Tiểu luận
BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT - MỸ 1977,
CƠ HỘI NGÀN VÀNG CÓ BỊ BỎ LỠ
LỜI MỞ ĐẦU
Sau ngày hòa bình thống nhất đất nước, 30.4.1975 nhân dân cả nước hăng
hái tham gia lao động sản xuất với hi vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Nhưng hi vọng sớm bị dập tắt bởi chiến tranh Biên giới phía Tây Nam 1978, chiến
tranh Biên giới với Trung Quốc 1979 và gần hai chục năm bị bao vây cấm vận,
khiến đời sống người dân chẳng cải thiện được là bao thậm chí nhiều người không
chịu đựng được dẫn đến vấn nạn “thuyền nhân” mang tiếng xấu cho hình ảnh đất
nước vốn đã chẳng đẹp đẽ gì sau “phi vụ” làm đại nghĩa ở Campuchia. Vậy, vì đâu
mà Việt Nam lại lâm vào cảnh “cùng cực” đến như vậy? Tại sao Trung Quốc ngang
nhiên đánh Việt Nam mà không lo sợ phản hồi của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ?
Sau thất bại trong chiến tranh Việt Nam, chính quyền Ford chủ trương thù
địch với nước ta, nhưng không lâu sau đó năm 1977 khi Jimmy Carter lên nắm
quyền vì lợi ích của Hoa Kỳ muốn phô trương thanh thế ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương, khát vọng xóa bỏ trong lòng người Mỹ “hội chứng Việt Nam”, đồng
thời hạn chế ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc, ông này đặt ra chủ trương
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vô điều kiện. Cơ hội ngàn vàng ấy đem đến
cho Việt Nam triển vọng phát triển kinh tế, đồng thời có thế hơn trong quan hệ với
anh hai Trung Quốc, giả dụ nếu Việt Nam nắm bắt được cơ hội ấy thì liệu Trung
Quốc có xúi giục Polpot quấy rối ở biên giới Tây Nam, có dám đánh Việt Nam vào
năm 1979 mang đau thương đến biết bao gia đình, và liệu rằng đời sống của nhân
dân ta có khổ cực đến độ phải rời tổ quốc ra đi. Rõ ràng là, việc bình thường hóa
quan hệ Việt – Mỹ có tác động đến những vấn đề kể trên. Vậy thì, do đâu mà cơ
hội nối lại quan hệ với Mỹ bị bỏ lỡ trong khi siêu cường này đã chủ động bình
thường hóa vô điều kiện?
Trong phạm vi bài tiểu luận tôi sẽ lý giải tại sao một cơ hội “trời cho” đáng
quý đến như thế tưởng như đã trong tầm với lại tuột mất khỏi tay Việt Nam? Và cái
giá mà Việt Nam phải trả cho sai lầm ấy lớn đến nhường nào?
Nội dung bài tiểu luận gồm 4 phần chính:
Phần I: Bối cảnh quốc tế và trong nước sau năm 1975
Phần II: Chính sách đối ngoại của Mỹ và Việt Nam
Phần III: Bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, cơ hội ngàn vàng, tại sao bỏ
lỡ?
Phần IV: Hậu quả từ việc bỏ lỡ cơ hội
Qua việc phân tích đánh giá kỹ lưỡng những nội dung trên, bài tiểu luận sẽ
chỉ ra cho người đọc cách nhìn nhận khách quan về những sai lầm của Việt Nam
trong bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1977.
Bài làm có sử dụng một số trích dẫn từ những nguồn tư liệu tin cậy đã được
trích dẫn trong nội dung chính của tiểu luận.
I. Bối cảnh quốc tế sau năm 1975
1. Tình hình thế giới
Trên bình diện thế giới nói chung, chủ trương gây căng thẳng quốc tế chống
các nước xã hội chủ nghĩa lan rộng, xu thế đối đầu dần thay thế thời kỳ hòa dịu,
chiến tranh lạnh lại tiếp tục tung hoành.
Trên thế giới xuất hiện xu thế ưu tiên phát triển kinh tế, các nước lớn như
Mỹ trở nên chán ngấy chiến tranh kể từ sau “hội chứng Việt Nam”. Tuy nhiên Mỹ
và các nước tư bản sẵn sàng mở rộng quan hệ với Việt Nam.
