáng tạo ra
những phương thức và kỹ thuật sáng tác âm nhạc mới, đưa ra những thực
nghiệm táo bạo cùng với sự phát triển không có biên giới, đông hành cùng lúc
nhiều phong cách sáng tác âm nhạc khác nhau.
Có thể nói giai đoạn này là bước ngoặt rất quan trọng, một sự chuyển tiếp
vô cùng mạnh mẽ những bút pháp sáng tạo tinh tuý cua chu nghĩa lãng mạn
nửa cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX.
Trong giai đoạn này đã nổi lên tên tuổi cua một số nhạc sĩ như Claude
Debussy (1862-1918), Alexander Scriabin (1872-1915), Arnold Schönberg
(1874-1951), Maurice Ravel (1875-1937), Béla Bartók (1881-1945), Anton
Webern (1883-1945), Alban Berg (1885-1935), Sergei Prokofiev
(1891-1953), Paul Hindemith (1895-1963), Dimitri Schostakovich (1906-1975)
v.v…
Các khuynh hướng sáng tác mới cua sự phát triển hoà âm đã trở nên rõ
ràng trong các tác phẩm cua các nhạc sĩ thời kỳ này. Chẳng hạn, xuất hiện
nhiều hợp âm theo lối cấu trúc chông quãng bốn, chông quãng hai, hợp âm
thêm nốt hay hợp âm nhiều nốt chông quãng ba v.v… Hoặc xuất hiện nhiều
thu pháp đa điệu thức, đa điệu tính, đa hợp âm, thu pháp hoà âm song song
v.v… Các nhạc sĩ thời này không ưa dùng điệu thức trưởng thứ, thay vào đó
họ đi sâu khai thác nhiều điệu thức khác nhau như: điệu thức toàn cung, điệu
thức đối xứng, điệu thức chuyển dịch có giới hạn, sử dụng phong phú hệ thống
âm nhạc 12 Chromatic v.v…
Âm nhạc thời này đi theo tưng mảng màu rất đa dạng, miêu tả những nội
dung thời đại mới, phù hợp với tình hình thực tế và nhu cầu cua xã hội, dòng
chảy âm nhạc luôn chuyển động không ngưng. Chính vì vậy mà nhiều nhạc sĩ
đã tìm nguôn cảm hứng cho sáng tác cua mình tư thiên nhiên như nhạc sĩ Pháp
Olivier Messiaen đã chìm đắm với những âm thanh cua loài chim “Birdsong”,
hay nhạc sĩ Đức Bernhard Wulft chuyên nghiên cứu về tiếng chim “Leger”,
hoặc đề tài biển “Ba phác thảo giao hưởng Biển” (1903-1905) cua Claude
Debussy v.v…
Thực tiễn âm nhạc thế kỷ XX đã cho thấy, cùng với sự kế thừa, vận dụng
những chất liệu, phương thức sáng tác truyền thống, các nhạc sĩ còn tạo nên
nhiều bút pháp hòa âm mới. Sự kế thừa, vận dụng được thể hiện trước hết ở
nguồn chất liệu hòa âm…, ở một số kỹ xảo hoà âm… Tuy nhiên, không chỉ có
như vậy, các nhạc sĩ thế kỷ XX còn tạo nên nhiều sự đổi mới cả về nguồn chất
liệu cùng bút pháp sáng tác. [95/tr.44, số 4 năm 2017]
2.1.1 Một số dạng điệu thức thường gặp trong hoà âm thế kỷ XX
12
2.1.1.1. Điệu thức toàn cung (The Whole-Tone Scale)
Theo tư điển The Harvard Dictionary of Music (2003) của Don Michael
Randel, tái bản lần thứ tư [66/Tr.969], điệu thức toàn cung là dạng điệu thức gôm
sáu âm trong một quãng tám và các âm cách nhau một nguyên cung. Chia làm hai
hệ thống điệu thức toàn cung sau: C D E F# G# A# và C# D# F G A B.
Điệu thức toàn cung được các nhạc sĩ thế kỷ XX áp dụng khá phổ biến
trong các sáng tác cua mình, nhằm tạo ra sự không rõ ràng về giọng điệu, điều
này khác hẳn với ngôn ngữ hoà âm cổ điển ưa dùng âm nhạc có sức hút dẫn và
hình thành điệu tính rõ ràng.
