VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Ờ
Ệ
NAM 1945 - 1975
LUẬN ÁN TI
SĨ Ă
ỌC
Hà Nội, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Ờ
Ệ
NAM 1945 - 1975
Ă
Ọ
Ệ
66 22 01 21
LUẬN ÁN TI
SĨ Ă
ỌC
gười hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phan Trọng hưởng
Hà Nội, năm 2017
LỜ
Ả
Em xin trân trọng cảm ơn thầy hướng dẫn PGS.TS Phan Trọng Thưởng, các
thành viên trong hội đồng chấm luận án và các thầy cô trực tiếp giảng dạy tại Học
viện Khoa học xã hội đã chỉ bảo, đóng góp ý kiến để em đạt được kết quả này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Viện từ điển học và Bách khoa thư
Việt Nam cùng các đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận án.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, người thân đã luôn
động viên, ủng hộ để em có thêm ý chí, động lực phấn đấu học tập, nghiên cứu và
hoàn thiện luận án này.
Luận án không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được tiếp thu ý kiến
đóng góp chân thành của các nhà khoa học và độc giả.
Tác giả luận án
Trần Thị
ường
L
Ở
1.
Ứ
Ệ
1 45 - 1975 ...................................................................... 7
1.1. Nghiên cứu về biểu tượng: cái nhìn từ lý thuyết .................................................................. 7
1.2. Lịch sử nghiên cứu về biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975........... 18
2. HỆ BI
NG VỚI TÂM THỨC DÂN TỘ
CHI N VIỆT NAM 1945 -1975
2.1. Phác thảo về thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975 .......................................................... 39
2.2. Hệ biểu tượng của chân lý...................................................................................................... 43
2.3. Hệ biểu tượng của niềm tin chiến thắng................................................................................ 59
2.4. Hệ biểu tượng về khát vọng hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc ........ Error! Bookmark not
defined.
2.5. Mẹ - Em: Căn tính Mẫu thời chiến ........................................................................................ 74
2.6. Hệ biểu tượng về thành quả cách mạng ................................................................................ 84
3. Ệ BI
NG V CHI
N
VIỆT NAM 1945 -1975
3.1. Máu: Từ đau thương đến hành động ................................................................................... 102
3.2. Lửa: Biểu tượng đặc trưng ................................................................................................... 111
3.3. Biểu tượng về Kẻ thù............................................................................................................ 120
4. P
ỨC KI N TẠO BI
NG
CHI N VIỆT NAM 1945 - 1975 ............................................................................................. 127
4.1. Quá trình kiến tạo biểu tượng .............................................................................................. 127
4.2. Sử dụng triệt để các sắc thái tượng trưng của cổ mẫu...................................................... 130
4.3. Mở rộng biên độ tượng trưng trên nền tảng quan niệm mới ........................................... 136
4.4. Con đường đi đến biểu tượng ............................................................................................ 140
4.5. Sự trỗi dậy của hệ thống biểu tượng tập thể ..................................................................... 143
4.6. Kiến tạo biểu tượng - cái nhìn từ ngôn ngữ, giọng điệu .................................................. 146
K T LUẬN ................................................................................................................................. 154
DANH M C CÁC Ô
à Ô
Ố CỦA TÁC GIẢ ............................... 157
DANH M C TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 158
1
LỜ
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu và kết
quả nghiên cứu đưa ra trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
Trần Thị ường
2
Ở
1.
nh
p hi
ủ
i
Lịch sử nghiên cứu, lí luận phê bình văn học đã chứng kiến một thời kì dài khi nghiên
cứu về thơ nói chung và thơ kháng chiến nói riêng, do tác động của của nhiều yếu tố khách
quan, người ta cố tình tẩy chay những tác phẩm “có tính hai mặt”, tránh nói đến biểu tượng,
phủ nhận tính đa nghĩa của văn học. Biểu tượng thường bị chìm sau hình tượng, hình ảnh,
hoặc thậm chí bị đồng nhất là một khái niệm. Sau này, xuất hiện thêm một số công trình
nghiên cứu về biểu tượng, song cũng chỉ dừng lại khảo sát ở các giai đoạn văn học trước, từ
góc độ văn hóa, đặc trưng văn hóa. Ngày nay, với sự trưởng thành của tư duy lí luận, người
ta trở lại tập trung nghiên cứu về biểu tượng. Biểu tượng nằm ở vị trí trung tâm và được coi
là trái tim của cuộc sống giàu tưởng tượng. “Một thế giới không có biểu tượng thì sẽ ngạt
thở. Nó sẽ tức thì giết chết đời sống tinh thần của con người” (Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới). Đối với văn học nghệ thuật - một biểu hiện của đời sống tinh thần con người thì
biểu tượng là một trong những yếu tố hấp dẫn nhất. Nó được sử dụng như một mã nghệ thuật
quan trọng. Việc giải mã biểu tượng không chỉ đem lại những khám phá, lí giải về quá trình
sáng tạo nghệ thuật của tác giả mà còn giúp ta hiểu sâu hơn bản chất sáng tạo nghệ thuật.
Chiến tranh đã lùi sâu vào quá khứ, nhưng qua thời gian, đến nay vẫn có thể khẳng định
thơ kháng chiến còn giữ nguyên giá trị trong lịch sử thơ ca. Những bài thơ hay vẫn sống
trong lòng người yêu thơ nhiều thế hệ. Truyền thống của nó như một mạch ngầm vẫn tiếp tục
lưu chuyển hồng cầu vào sự sống của thơ đương đại. Thơ kháng chiến đã góp phần không
nhỏ làm nên diện mạo thơ ca dân tộc. Đây cũng là một chặng đường thơ với nhiều đặc điểm
thách thức những cách nhìn nhận, đánh giá chưa dễ đồng thuận, đồng thời cũng chứa nhiều
vấn đề đặt ra cho mối quan hệ giữa thơ ca với các phương diện thiết yếu. Do vị thế quan
trọng như vậy nên việc nghiên cứu Biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975
rất được quan tâm, tuy nhiên các công trình trước đây chủ yếu tập trung tìm hiểu về thể loại,
đặc điểm, diện mạo, phong cách tác giả... Chọn đề tài này để nghiên cứu, chúng tôi mong
muốn tiếp cận một cách chuyên sâu về hệ biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam 19451975 với cái nhìn bao quát và toàn diện nhất.
3
2.
ụ
. .
h
nhi m ụ nghi n ứ
ủ
ận n
c đích của luận án
- Nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện những biểu tượng trong thơ kháng chiến
Việt Nam 1945 - 1975, từ đó nhìn nhận rõ hơn sự sáng tạo và đặc điểm tư duy nghệ thuật của
các nhà thơ, thấy được vai trò của hệ thống biểu tượng trong việc góp phần làm nên phong
cách độc đáo của đội ngũ tác giả sáng tác trong giai đoạn này.