Các nước xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô bắt đầu suy yếu, mâu thuẫn
Xô – Trung trở nên gay gắt. Trung Quốc hằm hè với Việt Nam do Việt Nam tỏ ra
ngả về phía Liên Xô, chủ trương nuôi dưỡng và xúi giục chính quyền Khơ me đỏ ở
Campuchia khiêu khích chống lại Việt Nam.
Trong khu vực Đông Nam Á, mặc dù e ngại Việt Nam sợ bị trả thù do đã
ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến với nước ta, song các nước cũng sẵn lòng hợp tác, mở
rộng quan hệ với Việt Nam ta. Biên giới phía Tây Nam xảy ra xung đột với
Campuchia, có tác nhân từ phía Trung Quốc.
2. Tình hình trong nước
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân vừa hoàn thành, đất nước thống
nhất sẵn sàng đi vào thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, vết thương chiến tranh thì vẫn
còn đó, đời sống nhân dân vẫn rất khó khăn. Yêu cầu của đất nước đặt ra lúc này là
hòa bình ổn định để phát triển.
Nhà nước chủ trương quốc hữu hóa nhiều công ty, xí nghiệp tư nhân, tịch thu
tài sản của tầng lớp tư sản, và tiểu tư sản gây bất bình trong một bộ phận nhân dân.
II. Chính sách của Mỹ và Việt Nam
1. Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam
Sau chiến tranh Việt Nam, năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, vẫn
giữ quan điểm muốn Việt Nam độc lập với Liên Xô, Trung Quốc và hòa nhập vào
ASEAN.
Chính quyền Ford về cơ bản vẫn tiếp tục chính sách thù địch với Việt Nam,
phủ quyết Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc, đưa ra điều kiện cho bình thường
hóa quan hệ.
Tuy nhiên, sau khi Jimmy Carter đắc cử Tổng thống năm 1977, với nỗ lực
tạo bộ mặt mới cho Mỹ, đưa nỗi ám ảnh về cuộc chiến Việt Nam ra khỏi đất nước,
đồng thời ngăn ảnh hưởng của Liên Xô đối với thế giới III, Jimmy Carter đã chủ
trương bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, Cu Ba. Đưa ra kế hoạch 3 bước về
bình thường hóa với nước ta, bao gồm: Vấn đề tìm kiếm lính Mỹ mất tích trong
chiến tranh, đồng ý cho Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, lập quan hệ ngoại giao với
Việt Nam.
2. Chính sách ngoại giao của Việt Nam đối với Mỹ
Việt Nam vẫn coi Mỹ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm đang lăm le thi hành
“kế hoạch hậu chiến” chống ta 1 (Trịnh Xuân Lãng, Một vài suy nghĩ về chính sách
của ta đối với các nước ASEAN và đối với Mỹ từ năm 1975 đến năm 1979). Chúng
ta chủ trương chống chính sách xâm lược và gây chiến của Đế quốc, đứng đầu là
Mỹ. Trong bình thường hóa quan hệ, Việt Nam cương quyết buộc Mỹ phải thực
hiện cả gói 3 điều kiện, bao gồm Điều 21 của Hiệp định Paris, theo đó, Hoa Kỳ sẽ
đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, công cuộc xây dựng sau chiến
tranh ở Việt Nam Dân chủ cộng hòa và toàn Đông Dương.
III. Bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, cơ hội ngàn vàng có bị bỏ lỡ?
1. Cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ 1977
Năm 1977, Jimmy Carter lên làm Tổng thống Hoa Kỳ, với mục tiêu ngăn
cản ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc mạnh mẽ trong khu vực, không muốn
Comment [U1]: Chuyển footnote
thêm bất cứ một nước nào ở khu vực Đông Nam Á rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa
cộng sản. Hay nói cách khác, chính quyền mới đặt lợi ích của Mỹ ở khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương là bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, Đại sứ Mỹ tại
Liên Hợp Quốc, tháng 1. 1977, Andrew Young nói rõ: “Chúng tôi coi Việt Nam
như một Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay Liên Xô,
mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi
ích quốc gia của Mỹ”.
