Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biểu tượng thẩm mỹ trong thơ thanh tâm tuyền...

Tài liệu Biểu tượng thẩm mỹ trong thơ thanh tâm tuyền

.PDF
262
119
118

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Quốc Việt BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ THANH TÂM TUYỀN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC TP. Hồ Chí Minh – 2013 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Quốc Việt BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ THANH TÂM TUYỀN Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG TP. Hồ Chí Minh - 2013 2 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lời biết ơn chân thành và sâu sắc đối với PGS.TS. Đào Ngọc Chương. Thầy luôn quan tâm, giúp đỡ hết lòng và tận tình chia sẻ cũng như đã định hướng cho tôi trước rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn. Và sự giúp đỡ của thầy còn khơi dậy niềm đam mê đối với nghiên cứu văn học. Đó chính là động lực giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Phòng Sau đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi khắc phục khó khăn, tiếp tục chương trình đào tạo. Và tôi muốn gửi lời cảm ơn đến Khoa Ngữ Văn Trường đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh cùng tất cả thầy cô đã hướng dẫn học viên qua nhiều chuyên đề. Tất cả trở thành định hướng lâu dài cho học viên trên con đường theo đuổi nghiên cứu khoa học. Tác giả luận văn cũng gửi lời cảm ơn bạn bè và những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013 Học viên Võ Quốc Việt 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 5 T 3 3T 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................. 5 T 3 3T 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................... 7 T 3 3T 3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................................... 9 T 3 3T 4. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................................... 11 T 3 3T 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 11 T 3 T 3 6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................................... 14 T 3 3T 7. Cấu trúc luận văn .............................................................................................................. 14 T 3 3T Chương 1: BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ - NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ LÍ LUẬN ........ 15 T 3 T 3 1.1. Những nét chủ yếu trong hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ .......................... 15 T 3 T 3 1.1.1. Hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ trong lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX ..................................................................................................... 15 T 3 3T 1.1.2. Nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ ở Việt Nam từ 1986 đến nay .............................. 18 T 3 T 3 1.2. Những vấn đề khái niệm ................................................................................................ 19 T 3 3T 1.2.1. Về biểu tượng ......................................................................................................... 19 T 3 3T 1.2.2 Những phân biệt cần thiết ........................................................................................ 29 T 3 T 3 1.3. Biểu tượng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo .............................................................. 43 T 3 T 3 1.3.1. Về biểu tượng thẩm mỹ .......................................................................................... 43 T 3 T 3 1.3.2. Từ biểu tượng tâm lý đến biểu tượng thẩm mỹ ...................................................... 46 T 3 T 3 1.3.3. Biểu tượng thẩm mỹ – Ám ảnh và khát vọng sáng tạo ........................................... 53 T 3 T 3 Chương 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ NỔI BẬT TRONG THƠ THANH TÂM TUYỀN ..................................................................................................................................... 57 T 3 3T 2.1 Thanh Tâm Tuyền và thi ca Việt Nam hiện đại .............................................................. 57 T 3 T 3 2.1.1 Hành trình thơ Thanh Tâm Tuyền ........................................................................... 57 T 3 T 3 2.1.2. Thanh Tâm Tuyền giữa dòng chảy thi ca Việt Nam hiện đại ................................. 