2.1.1.2 Điệu thức chuyển dịch có giới hạn (Modes of Limited
Transposition)
Nhạc sĩ người Pháp O.Messiaen được coi là người đã sáng tạo ra dạng
điệu thức này. Ông đã thành công trong việc kết hợp các âm thanh tạo nên sự
chuyển động màu sắc hòa âm hết sức khác lạ. Trên cơ sở áp dụng một mô
hình cung bậc cua riêng bản thân nhạc sĩ mà ông gọi là các Mode (Điệu thức):
Mode là một mô hình tập hợp các cung bậc, đóng vai trò gần như điệu tính,
được sắp xếp trên nền tảng tương quan giữa cung và nửa cung [11/tr.17].
Các điệu thức này hoạt động với phương thức chuyển dịch theo quãng
chromatic. Khi được chuyển dịch, điệu thức đó sẽ xuất hiện những âm mới dẫn
đến sự biến đổi màu sắc. Điều thú vị là mỗi điệu thức chỉ xuất hiện âm mới ở một
số lần chuyển dịch nhất định, nếu tiếp tục chuyển dịch ta sẽ trở lại dạng ban đầu .
Chính vì vậy mà Messiaen gọi là sự chuyển dịch có giới hạn.
Điệu thức chuyển dịch có giới hạn này được xuất hiện trong âm nhạc thế
kỷ XX, được coi như là sự nối tiếp các mô hình cung bậc trong đó, tạo sự biến
đổi màu sắc hoà âm mới lạ so với các tác phẩm Cổ điển.
2.1.1.3 Điệu thức đối xứng (Symmetrical scales)
Béla Bartok là một trong những đại biểu xuất sắc cua nền âm nhạc thế kỷ
XX. Ông là nhà soạn nhạc thiên tài, một nghệ sĩ piano lỗi lạc và là nhà nghiên
cứu - sưu tầm dân ca Hungari rất nổi tiếng. Ngôn ngữ hòa âm cua Bartok là sự
tổng hợp những bút pháp cua Tây Âu và phương Đông, cua các điệu thức thời
Trung cổ, điệu thức nhà thờ, điệu thức năm âm với nhiều biến dạng. Ông đã
sử dụng rất phong phú và đa dạng các dạng điệu thức khác nhau trong tác
phẩm cua mình. Đặc biệt ông đã sử dụng rất rộng rãi trong sáng tác đó là điệu
thức đối xứng.
Theo tác giả Phạm Minh Khang, lối cấu trúc đối xứng này cua Béla
Bartok được đánh giá cao và coi đây là một trong đóng góp quan trọng cho
ngôn ngữ hoà âm mới. [24/tr.229]
2.1.1.4 Âm nhạc Dodecaphone
Âm nhạc Dodecaphone cũng thường gặp trong sáng tác cua các nhạc sĩ
thế kỷ XX, phải kể đến tên tuổi cua Arnold Schönberg, Alban Berg và
Anton Webern v.v…
13
Dodecaphone là một kỹ thuật sáng tác trên 12 âm thuộc hệ thống
chromatic. Nếu thang âm Chromatic được hình thành trên cơ sở một điệu
trưởng hoặc một điệu thứ và nó vẫn giữ nguyên những bậc cơ bản và trung
tâm cua điệu thức bảy âm, thì Dodecaphone là một hệ thống cua âm nhạc
không có điệu tính (Atonal).