- Tìm hiểu hệ thống biểu tượng trong thơ Việt Nam thời kì kháng chiến 1945 - 1975
không chỉ là cơ sở để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của các tác giả mà còn giúp
chúng ta nhận thức lại, đánh giá khách quan và toàn diện hơn về văn học giai đoạn này.
- Xác định đúng vị trí và những đóng góp của các nhà thơ trong giai đoạn văn học kháng
chiến đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
. . Nhiệm v của luận án
- Giới thuyết khung l thuyết cơ bản liên quan đến việc nghiên cứu và giải mã hệ thống biểu
tượng trong thơ kháng chiến 1945 - 1975, từ đó lựa chọn cách tiếp cận của luận án.
- Khảo sát và phân loại hệ thống biểu tượng trong thơ kháng chiến 1945 - 1975 để rút ra
những kết luận cần thiết.
- Nghiên cứu và tìm hiểu phương thức kiến tạo hệ thống biểu tượng trong thơ kháng chiến
Việt Nam 1945 - 1975.
3.
i ượng
phạm vi nghiên cứ
ủ
ận n
3. . Đối tượng nghiên cứu:
- Biểu tượng trong thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ 1945-1975.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Các tác phẩm thơ tiêu biểu chứa đựng hệ biểu tượng cơ bản về chiến tranh được sáng tác
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ 1945 - 1975. Đây cũng chính là quan
niệm của chúng tôi về khái niệm “thơ kháng chiến” được sử dụng trong luận án này.
- Do khối lượng các tác phẩm khảo sát khá đồ sộ trong một khoảng thời gian tương đối
dài nên chúng tôi xin được giới hạn không nghiên cứu các tác phẩm thơ trong vùng địch
kiểm soát (vùng đế quốc Pháp tạm chiếm 1946-1954 và vùng Mỹ kiểm soát ở miền Nam từ
1964 - 1975). Chúng tôi dự kiến sẽ khảo sát mảng thơ này bằng cách tiếp cận khác trong
công trình tiếp theo.
4. Phư ng ph p
ận
phư ng ph p
ận nghi n ứ
4. . Phương pháp tiếp cận hệ thống:
4
Biểu tượng chỉ tồn tại và phát huy sức mạnh của nó như một loại năng lượng đặc biệt
khi nó được đặt trong hệ thống. Bên cạnh khái niệm biểu tượng (symbol) còn có thuật ngữ hệ
biểu tượng (symbolique). Tiếp cận biểu tượng chúng tôi đặt chúng trong hệ thống hình ảnh
của mỗi tác phẩm, xâu chuỗi chúng trong thế giới thơ của mỗi tác giả và hình thành sợi dây
liên hệ giữa các biểu tượng trong các tác phẩm thuộc giai đoạn 1945 - 1975.
4. .Phương pháp thống kê, phân loại:
Phương pháp thống kê giúp phát hiện và cho kết quả về tần số xuất hiện của các biểu
tượng trong các tập thơ của các tác giả thuộc diện khảo sát. Từ đó chúng tôi tiến hành phân loại
biểu tượng theo các phạm trù để đưa về các nhóm, tạo điều kiện cho việc giải mã biểu tượng.
4.3.Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Việc giải mã các biểu tượng chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa bề
mặt ngôn từ và
nghĩa biểu trưng. Trong quá trình phân tích, luận án chú trọng vào một số
biểu tượng tiêu biểu. Từ đó tổng hợp và rút ra những kết luận mang tính khái quát.
4.4. Phương pháp so sánh văn học:
So sánh, đối chiếu biểu tượng giữa các tập thơ của một tác giả hay giữa tác giả này
với tác giả khác là một cách nghiên cứu để thấy nét riêng trong sự sáng tạo biểu tượng thơ
của từng nghệ sĩ và thể hiện tính sống động, giàu có về nghĩa biểu trưng của biểu tượng.
4.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành:
Biểu tượng là đối tượng quan tâm của nhiều ngành khoa học, bởi trên con đường phát
triển, mỗi ngành đều thấy xuất hiện các biểu tượng. Do đó, khi nghiên cứu chúng tôi vận
dụng kết hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học như: Tâm lí học, Ngôn ngữ học, Văn hóa
học…
5.
ng g p mới
ho họ
ủ
ận n
Luận án là công trình khoa học đầu tiên đặt ra và nghiên cứu một cách đầy đủ về hệ
thống biểu tượng xuất hiện trong thơ Việt Nam thời kì kháng chiến 1945 -1975. Qua đó, sẽ
giúp chúng ta có cái nhìn khách quan và toàn diện hơn về diện mạo và quá trình đổi mới của
thơ Việt Nam thời kì kháng chiến; đồng thời xác định lại vai trò, vị trí của các nhà thơ trong
nền thơ ca dân tộc.
6.
6. .
ngh
ận
h
i n ủ
ận n
ngh a lý luận:
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về biểu tượng
trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975 trên cơ sở coi thơ kháng chiến Việt Nam 1945 5
1975 là một diễn ngôn. Diễn ngôn thơ kháng chiến là một diễn ngôn nghệ thuật nhưng cũng
là một diễn ngôn văn hóa, diễn ngôn chính trị, diễn ngôn
thức hệ, diễn ngôn thời đại, diễn
ngôn cộng đồng… Luận án tập trung giải quyết một số vấn đề l thuyết nghiên cứu biểu
tượng, giới thuyết biểu tượng, các hướng tiếp cận l thuyết, lịch sử nghiên cứu biểu tượng
trong thơ kháng chiến Việt Nam, từ đó tạo nền móng cho việc nghiên cứu biểu tượng thơ
kháng chiến.
6. .
ngh a thực ti n:
Công trình có thể là tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập phần thơ kháng chiến cho
giáo viên, học sinh ở các trường phổ thông; là tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Ngữ
văn, khoa Văn học ở các trường Cao đẳng, Đại học. Đồng thời, cũng có thể là tài liệu tham
khảo hữu ích cho giới nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại khi tìm hiểu về thơ ca Việt Nam
giai đoạn 1945 - 1975.
7.
ủ
ận n
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung Luận án bao gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945 - 1975.
Chương 2: Hệ biểu tượng với tâm thức dân tộc trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945-1975.
Chương 3: Hệ biểu tượng về chiến tranh trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945-1975.
Chương 4: Phương thức kiến tạo biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975.
6
1
Ứ
Ệ
1.1.