Tiếp đó ngày 06.1.1977, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3
bước về bình thường hóa quan hệ với Việt Nam:
1.
Việt Nam cho biết tin về vấn đề MIA “người Mỹ mất tích trong
chiến tranh”
2.
Mỹ chấp nhận Việt Nam vào Liên Hợp Quốc và sẵn sàng lập
quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam.
3.
Mỹ có thể đóng ghóp khôi phục tại Việt Nam bằng cách phát
triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khác. 2 (Hồi
ký Trần Quang Cơ, Việt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20)
Chính quyền Carter bật đèn xanh cho Việt Nam bằng các động thái như nới
lỏng một phần cấm vận với ta ngày 03.3.1977, tiếp đó ngày 09.3.1977 Mỹ cho phép
công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam. Đến giữa tháng 3, Carter cử đặc phái viên
Leonard Wood cock sang thăm nước ta và đi đến thỏa thuận mở cuộc đàm phán về
bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tại Paris. Cuộc đàm phán diễn ra
trong thời gian khá dài, phải qua 3 vòng đàm phán:
-
Vòng đàm phán thứ nhất ngày 3 – 4.5.1977, lập trường của Mỹ
là hai bên sẽ thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, những
vấn đề còn tồn tại sẽ giải quyết sau, Mỹ cũng lý giải về việc thi hành điều 21,
Hiệp định Paris rằng nước này có khó khăn về pháp luật nên không thực
hiện được, hứa sẽ thực hiện khi đã có quan hệ, bỏ cấm vận và xét viện trợ
nhân đạo. Tuy nhiên, phía Việt Nam lại nhất nhất phải giải quyết xong vấn
Comment [U2]: Chuyển sang footnote
đề MIA, và buộc phía Mỹ viện trợ 3,2 tỷ USD như đã hứa hẹn trước đây. Bất
đồng quan điểm nên vòng đàm phán thứ nhất thất bại.
-
Vòng đàm phán thứ hai, ngày 2 – 3.6.1977, Mỹ lại đưa ra đề
nghị tương tự, Việt Nam vẫn “cứng đầu” không kém. Vòng đàm phán lại thất
bại.
-
Vòng đàm phán thứ ba, ngày 19 – 20.12.1978, lúc này Mỹ thi
hành bước thứ hai trong kế hoạch bình thường hóa quan hệ với Việt Nam,
theo đó Mỹ quyết định rút bỏ quyền phủ quyết Việt Nam tham gia vào Liên
Hợp Quốc, Mỹ cũng đề nghị nếu chưa thỏa thuận được về việc thiết lập quan
hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng Quyền Lợi ở thủ đô hai nước,
nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cứng nhắc lập
luận như lúc đầu.
2. Tại sao Việt Nam bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa với Mỹ năm 1977?
Xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc chính quyền Mỹ dưới thời Jimmy
Carter tỏ rõ quan điểm bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Và rõ ràng là việc
quan hệ Việt – Mỹ được cải thiện chẳng có hại gì mà thậm chí còn là cái lợi to lớn
cho Việt Nam, vậy vì đâu cơ hội ngàn vàng ấy bị bỏ lỡ?
Câu trả lời đến từ ý thức hệ của giới lãnh đạo Việt Nam. Thứ nhất, nhìn nhận
không đúng tình hình thế giới, thứ hai tư tưởng huênh hoang sau chiến thắng trước
một nước tầm cỡ như Mỹ, thứ ba cố chấp duy ý chí, không đề cao lợi ích to lớn của
quốc gia, dân tộc.
Sai lầm đầu tiên dễ thấy là việc Đảng và nhà nước ta nhận định sai lầm về
tình hình thế giới. Đảng ta quá sai lầm khi nhận định “Cuộc sống ngày càng chứng
tỏ sức mạnh của chủ nghĩa xã hội là vô địch và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
ngày càng phát huy tác dụng là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài
người. Đó là thành trì kiên cố của cách mạng vô sản thế giới, là chỗ dựa vững chắc
cho phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội”
3
(Văn
kiện Đại hội IV). Cho rằng chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn mạnh, còn chủ nghĩa tư
Comment [U3]: footnote
bản đứng đầu là Mỹ đang suy yếu và rơi vào khủng hoảng, trong khi không thấy
được rằng chính anh cả Liên Xô đang phải trả giá vì chạy đua vũ trang, nền kinh tế
bị đình trệ.