61 T 3 T 3 2.2. Biểu tượng Thể xác và Thành phố qua góc nhìn Hiện sinh........................................... 64 T 3 T 3 2.2.1 Thể xác – Biểu tượng của ám ảnh và tội lỗi ............................................................ 65 T 3 T 3 2.2.2. Thành phố – Biểu tượng của hư vô, lạc lõng và ruồng bỏ ...................................... 75 T 3 T 3 2.3. Biểu tượng Nước và Đất qua Phân tâm vật chất ............................................................ 83 T 3 T 3 2.3.1. Nước và sự hao mòn đời sống ................................................................................ 86 T 3 T 3 2.3.2. Đất của nỗi buồn, cô độc và niềm đau .................................................................... 97 T 3 T 3 4 Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ THANH TÂM TUYỀN .......................................................................................................... 104 T 3 3T 3.1. Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật và đổi mới thơ ca ở Thanh Tâm Tuyền ................ 104 T 3 T 3 3.1.1 Thanh Tâm Tuyền và bóng dáng của Nietzsche .................................................... 104 T 3 T 3 3.1.2. Về nghệ thuật đen ................................................................................................. 106 T 3 3T 3.1.3. Về sáng tạo, về thơ................................................................................................ 110 T 3 3T 3.2. Quá trình đổi mới và xây dựng biểu tượng thẩm mỹ................................................... 114 T 3 T 3 3.2.1. Những suy nghĩ về đổi mới thơ ca ........................................................................ 114 T 3 T 3 3.2.2. Việc tái thiết ngôn ngữ trong thơ Thanh Tâm Tuyền ........................................... 118 T 3 T 3 3.3. Những đặc trưng nổi bật trong nghệ thuật xây dựng biểu tượng thẩm mỹ .................. 122 T 3 3T 3.3.1. Những biểu tượng từ thủ pháp thơ Siêu thực........................................................ 122 T 3 T 3 3.3.2. Biểu tượng thẩm mỹ qua thủ pháp tạo hình Lập thể............................................. 129 T 3 T 3 3.3.3 Biểu tượng thẩm mỹ qua thủ pháp thơ Tân hình thức ........................................... 134 T 3 T 3 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 144 T 3 3T TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 147 T 3 3T 5 MƠỞ ĐAẦ U 1. Lí do chọn đề tài Nghiên cứu văn học đã quan tâm đến hình ảnh, kí hiệu, hình tượng và biểu tượng. Riêng biểu tượng ngày càng được chú trọng tìm hiểu toàn diện hơn. “Người ta sử dụng nó như là một thuật ngữ cả trong logic học, toán học, ngữ nghĩa học, kí hiệu học, nhận thức học; ngoài ra nó còn đóng một vài trò trong các lĩnh vực như thần học (“biểu tượng” nói riêng là một trong những từ đồng nghĩa của “tín ngưỡng” – biểu tượng niềm tin), và nghi thức tế lễ, mĩ thuật, thi ca. Cái chung đối với tất cả ý nghĩa hiện đại của từ này rõ ràng là thuộc tính ngụ ý một cái gì đó lớn hơn, ám chỉ một điều gì đó chưa nói hết”[25;tr.336]. Chúng ta nhận thấy rằng biểu tượng xuất hiện trong hầu hết các hình thái ý thức xã hội. Với khả năng hàm chứa ngoài những ý nghĩa hiển nhiên trực tiếp, biểu tượng đã chi phối đến sự hình thành nội dung và giá trị của các hình thái ý thức ấy, đặc biệt là tác phẩm văn học nghệ thuật. Cho nên, việc nghiên cứu biểu tượng nói chung là hướng tiếp cận phù hợp cho việc thâm nhập, lĩnh hội và phát hiện những quy luật nội tại của văn bản văn học cũng như văn hoá nghệ thuật nói chung. Như đã biết, hướng nghiên cứu biểu tượng đã trở thành một trào lưu rộng khắp và kéo dài suốt thế kỷ XX trong giới nghiên cứu lí luận phê bình văn học phương Tây. Hướng nghiên cứu này đóng góp đáng kể cho hoạt động nghiên cứu văn học thế giới. Tại Việt Nam, nghiên cứu biểu tượng chỉ mới được quan tâm trong thời gian gần đây. Chúng ta ghi nhận những đóng góp ấy. Nhưng hơn hết, chúng tôi cho là cần thiết xây dựng hệ thống và nền tảng lý luận về nghiên cứu biểu tượng. Vì sự phát triển bền vững và toàn diện luôn bắt đầu từ nền tảng cụ thể. Với năng lực và kinh nghiệm nghiên cứu, tôi không suy nghĩ nhiều đến việc xây dựng một hệ thống lí luận về biểu tượng, nhưng điều làm cho tôi băn khoăn và là mục tiêu hướng đến: đó là gợi mở thêm một vài quan điểm trên con đường đến với biểu tượng học. Đây là một lĩnh vực rộng lớn, đòi hỏi công sức của nhiều người. Và chúng tôi mong 6 muốn đóng góp, cũng như trân trọng những đóng góp nhiều phía đối với luận văn này. Đó chính là những suy nghĩ trước