Nghiên cứu v biể
1 45 - 1975
ượng: cái nhìn từ lý thuy t
1.1.1. Giới thuyết khái niệm
Trong truyền thống nhận thức phương Đông và phương Tây, biểu tượng luôn được hiểu
là một dạng thức biểu đạt của thế giới tinh thần và tư tưởng. Trong ngôn ngữ cổ Hy Lạp - La
Mã [29, 12] hay trong tiếng Hán [4, 64], tiếng Việt [90, 66] biểu tượng được hình dung là
hình thức mang
nghĩa, biểu đạt nội dung trong tâm tưởng, trong đó,
nghĩa có xu hướng
lớn hơn, phong phú hơn bản thân hình thức tri nhận được. Nói cách khác, nếu hình thức tri
nhận của biểu tượng là A thì
nghĩa của biểu tượng luôn luôn là A+… Sự dôi dư về nghĩa
hay khả năng lưu giữ ký ức, khả năng tích hợp các sắc thái mới, là bản chất của biểu tượng.
Do vậy, A+… về thực tế là một diễn giải bất tận về biểu tượng trong những tương quan
tương đối về lịch sử, văn hoá, thời đại hay chủng tộc, quốc gia, thể chế, cộng đồng, cá
nhân,… Từ điển Liungman xác lập rằng, biểu tượng: “có nhiều hơn một
nghĩa là đại diện
cho chính bản thân nó” [29, 12]. Điều này cũng được nhắc lại như là quan điểm của các tác
giả Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới.
Biểu tượng là một kết đọng của khả năng chuyển hoá nhận thức chủ quan thành các
dạng thức tri nhận khách quan. Sự phóng chiếu kinh nghiệm cá nhân vào trong các hình thức
biểu đạt làm giàu lên các hình thức ấy từ trong nội thể, hình thành một quyển biểu tượng, cho
phép sự diễn dịch tham gia vào quá trình tạo dựng các hệ thống
nghĩa, dựa trên những căn
cứ liên đới từ hình thức tri nhận trực quan đến các kho ký ức liên tưởng. Cùng với sự trưởng
thành của triết học nhân sinh, sự phát hiện ra chủ thể tính trong việc tiếp cận các thực thể
khách quan, sự độc lập có tính tương đối của ngôn ngữ đối với chủ thể, các thành tựu của
khoa tâm lý học, vật lý học,… đã tạo ra những đóng góp mới trong nghiên cứu biểu tượng.
Có những phân vân giữa biểu tượng như là hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, tri
giác với biểu tượng như là hình thức khách quan hàm chứa giá trị tượng trưng. Sự phân vân
nằm ở giữa cái nhận thức bằng hình thức trực quan sau quá trình cảm giác và tri giác với
những lớp biểu trưng hàm chứa phía bề sâu của biểu tượng. Hay nói cách khác, biểu tượng là
kết quả của cảm giác, tri giác, đem đến nhận thức cho con người về thế giới. Quá trình Cảm
giác - Tri giác - Biểu tượng đã nói lên khía cạnh nhận thức thực tiễn của con người thể hiện
7
qua sự tồn tại của biểu tượng. Tuy nhiên, biểu tượng mà chúng ta đang bàn đến trong luận án
này là những hình thức mang giá trị tượng trưng - khía cạnh thứ hai của biểu tượng. Biểu
tượng, như thế, là hình thức của những thông điệp, những ẩn giấu bên trong mà con người
gửi gắm. Từ mặt trăng, mặt trời, đến đất đai, ruộng vườn, dòng sông, mái nhà, con đường,…
đi vào nghệ thuật không chỉ là những hiện thực trực tiếp, cảm tính, mà đã được tôi luyện, làm
giàu để mang giá trị của những biểu tượng. Ý nghĩa bên trong của hình thức này nói lên cái
rộng lớn của tinh thần, tư tưởng mà con người đã sống, trải nghiệm và bày tỏ. Quá trình biểu
tượng hoá có thể xem là một tiến trình tất yếu của lịch sử phát triển loài người. Trải qua thời
gian, từ những viên đá, cành cây, ngọn lửa trong hang động đến chiếc lông chim trên mũ,
hình xăm trên thân thể, mái nhà che mưa nắng, dụng cụ lao động, các vật dụng liên quan đến
nghi lễ, phong tục,… được tích hợp các giá trị biểu đạt, trở thành biểu tượng. Chỉ khi trở
thành biểu tượng, các vật dụng, hình thức trực quan này mới có thể dẫn truyền qua các thế
hệ, qua thời gian, trở thành ký ức văn hoá, lịch sử, văn minh. Cũng từ các hệ thống biểu
tượng này, người ta nhận ra dấu vết của lịch sử, cộng đồng, dân tộc, và các thông điệp từ quá
khứ, từ những cộng đồng khác. Đối với văn chương nghệ thuật, do đặc tính giao tiếp gián
tiếp, biểu tượng lại càng trở nên quan trọng do những tầng lớp
nghĩa, thông điệp được gửi
gắm dưới hình thức trực quan. Ở khía cạnh tư duy nghệ thuật cũng như năng lực biểu đạt cách viết, biểu tượng cho thấy tài năng của người nghệ sĩ. Tư duy phức hợp, giàu có, với trí
tưởng tượng phong phú, những kênh liên tưởng bất ngờ, trường liên tưởng rộng lớn sẽ hình
thành nên các biểu tượng với biên độ liên tưởng sâu xa. Điều đó thực sự chỉ tìm thấy nơi
những tài năng sáng tạo có tầm vóc.
Biểu tượng trong không gian nghệ thuật cũng như đời sống, phải đảm bảo đặc tính ổn
định. Tính ổn định đến từ việc chúng xuất hiện nhiều lần, ám ảnh trong nghệ thuật, hiện diện
trong đời sống. Bởi thế, trong những khả năng hiện diện, trong vị thế mà nó xuất hiện, duy trì
những áp lực tri thức, kinh nghiệm, biểu đạt lên cộng đồng, “Các biểu tượng là một trong
những yếu tố bền vững nhất của không gian văn hoá” [49, 220]. Sự xuất hiện và tồn tại liên
tục, sự ổn định và bất biến của biểu tượng là một đặc tính để người ta căn cứ cho những diễn
dịch về quá khứ, ký ức và lịch sử. Điều đó đưa biểu tượng vào phạm trù của những ký hiệu
quan trọng, khả dĩ có thể làm sở cứ cho các tạo dựng thực tại xã hội đã qua cũng như đang
hiện diện. Tuy nhiên, đúng như IU. Lotman đã luận giải, sự bất biến không phải đến từ khả
năng bảo thủ, sự bền vững không thể thay đổi. Sự bất biến của biểu tượng lại do chính khả
năng tiếp nhận, biến thể một cách linh hoạt mà có [49, 221]. Chẳng hạn, biểu tượng mặt trời,
8
xuất hiện trong hầu hết các nền văn hoá, các dân tộc. Nhưng, khi thì nó là ánh sáng, sự sống,
khi thì là ấm áp, tươi vui, khi là biểu tượng của sức mạnh, nam tính, khi lại tượng trưng cho
l tưởng, niềm tin, hi vọng, khi lại nóng bỏng huỷ diệt,… [1, 576]. Chính sự linh hoạt trong
các biến thể này đã duy trì tính bất biến của biểu tượng trong các không gian văn hoá. Như
thế, ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia, dân tộc, thể chế, cộng đồng, cá nhân khác nhau sẽ có những
phương diện hoặc là bất biến hoặc là biến thể, gìn giữ hoặc tích hợp thêm các giá trị.