Đại hội IV , tháng 12/1976 cũng cho rằng: “nước ta tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế thuận lợi”. Thế nào là thuận lợi, khi trước mắt
còn bao khó khăn thử thách, bị Mỹ cấm vận, không cân bằng được quan hệ với
Trung Quốc và Liên Xô. Không thấy được rằng anh hai Trung Quốc đang cay cú
với việc Việt Nam thân với Liên Xô hơn, đồng thời cũng không nhận ra được
những hành động khiêu khích của Polpot ở khu vực biên giới Tây Nam có bàn tay
của Trung Quốc.
Vì nhận định tình hình các nước lớn sai, mà Việt Nam xem nhẹ việc bình
thường hóa với Mỹ, cho rằng không bình thường hóa cũng không ảnh hưởng gì
nhiều bởi đã có hai người anh to lớn đỡ đầu.
Lý do thứ hai góp phần làm đổ bể cơ hội “trời cho” này là thái độ huênh
hoang, tự cao tự đại: “Thắng lợi đó đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ
đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại
sâu sắc…”, “đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc mở rộng trận địa của chủ nghĩa
xã hội, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á”, “làm
đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng”, “tăng thêm sức mạnh và
thế tiến công của các trào lưu cách mạng của thời đại.” 6 (Đại hội IV), đúng là đánh
đuổi Mỹ là một chiến công của Việt Nam, song quá tự hào vì thành công ấy, cho
rằng một nước nhỏ như Việt Nam có thể đánh bại được một tên đế quốc sừng sỏ
như Mỹ khiến toàn nhân loại thán phục, mà quên mất rằng Việt Nam vẫn đang là
một nước nghèo nàn, lạc hậu và nhiệm vụ trọng tâm chiến lược thời kỳ hòa bình
thống nhất đất nước phải là phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân.
Bởi thế nên, khi Mỹ muốn đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, dù Mỹ đã
nhân nhượng trong phạm vi có thể, song Việt Nam vẫn với tâm lý hiếu thắng nhất
nhất đòi Mỹ viện trợ 3,2 tỷ USD để hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong khi
Comment [U4]: footnote
không nhận ra được rằng, điều đó là không thể, bởi Nghị viện Mỹ đã thông qua đạo
luật cấm bồi thường cho Việt Nam. Dù muốn hay không thì điều đó cũng không thể
thay đổi.
Không ai có thể phủ nhận được rằng bình thường hóa quan hệ với Mỹ mang
đến cho Việt Nam cơ hội “mở mày mở mặt” với thế giới, bằng chứng là nếu quan
hệ Việt – Mỹ bình thường thì cấm vận của Mỹ đối với nước ta sẽ bị dỡ bỏ, như vậy
thì việc làm ăn buôn bán của các công ty, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá thể sẽ suôn
sẻ và lời lãi hơn. Nhưng, dường như với bản tính chai lỳ, cố chấp, hiếu thắng, ưa
chỉ đạo tích tụ từ bao nhiêu năm kháng chiến giai đã khiến cho những nhà lãnh đạo
thờ ơ, không cân nhắc đến vấn đề này.
IV. Cái giá Việt Nam phải trả
Rõ ràng rằng sai lầm là do giới lãnh đạo, song hậu quả đáng buồn thì cả một
dân tộc Việt Nam phải gánh chịu.
1. Hậu quả trước mắt
Tháng 10/1978 khi nhận ra sai lầm vì đã bỏ lỡ cơ hội năm 1977, Việt Nam
quyết định rút bỏ thi hành điều 21, những tưởng quan hệ Việt – Mỹ sẽ trở nên tốt
đẹp,nhưng không! Cùng lúc tiến hành đàm phán với Việt Nam, Mỹ cũng đặt vấn đề
bình thường hóa với Trung Quốc, trong chuyến thăm Bắc Kinh của Ngoại trưởng
Mỹ C. Vance, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Trung Quốc là NATO phương Đông” còn
“Việt Nam là Cu Ba phương Đông”. Hiểu được ý đồ của Trung Quốc, chính quyền
Carter đã chọn con đường bình thường hóa với Trung Quốc và gác lại câu chuyện
về Việt Nam.