Các nhà nghiên cứu âm nhạc vẫn coi J.Matthias Hauer (1883 -1959) là
người đã nghĩ ra phương pháp sáng tác âm nhạc theo Dodecaphone thì người
tổng kết về lý thuyết và phát triển kỹ thuật sáng tác này chính là nhà soạn nhạc
A. Schönberg (1874 - 1951). [40/tr117]
Bước sang thế kỷ XX, xu thế đổi mới diễn ra càng mạnh mẽ hơn. Đặc
biệt khi phong cách âm nhạc 12 âm đã trở thành một trào lưu sáng tác thì một
hệ từ vựng mới của ngôn ngữ âm nhạc vẫn là vấn đề đáng quan tâm của nhiều
nhà soạn nhạc cũng như giới lý thuyết âm nhạc học. [95/số 3, năm 2018]
2.1.1.5 Âm nhạc vô điệu tính (Atonal)
Theo Vincent Persichetti trong cuốn Twentirth century Harmony đã định
nghĩa về âm nhạc không có điệu tính như sau: Âm nhạc không có điệu tính là
không xác định rõ điệu tính hoặc hoàn toàn biến mất điệu tính và cũng không
tồn tại sự hút dẫn của điệu thức. [63/tr261]
GS.TS Phạm Minh Khang cũng viết: Âm nhạc vô điệu tính là không có
sự quy định điệu tính một cách rõ ràng.[24/tr166]
Nếu như đặc điểm cơ bản cua âm nhạc có điệu tính là dựa trên mối quan
hệ giữa những âm ổn định và âm không ổn định trong một đoạn nhạc hay một
bản nhạc, thì điều này sẽ không có ở âm nhạc vô điệu tính. Việc sử dụng âm
nhạc không có điệu tính đã đánh dấu một khuynh hướng phát triển mới trong
sáng tác âm nhạc. Đông thời nó cũng mở ra những cách nhìn mới ở nhiều lĩnh
vực sáng tác như: cách xây dựng chu đề, cấu trúc tác phẩm, hòa âm, phối khí.
Các tác phẩm thuộc loại hình âm nhạc vô điệu tính rất phổ biến trong âm
nhạc thế kỷ XX, chẳng hạn có thể tìm thấy trong một số sáng tác cua
Alexandre Scriabine, Arnold Schönberg, Anton Webern v.v...
2.1.2 Một số dạng cấu trúc hợp âm - chồng âm thường gặp trong hoà
âm thế kỷ XX
2.1.2.1 Cấu tạo hợp âm chồng quãng ba
Hợp âm chông quãng ba (Chords by Thirds): Là những hợp âm mà trong
đó các âm được sắp xếp theo qui luật quãng ba, ví dụ có các hợp âm ba (ba
nốt), hợp âm bảy (bốn nốt), hợp âm chín (năm nốt), hợp âm mười một (sáu
nốt), hợp âm mười ba (bảy nốt), hợp âm mười lăm (tám nốt), hợp âm mười
bảy (chín nốt) và hợp âm mười hai nốt (11 nốt) v.v... Trong đó các hợp sáu
nốt, bảy nốt, tám nốt cho đến hợp âm 12 nốt được gặp nhiều trong các tác
phẩm sau này. Các hợp âm này làm nhoè mờ công năng và chu âm tạo hiệu
quả âm nhạc dày đặc, rất phức tạp, đa màu sắc. Chúng khác hẳn với các hợp
âm trong âm nhạc cổ điển là rõ ràng về công năng hợp âm, hình thành màu sắc
trưởng thứ, tạo sức hút về chu âm v.v...
14
2.1.2.2 Cấu tạo hợp âm chồng quãng bốn (Chords by Fourths)
- Hợp âm ba nốt chồng quãng bốn (Three - note chords by fourths)
- Hợp âm bốn nốt chồng quãng bốn (Four - note chords by fourths)
- Hợp âm nhiều nốt chồng quãng bốn (Multi - Note chords by
fourths)
2.1.2.3 Cấu tạo hợp âm chồng quãng hai (Chords by seconds)
- Hợp âm ba nốt chồng quãng hai (Three note Chords by seconds)
- Hợp âm nhiều nốt chồng quãng hai (Multi Note Chords by
seconds)
2.1.2.4 Các dạng hợp âm thêm nốt (Added - Note Chords)
Trong âm nhạc thế kỷ XX xuất hiện nhiều dạng hợp âm thêm nốt quãng
hai trưởng và quãng hai thứ vào các hợp âm chông quãng ba và quãng bốn
nhằm làm tăng thêm độ dày hòa âm, mang hiệu quả đối nghịch với màu sắc
cua các hợp âm ba trước đây.
- Các hợp âm chồng quãng ba thêm âm sáu, âm bốn, âm hai
- Các hợp âm chồng quãng bốn thêm âm chín, âm sáu, âm năm, âm ba và
âm hai
2.1.3 Một số thủ pháp hoà âm thường gặp trong âm
nhạc thế kỷ XX
2.1.3.1 Hoà âm đa điệu tính (Polytonality)
Theo sách Twentieth-Century Harmony cuả Vincent Persichetti, đa điệu
tính được hiểu là một qui trình trong đó là sự kết hợp đồng thời của hai hay
nhiều điệu tính với nhau [63/tr.255].