Trong một số công trình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam, mỗi khi vấn đề biểu tượng
được đặt ra, người ta luôn có một thao tác hết sức máy móc, là định nghĩa nó, sau đó đem so
sánh với biểu hiện, ký hiệu, ẩn dụ, hoán dụ,… Trong khi đó, về mặt nội hàm, biểu tượng
nhiều khi chưa thực sự được minh định. Biểu tượng dễ nhầm lẫn với ẩn dụ trong những mù
mờ về nhận thức ấy. Trong hình dung căn bản, sơ khai và minh bạch nhất, nếu ẩn dụ nói A
để chỉ B thì biểu tượng nói A để chỉ A, A+, A+… Như thế, ẩn dụ là những so sánh ngầm,
dựa trên sự tương đồng giữa A và B. Trong khi đó, biểu tượng là sự tổ hợp của các trường ý
niệm gợi lên từ A - không loại trừ A. A trước hết là A và toàn bộ những đặc tính liên quan
đến nó có thể xuất hiện trong tri nhận của cá nhân, cộng đồng. Như thế, ẩn dụ ít mang tính
đại diện, bởi trường diễn dịch của nó thường giới hạn trong những tương đồng và loại trừ
hình thức trực quan. Khi nói, “mưa dầm thấm đất” thì người ta nghĩ đến một lời nói hay việc
làm lâu dài, có hiệu quả mà không nghĩ đến hiện thực trực tiếp là “mưa dầm”, “đất”. Biểu
tượng dung nạp cả hình ảnh trực quan này để hội ý và truyền dẫn các trường ý niệm: Trăng
đi nhanh/ Hạt mưa trên lá/ Rơi lã chã (Basho) [72, 15]. Mưa là ẩn dụ và mưa là biểu tượng,
phản ánh hai trường tư duy, liên tưởng khác nhau, cũng là hai cấp độ tư duy khác nhau.
Đúng hơn, ẩn dụ phải mở rộng biên độ của mình mới có thể trở thành biểu tượng. Trong đó,
quan trọng hơn cả, ẩn dụ gắn với ngữ cảnh - văn bản (Text) mà biểu tượng gắn với văn hoá
(Culture). Do vậy, trong bối cảnh nghiên cứu rộng mở, liên ngành như hiện nay, trong nhận
thức đầy linh hoạt về văn bản, ngữ cảnh, liên văn bản, liên văn hoá,… sự dịch chuyển của ẩn
dụ sang phạm trù văn hoá đang được các nhà sáng tác để ý, xem như một vận động cần thiết
của tư duy nghệ thuật.
Tóm lại, để có một cách hiểu như là một công cụ, một trục lý thuyết trong quá trình
nghiên cứu biểu tượng trong thơ kháng chiến 1945 - 1975, chúng tôi quan niệm: Biểu tượng
là một hình ảnh (vật thể) tượng trưng mà ý nghĩa nội tại của nó giàu có, phong phú hơn bản
thân nó. Biểu tượng mang tính ổn định, bất biến nhưng vô cùng linh hoạt. Biểu tượng gìn giữ
ký ức và tích hợp các sắc thái tượng trưng mới. Biểu tượng gắn với văn hoá, lịch sử, quốc
9
gia, thể chế, cộng đồng, cá nhân. Biểu tượng là hiện thân của thế giới tinh thần phong phú,
một khả năng tưởng tượng, liên tưởng phức tạp, có chiều sâu, sự ám ảnh liên tục. Đó là điểm
hội tụ năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ, là tâm điểm của những diễn dịch nghệ thuật, lịch
sử và văn hoá.
1.1.2. Nghiên cứu biểu tượng: những nhận thức lý thuyết
Nghiên cứu biểu tượng cho đến thời điểm hiện tại không còn là một hướng đi mới lạ,
nhưng giàu tính đột phá và tính khả dụng. Bởi lẽ, giới khoa học nhân văn và cả giới sáng tác
đều có chung một nền tảng tri thức luận về vai trò của biểu tượng trong cấu trúc nghệ thuật,
đặc biệt, từ bản chất của giao tiếp nghệ thuật. Mang đặc tính là một hình thái của tư tưởng,
nghệ thuật nỗ lực tiến đến những khả năng biểu đạt thế giới tinh thần trong sự phong phú,
phức tạp, tiệm cận với bản chất của đời sống tinh thần con người. Do đó, biểu tượng đã trở
thành một hạt nhân tích trữ, hàm chứa năng lực thể hiện, biểu đạt bởi chính khả năng hội tụ,
bồi đắp và tích nhập các dữ kiện thông tin mới, lưu giữ ký ức lịch sử diễn giải, cho phép
trường hoạt động của biểu tượng là vô cực. Từ bản thân biểu tượng, từ những thành tựu
nghiên cứu liên ngành, biểu tượng càng ngày càng cho thấy khả năng của mình trong việc
diễn đạt thế giới của con người trong chiều kích sâu thẳm của tư tưởng.
Từ góc độ lý thuyết, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra nhiều hướng tiếp cận nghiên cứu biểu
tượng. Theo đó, những tiếp cận từ góc độ Ngôn ngữ học, Ký hiệu học, Nhân học, Phân tâm
học, Xã hội học, Khoa học liên ngành,… dịch chuyển từ giai đoạn cấu trúc luận sang hậu cấu
trúc, giải cấu trúc, liên văn bản, liên văn hoá, liên ngành,… cho thấy vị trí của biểu tượng
trong diễn giải văn chương nghệ thuật cũng như thông hiểu các thông điệp của đời sống.
1.1.2.1. Hướng nghiên cứu biểu tượng từ Ngôn ngữ học
Hướng nghiên cứu này xem biểu tượng như một ngôn ngữ (ngôn ngữ biểu tượng).