Ngày 01.01.1979 Trung Quốc và Mỹ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao,
bắt tay nhau cấu kết chống lại Liên Xô. Điều này là một tổn thất, một hiểm họa đối
với Việt Nam, và cũng là một điều kiện để Trung Quốc tiếp tục âm mưu dùng
Polpot để quấy phá Việt Nam, tiến hành cuộc chiến Biên giới 1979 vừa để thăm dò
tình hình Liên Xô, vừa để răn đe Việt Nam mà lại không sợ phản ứng từ phía Mỹ.
Rõ ràng sai lầm của Việt Nam đã trở thành một “phần quà” đối với Trung Quốc.
Bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ bị gác lại, dù Mỹ đã chấp nhận cho Việt
Nam vào Liên Hợp Quốc, song những rào cản, cấm vận kinh tế thì vẫn còn đó.
Trong khi Trung Quốc ra mặt chống lại Việt Nam, nền kinh tế Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa khác suy yếu, kinh tế Việt Nam đối mặt với bao khó khăn, không
thể nào ngóc đầu lên được, dân chúng ở nhiều nơi cả miền bắc, miền nam vượt biên
với hi vọng tạo dựng cuộc sống mới trở thành gánh nặng cho đất nước, không
những thế hình ảnh Việt Nam đã bị hoen ố trong cuộc chiến “vì tình nghĩa” ở
Campuchia, nay lại càng tệ hại hơn.
2. Hậu quả lâu dài
Dù rằng những tội ác của Mỹ trên đất Việt, nhưng chúng ta cũng không thể
phủ nhận vai trò của Mỹ trong việc xây dựng nền kinh tế ở miền Nam, đưa miền
Nam trở thành một thành phố tầm cỡ trong khu vực Đông Nam Á. Trong tập hồi ký
của mình, Lý Quang Diệu có viết: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh
vai ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”
4
(Trần Quang Cơ, Hồi Ký và Suy Nghĩ)
Như vậy, rõ ràng là Mỹ thất bại trong cuộc chiến Việt Nam, song Mỹ giỏi
hơn chúng ta rất nhiều trong xây dựng phát triển kinh tế điều này không phải bàn
cãi. Tuy nhiên, tại sao sau ngày cả nước thống nhất, dưới sự cai quản của Đảng và
nhà nước thành phố Hồ Chí Minh tụt lại đằng sau Bangkok đến 20 năm? Tại quản
lý kinh tế vi mô, vĩ mô của người Việt kém? Hay tại vì do Mỹ cấm vận nên muốn
phát triển cũng khó? Câu trả lời ở cả hai ý trên. Những người lãnh đạo Việt Nam
vốn chỉ quen với súng ống, pháo đạn, tư tưởng thời chiến dày dặn tích lũy suốt cả
mấy chục năm trời nào đâu có biết quản lý kinh tế thế nào cho hiệu quả, cùng với
cấm vận của Mỹ, chẳng mấy nước tư bản nào dám giao du với Việt Nam, mà có
giao du đi nữa thì với bản tính “cộng sản” bảo thủ chủ trương tẩy chay tất cả mọi
thứ liên quan đến tư bản thì Việt Nam cũng sẽ chẳng đáp lời. Sau chiến tranh, kế
hoạch 5 năm (1976 – 1980) với trọng tâm phát triển công nghiệp nặng và nông
nghiệp được Đảng, Nhà nước đặt ra, nhân dân ta tràn trề hi vọng vào một sự thay
đổi nhưng cái họ nhận được là gì? Kế hoạch 5 năm kết thúc sản lượng công nghiệp
chỉ tăng 0,6%, nông nghiệp tăng có khá hơn chút đỉnh ở mức 1,9%
5
(Vietnam –
Economic development, nationencyclopedia.com). Con số nói lên rằng dường như
kinh tế Việt Nam dậm chân tại chỗ trong suốt 5 năm trời, đó là minh chứng cho lời
nhận xét của Lý Quang Diệu.