Đa điệu tính là một thu pháp phát triển quan trọng cua ngôn ngữ hoà âm,
nó tạo ra nhiều khả năng biểu hiện vô cùng phong phú trong những sáng tác
cua các nhà soạn nhạc thế kỷ XX.
2.1.3.2 Hoà âm đa điệu thức (Polymodality)
Hoà âm đa điệu thức được hình thành trong quan hệ chiều dọc của các
giai điệu hoặc nhóm các giai điệu ở các hình thức khác nhau tồn tại độc lập
theo chiều ngang. [89/tr.89]
Thu pháp hoà âm đa điệu thức được hiểu ở đây là các tác phẩm sử dụng
hai hay nhiều thang âm cùng lúc, kiểu này cũng rất hay gặp trong âm nhạc thế
kỷ XX với nhiều hình thức phong phú và đa dạng.
2.1.3.3 Đa hợp âm (Polychords)
Thu pháp đa hợp âm được hiểu cùng lúc chông hai hay nhiều các hợp âm
khác nhau theo chiều dọc. Hai thu pháp đa điệu tính và đa hợp âm được vận
dụng khá linh hoạt, nhiều khi thấy xuất hiện cùng lúc trong các tác phẩm âm
nhạc cua thế kỷ XX. Có lúc là chông các hợp âm với điệu tính khác nhau,
hoặc đôi khi lại xuất hiện chông các hợp âm khác nhau trong cùng một điệu
tính, hay các bè kết hợp nhiều thang âm, điệu tính khác nhau cùng lúc v.v...
2.1.3.4 Thủ pháp hoà âm song song (Parallel Harmony)
Trong một số luận án, luận văn, có được đề cập đến các quãng song song,
các hợp âm - chông âm song song. Đây là một trong những thu pháp hay gặp
15
trong sáng tác cua các nhạc sĩ thế kỷ XX.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thường gặp lối sử dụng song song
hợp âm, song song chông âm dưới nhiều kiểu khác nhau.
2.2 Khảo sát việc dạy hoà âm thế kỷ XX ở một số cơ sở đào tạo âm
nhạc trnn thế giới
Để hoàn thành luận án này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và tìm hiểu về
chương trình và phương pháp giảng dạy hoà âm trong một số cơ sở và đào tạo âm
nhạc ở nước ngoài. Bản thân NCS cũng đã có nhiều dịp được học và làm việc
cùng với các trường âm nhạc ở Đức và Thuỵ Điển, ngoài ra còn tìm hiểu thêm các
trường âm nhạc ở Mỹ, Nga và một số trường nhạc thuộc khu vực châu Á. Chúng
tôi nhận thấy, ở mỗi nước đều đã bổ sung chương trình giảng dạy hoà âm thế kỷ
XX theo các cách khác nhau sao cho phù hợp với nội dung và chương trình đào
tạo cua trường, riêng các trường âm nhạc ở Mỹ họ đã cập nhật phần hoà âm thế
kỷ XX rất chi tiết và đa dạng. [PL8]
2.2.1 Một số nhạc viện ở Mỹ
Chúng tôi nghiên cứu chương trình dạy và học hoà âm ở hai trường cua
Mỹ là: Trường đại học âm nhạc Berklee College of Music và Nhạc viện San
Francisco - San Francisco Conservatory of Music. [PL3]
2.2.2 Một số nhạc viện ở Châu Âu và Châu Á
Qua thực tế chúng tôi đã tìm hiểu chương trình học hoà âm ở một số
nước ở châu Âu như Thuỵ Điển, Đức, Hungary, Nga, Canada và một số nước
Châu Á như Trung Quốc, Malaysia, Thailand, Hong Kong, Singapore v.v…
Qua việc tìm hiểu về chương trình dạy hoà âm nói chung và việc bổ sung
kiến thức hoà âm thế kỷ XX nói riêng vào chương trình đào tạo âm nhạc
chuyên nghiệp ở một số nơi trên thế giới, chúng tôi nhận thấy rằng, mỗi nước
có một cách tiếp cận khác nhau. Có thể dùng phương pháp tích hợp để đưa
kiến thức hoà âm thế kỷ XX vào giờ học môn Phân tích tác phẩm, sinh viên sẽ
lĩnh hội kiến thức đó thông qua giờ học này vưa giới thiệu lịch sử âm nhạc,
phân tích cấu trúc hợp âm và thu pháp hoà âm được sử dụng trong đó. Nhìn
chung, các nước đều rất chú ý đến việc cập nhật kiến thức hoà âm thế kỷ XX
vào chương trình đào tạo cho sinh viên âm nhạc trong giai đoạn hiện nay.