Truyền thống của hướng này khởi dẫn từ F. Saussure. Căn cứ trên lập luận về cái sở biểu cái biểu đạt và cái năng biểu - cái được biểu đạt, F. Saussure đã đề xuất những diễn giải về
ngôn ngữ như là một tập hợp các ký hiệu quy ước. Lập luận của Saussure đi đến chỗ cho
rằng, ngôn ngữ là tín hiệu, bao gồm hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt
chính là “hình ảnh âm thanh” và cái được biểu đạt chính là “khái niệm”. Hai mặt này hợp lại
thành một “tín hiệu” [26, 122]. F. Saussure cũng cẩn thận để cảnh báo rằng, những đồng nhất
cái “biểu trưng” với “cái biểu đạt” có chỗ bất tiện do việc cái biểu trưng hoàn toàn không võ
đoán (Võ đoán là đặc tính của tín hiệu ngôn ngữ - theo F. Saussure). Từ truyền thống Ngôn
ngữ học của Saussure đến những diễn giải về sau lấy tính biểu trưng - biểu đạt và cái được
10
biểu đạt quy ước cho các hiện thực tri nhận khách quan, chúng ta nhận ra hướng đi về phía
cấu trúc luận, trong đó, biểu tượng trở thành một ngôn ngữ [29, 25]. Đến đây, hướng nghiên
cứu biểu tượng từ Ngôn ngữ học có những gặp gỡ với hướng nghiên cứu Ký hiệu học. Việc
phân tích những bài giảng của F. Saussure về “hình hiệu”, “tín hiệu” hay “k hiệu” đã cho
thấy những băn khoăn trong việc tìm kiếm một cách gọi tên bản chất của đối tượng đang
được nói đến ở đây - Ngôn ngữ. Có lẽ, trong cái nhìn rộng rãi hơn, từ F. Saussure đến M.
Bakhtin, T. Todorov, biểu tượng là một ký hiệu, đồng thời, vách ngăn có tính cấu trúc luận
đã được giải toả bởi những quan điểm tiền phong hậu cấu trúc với đóng góp của R. Barthes
hay M. Foucault. Theo đó, R.Barthes đã kế thừa và đẩy xa hơn quan điểm của F. Sausure khi
cho rằng cái được biểu đạt trong cấu trúc sở biểu - năng biểu ngay lập tức chuyển hoá thành
cái biểu đạt. Cấu trúc cái biểu đạt và cái được biểu đạt chính là một ký hiệu [98, 299], một
diễn ngôn [75, 78]. Sự trương nở của các ký hiệu dẫn đến sự hình thành các huyền thoại là
một vấn đề rất cốt lõi, chi phối to lớn đến giao tiếp xã hội cũng như việc kiến tạo các thực tại
đời sống. Từ R. Barthes đến M. Foucault, tiếp gặp với truyền thống đối thoại, liên chủ thể
của M. Bakhtin qua ngả J. Kristeva, biểu tượng đã trở thành trung tâm của những nghiên cứu
liên văn bản, liên văn hoá và là một tấm thảm của những kiến tạo xã hội, văn hoá, lịch sử.
Nhân đây, nối kết vào diễn dịch này, nghiên cứu biểu tượng từ góc độ ký hiệu học còn có thể
nhắc đến Ch. Peirce như một nhánh phát triển ở Âu Mỹ. Ch. Peirce suy tư về tính “vô hạn
định” của ký hiệu thực chất có những điểm gặp gỡ với hành trình xô ngã cái được biểu đạt
thành cái biểu đạt trong lập luận của R. Barthes hay cấu trúc “tác phẩm mở” của U. Eco [29,
31]. Chính các học giả này đã nhận thấy tính chất vừa bất biến, ổn định, vừa linh hoạt vận
động, biến đổi, tiếp nhập của các biểu tượng - ký hiệu. Từ đó, những khả năng của diễn dịch
- đọc biểu tượng có cơ sở phát triển. Kết hợp với thành tựu của ngôn ngữ học tri nhận, triết
học ngôn ngữ, nghiên cứu biểu tượng dần tiến đến những khả năng tạo nên hướng nhận thức
mới về các thực tại xã hội trong tính tổng thể của nó.
1.1.2.2. Hướng nghiên cứu Nhân học biểu tượng
Nhu cầu đọc - diễn giải biểu tượng trong tính tổng thể của một ký hiệu, một thực tại xã
hội đã đưa các nhà nghiên cứu có thiên hướng này đến với ngành nhân (loại) học. Nhân học
nghiên cứu biểu tượng như một dữ liệu đời sống. Trong dẫn nhập của mình, Đinh Hồng Hải
trích lời Raymond Firth: “… các nhà nhân học được trang bị để giải thích
nghĩa của các
biểu tượng trong các nền văn hoá mà họ đang nghiên cứu, và sử dụng những lý giải như
những phương tiện trung gian để hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội” [29,
11
37]. Như thế, nhân học nghiên cứu biểu tượng không tách rời với các liên quan xã hội, đời
sống. Đúng như Đinh Hồng Hải đã tóm lược, nhân học biểu tượng: “nghiên cứu một cách
khái quát các thành tố văn hoá có tính biểu tượng trong đời sống của con người [29, 39]. Từ
hướng nghiên cứu nhân học, các học giả đi đến quan điểm: “chính chúng ta tạo nên bộ mặt
thực tại của văn hoá” [97, 670]. Dù có những vận động khác nhau về phương pháp, cách
thức tiếp cận, nhưng, cả Raymond Firth và những nhà nhân học biểu tượng khác như
Clifford Geertz, Victor Turner, Mary Douglas,… đều rất chú trọng đến nghĩa, vai trò cũng
như khả năng sinh tồn của biểu tượng trong các không gian văn hoá. Ở đó, họ tìm thấy
những thông điệp, những con đường thâm nhập vào thế giới tinh thần của con người, những
kiến tạo cho đời sống với những mẫu số chung về kinh nghiệm. Khái quát, không gian văn
hoá là sinh thái của biểu tượng. Nghiên cứu nhân học biểu tượng hướng đến những
nghĩa
của biểu tượng trong đời sống văn hoá, lịch sử, xã hội đã cho thấy tương lai ngày càng đến
gần nhau hơn của các ngành Văn hoá học, Nhân học, Xã hội học, Ký hiệu học, Phân tâm
học,… Dường như, ở những nơi giao thoa, tiếp gặp ấy, vấn đề cốt lõi là đời sống con người
trong những khả năng hiện diện phong phú nhất trở thành mối bận tâm của hầu hết các học
thuyết, các phương pháp. Có thể, sự khác nhau nằm ở hướng tiếp cận, còn mục đích - như
một ám ảnh tiên thiên, đã có cùng với sự tồn tại của lịch sử nhân loại.