Sai lầm vì bỏ lỡ cơ hội năm 1977, Trung Quốc xuất hiện phá tan cơ hội bình
thường hóa năm 1978 và kể từ đó cho đến năm 1994, gần 20 năm sau quan hệ Việt
– Mỹ mới lành lại khi Tổng thống Bill Clinton dỡ bỏ hàng dào cấm vận. Hãy thử
làm một phép thử, nếu cơ hội bình thường hóa 1977 không bị bỏ lỡ, thì kinh tế Việt
Nam có chậm lại so với Thái Lan, Trung Quốc. Và GDP bình quân đầu người của
nước ta cho tới năm 2008 có dừng lại ở 1.000 $? Dù tình hình chính trị có nhiều
bất ổn nhưng con số này của Thái Lan là 7.500 $ gấp 7,5 lần so với Việt Nam. Con
số chênh lệch trên là rất nhỏ so với các nước rồng hổ trong khu vực, những nước
mà có mối quan hệ tốt đẹp với Mỹ từ sớm như Sigapore, Hàn Quốc. Nếu như các
nước như Hàn Quốc, Singapore sau khi chiến tranh kết thúc, đi theo con đường
đúng đắn họ nhanh chóng trở nên giàu có như hôm nay, thì đã bao năm qua đi cho
tới nay, Việt Nam vẫn nằm trong số những nước nghèo nhất thế giới, đứng ở vị trí
thứ 141/179 quốc gia trên thế giới. Chính sai lầm do không biết nắm giữ cơ hội,
cộng với tầm nhìn hạn hẹp, chính sách đối nội, đối ngoại lệch hướng khiến Việt
Nam phải trả giá.
Comment [U5]: footnote
LỜI KẾT
Nếm mùi đắng cay trong cuộc chiến Campuchia, và chiến tranh Biên giới
Việt – Trung 1979, suốt gần hai chục năm cấm vận, đó là cái giá quá đắt mà Việt
Nam phải trả do bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Đó âu cũng là bài
học xương máu, cảnh tỉnh những ai từng dương dương tự đắc về một Việt Nam tài
giỏi cừ khôi, đánh thắng cả đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, thức dậy những ai
đang lãng quên lợi ích cao nhất của quốc gia dân tộc, chạy theo cái gọi là lý tưởng
cá nhân. Rõ ràng là Mỹ đã đặt lên tay Việt Nam cơ hội bình thường hóa, nhưng do
tầm nhìn hạn chế, tư tưởng cố chấp, cổ hủ của ý thức hệ, chúng ta đã gạt phắt đi.
Để rồi những nỗ lực sau đó trở nên vô ích bởi sự can thiệp của Trung Quốc, và sự
sa lầy vào cuộc chiến Campuchia. Sai lầm nối tiếp sai lầm, chỉ đến ngày 3.2.1994
bằng việc dỡ bỏ hoàn toàn hàng rào cấm vận, quan hệ Việt – Mỹ mới bình thường
trở lại, kể từ đó, kinh tế Việt Nam có những chuyển biến rõ rệt, cho đến nay đầu
năm 2009 Việt Nam đã đạt được không ít thành tựu đáng chú ý. Song dù vậy, vẫn
không ít người, trong đó có cá nhân tôi, có cùng chung suy nghĩ, tại sao những
người đứng đầu Đảng và nhà nước ta khi ấy lại không sáng suốt hơn để bây giờ và
những thế hệ mai sau người đời không phải nói hai từ giá như…
Danh mục tài liệu tham khảo
1.
TS. Nguyễn Vũ Tùng, Chính sách đối ngoại Việt Nam, NXB
Thế giới, Hà Nội, 2007.
2.
Lê Linh Lan, Qúa trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ:
kinh nghiệm và bài học, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 01. 2006.
3.
Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, 25.3.2003.
4.
Vietnam war history, vietnamwar.com
5.
Vietnam – Economic development, nationencyclopedia.com
6.
Vietnam War, encarta.sms.com
7.
List of countries by GDP, wikipedia.org.com
- Xem thêm -