Riêng đối với sinh viên Việt Nam chúng tôi đặt vấn đề bổ sung vào môn Hoà
âm, nghĩa là sau khi kết thúc phần hoà âm Cổ điển, tiếp tục học nối tiếp phần
hoà âm thế kỷ XX cho sinh viên đại học, sẽ có tác dụng dẫn sang học phần
mới một cách trực tiếp và có mục tiêu rõ ràng.
Tiểu kết chương 2
Trong chương hai, chúng tôi đã giới thiệu một cách khái quát về ngôn
ngữ hoà âm thế kỷ XX, một số dạng điệu thức và cũng như một số dạng hợp
âm - chông âm thường gặp trong ngôn ngữ âm nhạc thế kỷ XX nhằm bổ sung
thêm kiến thức về quan niệm hòa thanh trong thời kỳ này.
16
Về điệu thức đã chọn một số điệu thức thường gặp trong hoà âm thế kỷ
XX như: điệu thức toàn cung, điệu thức chuyển dịch có giới hạn, điệu thức đối
xứng, âm nhạc Dodecaphone và âm nhạc vô điệu tính.
Về cấu trúc hợp âm - chông âm đã xuất hiện thêm nhiều cách cấu tạo hợp
âm như trong cấu trúc hợp âm ba sắp xếp theo quãng ba, ngoài các hợp âm ba,
hợp âm bảy, hợp âm chín, còn giới thiệu thêm các hợp âm 11, 13, 15, 17, 19,
21, 23 và các hợp âm sắp xếp theo quãng bốn, các hợp âm chông quãng hai,
cùng với các thể đảo kèm theo chúng. Tiếp đến là các hợp âm thêm nốt: Hợp
âm chông quãng ba thêm âm sáu, âm bốn, âm hai; hợp âm chông quãng bốn
thêm âm sáu, âm năm, âm hai; hợp âm chông quãng hai thêm âm chín, âm sáu,
âm năm, âm ba, âm hai và các chùm nốt (Clusters). Cũng như một số thu pháp
sáng tác hay gặp trong giai đoạn này.
Một số thu pháp hoà âm thường gặp trong âm nhạc thế kỷ XX như hoà
âm đa điệu tính, đa điệu thức, đa hợp âm, thu pháp hoà âm song song.
Và cuối cùng chúng tôi đã tiến hành khảo sát việc dạy hoà âm ở một số
cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới như châu Mỹ, châu Âu và châu Á, điển
hình là ở Mỹ. Thông qua đó để muốn tìm hiểu xem các nước tiếp cận với việc
học hoà âm thế kỷ XX như thế nào, nội dung chương trình dạy và học ra sao,
cũng như cách tổ chức thi và kiểm tra hết môn v.v... Làm quen với hệ thống
ký hiệu chỉ dẫn trong tác phẩm thời kỳ này.
CHƯƠNG 3: THỬ NGHIỆM GIẢNG DẠY HOÀ ÂM THẾ KỶ XX
CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC TẠI HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA
VIỆT NAM
3.1. Cơ sở lý luận
Qua tìm hiểu khảo sát việc dạy hoà âm thế kỷ XX ở một số cơ sở đào tạo
âm nhạc trên thế giới mục 2.2, chúng tôi ưu tiên chọn phương pháp tiếp cận
với ngôn ngữ hoà âm thế kỷ XX theo một số trường nhạc ở Mỹ, với hai lý do
sau: Lý do thứ nhất là khoá học cung cấp nội dung đa dạng, cập nhật thông tin
nhanh, hiệu quả và giúp sinh viên dễ dàng chuyển tiếp tư ngôn ngữ hoà âm cổ
điển sang hoà âm hiện đại. Lý do thứ hai có thể nói đây là môi trường đào tạo
âm nhạc hiện đại thuộc bậc nhất thế giới và cũng thuộc khối các nước nói
tiếng Anh, điều này sẽ rất thuận lợi cho sinh viên Việt Nam nếu muốn đi du
học ở nước ngoài.