1.1.2.3. Hướng nghiên cứu Phân tâm học
Do tính quan thiết đối với tiến trình sống của con người, nên biểu tượng được nhiều
ngành khoa học xã hội quan tâm. Cùng với Nhân học, như đã nói, Phân tâm học, Xã hội học
cũng có những tìm kiếm của riêng mình với tham vọng giải mã được các hiện tượng đời
sống, vốn vô cùng phong phú và phức tạp. Phân tâm học vốn là một ngành khoa học nghiên
cứu thế giới tinh thần chìm trong vô thức - phần được giấu kín của đời sống, thường hiện lên
thông qua các giấc mơ, các biểu tượng, cổ mẫu, các ám ảnh, mặc cảm, các trạng thái tâm lý
vượt ra khỏi sự kiểm soát của ý thức. Có nhiều hướng nghiên cứu phân tâm học khởi đi từ S.
Freud với những ám ảnh tính dục, nghiên cứu các xung năng thể hiện libido của con người,
đến phân tâm học vật chất của G. Bachelard, phân tâm học cổ mẫu của C. G. Jung, phân tâm
học tôn giáo của E. Fromm [96], [140], [139]. Đối với vấn đề biểu tượng, gắn với truyền
thống (vô thức) cộng đồng, có lẽ, C.G. Jung là một trong những đại diện tiêu biểu. Không
phủ nhận vai trò của biểu tượng như thành tố “chính yếu trong sự xây dựng xã hội loài
người” [10, 136], Jung đặt biểu tượng vào trong thế giới, nơi con người tạo nên thế giới theo
cả hướng xây dựng và huỷ diệt. Theo nhận định của Jung, các nhà phân tâm học để
12
đến
biểu tượng bởi truyền thống có tính ổn định, gắn với những ký ức cổ sơ, nguyên thuỷ loài
người. Chính yếu tố hoang sơ, nguyên thuỷ này lại tạo nên vẻ quyến rũ của những biểu
tượng. Ở đây, ta thấy rất rõ chủ trường đề cao vô thức tập thể của Jung trong việc nghiên cứu
biểu tượng. Nền văn minh kỹ nghệ, sự sùng bái toàn phần vào những thành tựu văn minh
thức, khiến cho loài người dần rời xa thế giới thiêng liêng vốn là nguồn cội của chính họ. Lo
lắng trước những động thái này, Jung đã kêu gọi con người trở về với những siêu tượng,
những biểu tượng ẩn chứa những niềm tin phi ý thức. Chính khi đó, biểu tượng tôn giáo, giấc
mơ, nghi lễ,… cất lời về những ký ức đã (không) ngủ yên trong đời sống con người. Jung
khẳng định nhiệm vụ của biểu tượng giấc mơ: “Nhiệm vụ sáng tạo của những biểu tượng
giấc mơ là sự cố gắng làm cho cái tâm thức đã tiến bộ, đã sáng suốt, nhớ lại tinh thần nguyên
thuỷ của con người” [10, 144]. Bù lại những lỗ hổng trong ký ức loài người, giấc mơ, những
siêu tượng, đã làm cái việc của một người trám vá, may lành những khuyết tật trong đời sống
con người. Niềm tin vào ý thức, sự thực là một dạng tật nguyền của sự sống. Nơi đó, tiềm
thức, vô thức bị khước từ, bị thất sủng, khiến cho những hiện diện trở nên thảm hại, đáng
thương. Đó là một “mất mát thực sự” như nỗi âu lo của Jung. Không chỉ Jung, mà thực tế,
trong tư tưởng nghiên cứu của Jung - người kế nhiệm đầy dang dở và bất đồng của S. Freud,
sự nối kết vô thức, tiềm thức với ý thức, sự tìm về với những siêu tượng, những ký ức đã hoà
giải mối xung khắc của ý thức và vô thức, giữa lý trí và tinh thần, giữa cảm xúc và suy
tưởng. Như thế, nghiên cứu phân tâm tiến đến những khả năng làm toàn nguyên hơn sự sống
của con người. Đó cũng là nền tảng cho những nhận thức/ tái nhận thức trong việc diễn giải
hệ thống biểu tượng trong thơ kháng chiến sẽ được thể hiện cụ thể ở phần sau của luận án.
1.1.2.4. Hướng nghiên cứu Xã hội học
Hướng nghiên cứu này cũng cho thấy những quan tâm thiết thực của mình với biểu
tượng. Trong đó, các nhà xã hội học xem biểu tượng như là một hiện tượng xã hội ở cấp độ
rất cao. Kiến tạo xã hội là quá trình “chính đáng hoá” các hiện tượng, biểu hiện. Với 4 cấp
độ: Khách thể hoá, Gán cho ý nghĩa, Hình thành các khung quy chiếu, Những vũ trụ biểu
tượng [123, 139-190], kiến tạo vũ trụ biểu tượng là cấp độ thứ tư trong quá trình kiến tạo một
thực tại xã hội. Nhưng, trước hết, để thực hiện quá trình chính đáng hoá, con người cần hình
thành các hệ thống tín hiệu, các vũ trụ biểu tượng. Các tác giả của công trình vừa nêu cho
rằng: “Vũ trụ biểu tượng được hình dung như cái khung ma trận (matrix) của tất cả các ý
nghĩa đã-được-khách-thể-hoá về mặt xã hội và có thực về mặt chủ quan, toàn bộ xã hội lịch
sử và toàn bộ tiểu sử của cá nhân đều được coi là những biến cố diễn ra trong lòng vũ trụ
13
này” [123, 145]. Chính đáng hoá đề cao sự thống nhất của những dạng thái riêng lẻ vào trong
những định chế chung, vì thế mà “cả một thế giới được tạo ra” [122, 145]. Một vấn đề cần
nhận thức ở đây dưới tinh thần xã hội học chính là các vũ trụ biểu tượng - hệ thống biểu
tượng trong thực tế là những hiện tượng, những thực tại xã hội. Nghiên cứu xã hội học về
biểu tượng chính là việc tìm kiếm những mối liên hệ, giải thích và phân tích xã hội dựa trên
những vũ trụ biểu tượng như là hình thức tối cao của quá trình kiến tạo đời sống. Ở đó, sự
tương tác của các các nhân, các cộng đồng, lịch sử và những định chế làm nên thực tại (được
phép) hiện diện. Các nhà xã hội học cũng nhắc đến điều này như là những “tương tác biểu
trưng” gắn với bản chất liên chủ thể của xã hội loài người [25, 210]. Trong những tương tác
biểu trưng ấy, vũ trụ biểu tượng hình thành, duy trì những định chế, trật tự, những chuẩn
mực hay tính thống nhất trong những kinh nghiệm đời sống. Nghiên cứu xã hội học biểu
tượng khám phá vào vũ trụ ấy để đọc ra những thông điệp của kiến tạo từ tiểu sử cá nhân đến
lịch sử cộng đồng. Điều này, như một gợi ý, rất hữu ích cho việc khảo sát hệ thống biểu
tượng trong văn học nghệ thuật nói chung và trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975
nói riêng. Vũ trụ biểu tượng trong thơ kháng chiến đã nói lên những định chế, những lịch sử
được kiến tạo, được hiện diện, dạng thái của những điều kiện chính đáng hoá trong không
gian Việt Nam thời chiến.
1.1.2.5. Hướng nghiên cứu diễn ngôn và lựa chọn tiếp cận của luận án
Diễn ngôn không đơn thuần chỉ là những phát ngôn hay văn bản. Các nhà nghiên cứu đã
tiến đến một xem xét trong quan niệm về diễn ngôn như là tất cả những k hiệu biểu nghĩa.
Từ M. Foucault đến R. Barthes đều dành sự quan tâm cho những ký hiệu, những hình thức
thể hiện
nghĩa trong đời sống của con người. Theo đó, diễn ngôn (discourse), “là bất cứ
điều gì được viết hay được nói hay được trao đổi bằng cách dùng các ký hiệu” [98, 100]. Các
ký hiệu đã mở rộng trường nhận thức của con người, hướng đến việc xem xét các biểu trưng,
các dấu hiệu hàm chứa thông điệp [101, 128 - 152]. Có lẽ, chính việc khảo sát các tầng vỉa ý
nghĩa biểu trưng, các quy ước thoả thuận trong ký hiệu mà M. Foucault đã đặt ra vấn đề “Từ
và Vật”, “khảo cổ học tri thức” [102]. Hành trình đó dẫn con người đến với thế giới của
những ký hiệu - quyển ký hiệu, của những
nghĩa được tạo dựng xuyên không gian, thời
gian, xuyên văn hoá.
Là sự thoả thuận, quy ước và tạo dựng của cá nhân và cộng đồng trong quá trình
sống, diễn ngôn là hình thái giao tiếp toàn diện nhất mà con người hiện có trước các sức ép
của thời gian lịch sử và không gian địa lý. Trong bối cảnh hiện nay, khi những thành tựu của
14
khoa học công nghệ, của triết học, khoa học xã hội nhân văn,… ngày càng đem đến những
nhận thức phong phú hơn, con người ngày càng thấy rằng, thế giới nói với chúng ta nhiều
điều. Thế giới được tạo dựng bằng chính ngôn ngữ. Dễ hiểu hơn, ngôn ngữ tạo ra thế giới.
Ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể, đó là tư tưởng căn bản trong triết học ngôn ngữ của M.
Heidegger và cũng là nhận thức căn bản của chúng ta khi thấy rằng, chúng ta không thể nhận
hiểu được thế giới nếu không có ngôn ngữ [67]. Tất cả những ngôn ngữ - ký hiệu góp phần
kiến tạo thế giới đó đều gọi là diễn ngôn. Chúng ta có diễn ngôn khoa học, diễn ngôn chính
trị, diễn ngôn văn chương, diễn ngôn phương Tây, diễn ngôn phương Đông, diễn ngôn
quảng cáo, diễn ngôn phê bình, diễn ngôn thuộc địa, diễn ngôn trung tâm, diễn ngôn ngoại
vi, diễn ngôn của quá khứ, diễn ngôn của tương lai, diễn ngôn người trẻ, diễn ngôn ý thức hệ,
diễn ngôn tôn giáo, diễn ngôn lịch sử,… Như thế, trang phục và lịch sử trang phục cũng là
diễn ngôn, ẩm thực cũng vậy. Mái đình, cây đa, bến nước, con đò là những diễn ngôn trong
quy ước về cộng đồng nông thôn, làng xã. Nét hoa văn trên váy áo, những hình vẽ trong
hang động, những trang trí trên mặt trống đồng, trên công cụ lao động, trên nhà ở, lăng
mộ,… có thể xem là những diễn ngôn. Có một sự thật là không có gì nằm ngoài diễn ngôn.
Bản thân con người - mỗi người đều là những diễn ngôn. Chúng ta nhận ra nhau, nhận ra
mình, nhận ra những không gian - thời gian mà con người hiện diện bằng chính những ý
nghĩa, những quy ước do diễn ngôn tạo lập.
Đi cùng với việc tạo lập các diễn ngôn là quá trình loại trừ. Trật tự của các diễn ngôn
nói lên cái gì là chân lý, là tri thức và là sức mạnh. Trong nghĩa nguyên sơ có tính l tưởng,
các diễn ngôn bình đẳng với nhau. Nhưng thực tế, các diễn ngôn luôn va chạm lẫn nhau, tiến
đến sự loại trừ, phủ định, nhằm kiến tạo tri thức, quyền lực của mình [75, 8-9]. Chúng ta có
thể nhận thấy rất rõ cơ chế này trong việc để
đến các diễn ngôn quảng cáo hay diễn ngôn
tranh biện của luật sư [98]. Diễn ngôn nào chiếm được ưu thế sẽ đồng thời nắm giữ quyền
lực, sức mạnh. Sự cạnh tranh giữa các diễn ngôn, sự lên ngôi hay tiêu trầm của một diễn
ngôn nào đó không hẳn là sự mất đi mà hình thành những quyển ký hiệu, những không gian
biểu nghĩa khác, có thể khuất chìm, có thể không được biết đến nhưng nó vẫn tồn tại. Bởi
thế, quan niệm về “khảo cổ học tri thức” của M. Foucault càng trở nên hữu dụng cho những
nghiên cứu sâu về trật tự cũng những cơ hội của các diễn ngôn. Ở đó, lịch sử luôn được diễn
dịch và tái diễn dịch, đồng thời tạo dựng những diễn ngôn tiếp theo như là bản chất vốn có
của trật tự diễn ngôn.
15
Diễn ngôn là một ký hiệu, mang nghĩa, không đơn giản là lời nói hay văn bản. Diễn
ngôn kiến tạo thực tại. Xuất phát từ nhận thức này, xem xét thơ kháng chiến Việt Nam 1945
- 1975 như một diễn ngôn là hoàn toàn có căn cứ cũng như có tính khả thi. Theo đó, thơ
kháng chiến đã thể hiện một cách sinh động, hay đúng hơn đã tạo lập một hình dung ở người
đọc về Việt Nam những năm 1945 - 1975 dưới sự chi phối toàn diện của biến cố chiến tranh.