Hòa âm thế kỷ XX với nhiều phong cách, nhiều kỹ thuật mới, nhiều quan
niệm sáng tác khác nhau, với một khuynh hướng chung đó là xa rời hệ thống
âm nhạc có điệu tính và hòa âm công năng, ưa sử dụng các loại hợp âm chông
quãng ba nhiều nốt, hợp âm sắp xếp theo quãng bốn, các hợp âm chông quãng
hai, các hợp âm thêm nốt v.v…, thường kết hợp đa tầng, đa công năng, đa
điệu tính, sử dụng âm nhạc theo chuỗi Serie v.v... Do vậy, việc cập nhật những
17
kiến thức hòa âm sau này xuất hiện ở cuối thế kỷ XIX và sang thế kỷ XX là
điều rất cần thiết cho các sinh viên âm nhạc cua Việt Nam nói chung và cua
HVANQGVN nói riêng, để giúp các em dễ dàng tiếp cận với các tác phẩm
sáng tác ở giai đoạn này.
Đề tài nghiên cứu: Bổ sung một số đặc điểm hòa âm thế kỷ XX vào chương
trình giảng dạy đại học tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, đây là một đề
tài mang tính ứng dụng nên chúng tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm ở một số đối
tượng là sinh viên các chuyên ngành khác nhau cua Học viện. Việc dạy thử
nghiệm sẽ giúp chúng tôi nắm được tư thái độ cũng như khả năng tiếp cận các
kiến thức hòa âm mới với các đối tượng sinh viên khác nhau. Qua đó sẽ định
hướng cho việc hoàn thành công trình nghiên cứu cua mình.
Trong quá trình thử nghiệm, một điều khó khăn mà chúng tôi gặp phải đó
là, cho đến nay ở Việt Nam các sách giáo khoa hòa âm bằng tiếng Việt cũng
như các công trình nghiên cứu có liên quan đến phần hòa âm thế kỷ XX chưa
được đề cập đến một cách đầy đu và có hệ thống. Do vậy, trong quá trình dạy
thử nghiệm chúng tôi đã phải cung cấp cho các em tư phần tài liệu học tập
cũng như những tác phẩm để phân tích.
Khi tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm giảng dạy, chu yếu dựa trên
nguôn tài liệu nước ngoài mà chúng tôi sưu tầm được, cùng với một số tác
phẩm cua các nhạc sĩ Việt Nam có sử dụng những thu pháp hòa âm mới ở thế
kỷ XX.
Cuốn sách Twentieth-Century Harmony cua Vincent Persichetti là nguôn tư
liệu chính để chúng tôi chọn lọc nội dung đưa vào chương trình thử nghiệm.
3.2. Dự kiến bổ sung một số kiến thưc hoà âm thế kỷ XX vào chương
trình giảng dạy môn Hoà âm trình độ đại học tại HVANQGVN
3.2.1 Tiêu chí lựa chọn nội dung kiến thức để đưa vào chương trình
Tính mới, tính thời đại: Đây là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hiện nay
khi mà chương trình đào tạo môn hoà âm tại Học viện còn thiếu vắng những
kiến thức hoà âm thế kỷ XX vào giảng dạy tại HVANQGVN.
Tính phổ biến hay tính điển hình: Thời kỳ này xuất hiện nhiều đặc điểm mới,
phong phú và đa dạng trong các tác phẩm âm nhạc thế kỷ XX, nhưng trong phạm
vị luận án chúng tôi ưu tiên chọn những nội dung điển hình theo trình tự tư dễ đến
khó và được nhiều người sử dụng để bổ sung vào chương trình giảng dạy môn
Hoà âm sau khi kết thúc phần hoà âm Cổ điển tại HVANQGVN.
Tính vừa sức: Phù hợp với đối tượng là sinh viên trình độ đại học cua
HVANQGVN, chuyên ngành biểu diễn và chuyên ngành Sáng tác - Chỉ huy
và Âm nhạc học. Biên soạn nội dung sao cho phù hợp với tưng đối tượng học
giúp sinh viên nghe nhận biết tác phẩm, hiểu phong cách tưng tác giả - tác
phẩm v.v…
Liều lượng - Tính phù hợp thời gian khung chương trình giảng dạy: Điều
này rất quan trọng, làm sao để cân đối về thời lượng và kiến thức cần ưu tiên
- Xem thêm -