Thơ kháng chiến Việt Nam là một diễn ngôn chiến tranh, mà trọng tâm, ngoài thể hiện “bên
ta” với tâm thế: sở hữu chân lý, mang niềm tin chiến thắng, mang khát vọng hoà bình, tự
do,… (chương 2) còn thể hiện hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh, gương mặt kẻ thù
(bên địch),… Sự loại trừ hay thống nhất mọi diễn ngôn vào diễn ngôn kháng chiến đã hình
thành một nền văn nghệ tiên phong chống đế quốc. Cũng với nền văn chương đó, chúng ta
nhận diện được thực thể Việt Nam thời chiến, nhận diện kẻ thù, nhận diện những biểu hiện
sinh động khác của một giai đoạn lịch sử hào hùng, bi tráng. Thơ kháng chiến Việt Nam
1945 - 1975 còn là diễn ngôn chính nghĩa (Ta), diễn ngôn về sự phi nghĩa (Địch), diễn ngôn
của “người chiến thắng” và diễn ngôn về kẻ thất bại. Nhưng bao trùm tất cả là diễn ngôn ý
thức hệ [81, 3-21]. Diễn ngôn chiến tranh 1945 - 1975, cụ thể là thơ kháng chiến, từ những
biểu tượng - như là sự kết tinh cao độ nhất, mang đến những nhận thức về Ta, về Địch, về
hoàn cảnh, điều kiện chiến tranh, về các giai đoạn, diễn biến của cách mạng (Từ ấy: Xiềng
xích - Máu lửa - Giải phóng) [81]. Xem xét thơ kháng chiến nói riêng và nền văn học kháng
chiến của Việt Nam nói chung, từ các góc độ như: đề tài, chủ đề, cảm hứng thẩm mỹ, ý thức
hệ, phương pháp sáng tác, cấu trúc tác phẩm (chiến lược tự sự, trữ tình) đến cách thức xây
dựng nhân vật, hình tượng, biểu tượng, sự phân tuyến thiện - ác, ta - địch, tốt - xấu, đúng sai,… trong việc kiến tạo thực tại, trong trật tự của các diễn ngôn, thơ kháng chiến Việt Nam
1945 - 1975 đã cho thấy những chiến lược lựa chọn cũng như bày tỏ những loại trừ của
mình. Sự tham gia của các thiết chế chính trị trong vai trò là một siêu diễn ngôn đã đặt thơ
kháng chiến và nền văn hoá văn nghệ trong tư thế của một diễn ngôn chính trị, một đạo quân
vũ trang, một lực lượng vật chất (K. Marx). Dĩ nhiên, như Marx đã nhấn mạnh, lực lượng
tinh thần này đã thực sự mang sức mạnh vật chất khi tham dự vào đời sống chính trị - xã hội
những năm kháng chiến. Lã Nguyên, trong khi phân tích về “hệ hình giao tiếp” của văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa, tập trung vào khía cạnh lời, phát ngôn, vai giao tiếp, cho rằng:
“Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là một hệ hình giao tiếp nghệ thuật. Nó là tiếng nói của
một chủ thể phát ngôn vừa cụ thể, hữu hình, vừa giàu sức khái quát. Nó phát ngôn theo
những nguyên tắc gắn chặt với một kiểu quan hệ liên chủ thể trong giao tiếp lời nói. Chủ thể
16
thực sự của lời nói nghệ thuật trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là người chiến thắng
- chủ nhân của xã hội mới. Ở tư thế chủ nhân, người chiến thắng nhân danh “chúng ta” để trò
chuyện với “chúng nó”. Đây là cuộc trò chuyện một phía, một bên, vì chúng nó là “vật”,
không có ngôn ngữ và không hiểu được ngôn ngữ của con người. Người chiến thắng không
chỉ trò chuyện với “chúng nó”, mà còn trò chuyện với “chúng mình”. “Chúng mình”, “chúng
ta” là quan hệ nội tại giữa các chủ thể lời nói đại diện cho phe chính diện trong tác phẩm.
“Chúng ta”, “chúng mình” còn là mối quan hệ tay ba giữa người trần thuật/nhân vật trữ tình
(M.Bakhtin gọi là lời tác giả) - nhân vật trong tác phẩm - người đọc. Dẫu là ở mối liên hệ nội
tại giữa các nhân vật trong tác phẩm, hay ở mối liên hệ ngoại quan giữa lời tác phẩm với
người đọc, thì “chúng ta”, “chúng mình” bao giờ cũng là trật tự tầng bậc được đặt ở những
thang nấc giá trị khác nhau, ứng với vị thế xã hội của quần chúng và cán bộ, của đảng, lãnh
tụ và chiến sỹ, đồng bào” [81, 3-21]. Thơ kháng chiến nhìn từ chiến lược giao tiếp là một
diễn ngôn “độc điệu”, “bè chủ”. Với vai giao tiếp, vị thế giao tiếp là người chiến thắng,
“người sở đắc chân l ”, chính nghĩa, thơ kháng chiến là lời của người có quyền phát ngôn và
kiến tạo thực tại cho tất cả. Như Perter L. Berger và Thomas Luckman đã chỉ ra, đó là quá
trình “định chế hoá” và “chính đáng hoá” các thực tại xã hội [123, 73-173]. Chưa bao giờ ta
thấy hiện lên một cách cụ thể, sinh động quan niệm về quyền lực của diễn ngôn khi sở đắc
quyền được phát ngôn như thế. Đó là điều không thể nào khác được khi dân tộc, nhân dân
cần sức mạnh tổng thể, với chiến lược: toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.
Bởi vậy, văn học nghệ thuật cần phải thể hiện sự can dự xã hội của mình một cách trực tiếp
(mặc dù, trong bản chất của thể loại lời nói, văn học giao tiếp gián tiếp qua hình tượng nghệ
thuật, qua mặt nạ ngôn ngữ). Ý thức thẩm mĩ đồng nhất với ý thức chính trị, tư cách nghệ sĩ
đồng nhất vào tư cách chiến sĩ, điều đó chi phối gần như toàn diện nền văn học thời chiến
của chúng ta, làm nên một hệ lời - phát ngôn, diễn ngôn kiến tạo Việt Nam những năm
kháng chiến: “Diễn ngôn có thể tạo lập tri thức nhất định về một thời đại, một con người, sự
kiện nào đó. Người phát ngôn và cả người diễn giải nó có thể sử dụng diễn ngôn để duy trì
quyền lực, tái sinh các quyền lực” [3].
Có thể nói, với vai trò là một hiện tượng - một kí hiệu biểu trưng của thực tại, lịch sử
và văn hoá, với sự giàu có từ trong bản chất, cấu trúc, biểu tượng chiếm được sự quan tâm
của nhiều ngành khoa học. Từ Ngôn ngữ học, Ký hiệu học, Phân tâm học, Nhân học, Xã hội
học và nhiều hướng nghiên cứu liên ngành khác đã chú
đến biểu tượng, xem đó như một
khởi đầu của quá trình diễn dịch thế giới loài người. Tiếp nhận tri thức có tính liên ngành các
17
- Xem thêm -