nhất khi chúng tôi đến với nghiên cứu biểu tượng. Đối với thơ ca Việt Nam hiện đại, Thanh Tâm Tuyền lạ mà rất quen. Khởi đi từ Thơ mới, thành tựu của những tác giả giai đoạn này ngày càng được khẳng định. Thơ mới đặt nền tảng cho những cuộc cách tân thơ ca về sau. Phan Khôi mở lời, Thế Lữ tiếp bước, và khuynh hướng lãng mạn nhất thiết phải nói đến Xuân Diệu. Đẩy thơ ca đi xa hơn, Trường thơ Loạn đóng góp đáng kể về mặt thi pháp và thi liệu. Hậu kì Thơ mới, chúng ta còn nhìn thấy những tia sáng chợt loé lên rồi phụt tắt. Đó là Xuân Thu, là Dạ Đài. Tất cả đều là nỗ lực cách tân thơ Việt nói chung. Gần đây, Trần Thanh Hiệp trò chuyện với Thuỵ Khuê trên RFI về những bạn văn “cùng một lứa bên trời lận đận” từ những lúc còn hoạt động ở Hà Nội cho đến khi vào Sài Gòn. Qua đó, ông nhận định: “nếu cuộc đổi mới mà chúng tôi thực hiện, có đóng góp chút ít gì cho văn học Việt Nam thì công của Thanh Tâm Tuyền là rất lớn”. Thanh Tâm Tuyền là tác giả có vị trí quan trọng trong văn học đô thị miền Nam trước 1975. Thành tựu của Thanh Tâm Tuyền trước hết là thơ. Đóng góp quan trọng là ở thi pháp, cách tư duy và một phong cách thơ hoàn toàn mới. Mặc dù vậy, Thanh Tâm Tuyền vẫn là cái tên ít ai biết đến, đặc biệt là độc giả trẻ. Ngay cả khi còn hoạt động và sáng tác văn học tại miền Nam Việt Nam trước 1975, ông vẫn là tượng đài “kính nhi viễn chi”. Tuy nhiên, thơ ca Thanh Tâm Tuyền vẫn tràn đầy sức sống và chưa hết mới mẻ. Nghiên cứu thơ Thanh Tâm Tuyền là công việc cần thiết vì những cách tân ở thế giới thơ của ông đã thúc đẩy sự phát triển của thơ Việt hiện đại, giúp thơ Việt hòa mình nhiều hơn vào dòng chảy chung của thơ ca thế giới. Tìm hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền, chúng tôi đặc biệt chú ý đến vật chất tưởng tượng và sức sống kì lạ của những biểu tượng khởi đi từ vô thức của một phong cách thơ cá tính và đầy ám ảnh. Điều này lí giải tại sao chúng tôi đến với thơ Thanh Tâm Tuyền từ hướng nghiên cứu biểu tượng trong luận văn này. 7 2. Lịch sử vấn đề Biểu tượng là vấn đề không mới. Từ thời cổ đại, người ta đã quan tâm đến biểu tượng. Đó còn là một chặng đường của tư duy. Biểu tượng là bước phát triển của tư duy trong quá trình truyền đạt thông tin. Đóng vai trò là phương thức tư duy, nó đi vào nhiều hoạt động tinh thần khác nhau. Trong đó, văn học là không gian phù hợp cho sự tồn tại của hình ảnh, hình tượng, biểu tượng..... Nghiên cứu văn học theo hướng biểu tượng thực sự định hình từ thế kỷ XIX. Tuy nhiên, giai đoạn này vẫn chưa có nền tảng lý thuyết vững chắc về khái niệm biểu tượng. Có sự nhập nhằng giữa biểu tượng với hình tượng và những khái niệm liên quan. Cuối thế kỷ XIX, với trào lưu Tượng trưng trong thơ ca Pháp, người ta chú ý nhiều hơn đến biểu tượng. Mặc dù như Raymond Firth, đó chỉ là quãng thời gian của những tranh luận kéo dài về ý nghĩa biểu tượng. Đến khi phân tâm học định hình do Sigmund Freud (1856-1939) xây dựng và Carl Gustav Jung (1875-1961) phát triển thì nghiên cứu biểu tượng mới có được những thành tựu đáng kể. Đã có nhận định cho rằng: Jung là người vẽ bản đồ nội tâm con người đầy đủ nhất. Đặt nền tảng trên tâm lí học, nghiên cứu biểu tượng hầu như động chạm đến tất cả các chuyên ngành khoa học xã hội. Nghiên cứu biểu tượng ngày càng được quan tâm không chỉ trong lĩnh vực văn nghệ. Đó là giai đoạn nửa sau thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, biểu tượng vẫn là một khái niệm mang nhiều tính phổ quát. Mặc dù có sự phân biệt với hình ảnh, hình tượng, kí hiệu, cổ mẫu... nhưng biểu tượng của Jung vẫn là một biểu tượng tâm lí hơn là biểu tượng thẩm mỹ. Đi xa hơn, giới nghiên cứu thiết lập mối quan hệ giữa biểu tượng với các chuyên ngành khác trong đó có nghiên cứu văn học. Nhưng việc hiểu về biểu tượng thẩm mỹ vẫn dừng lại ở cấp độ biểu tượng tâm lí. Tại Việt Nam, giai đoạn trước 1954 hầu như các khuynh hướng lí luận phê bình vẫn chưa thật sự tiếp cận và hoà nhịp với lí luận phê bình văn học thế giới. Sau 1954, giới nghiên cứu văn học tại Sài Gòn có nhiều điều kiện giao lưu học tập nên đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để nói về một trào lưu 8 nghiên cứu biểu tượng trong văn học đô thị Miền Nam thì theo như chúng tôi tìm hiểu vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu đối tượng này. Từ sau đổi mới, sáng tác văn học cũng như hoạt động lí luận phê bình văn học được tiếp thêm sinh lực mới, đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Việc giao lưu, tiếp biến, và ứng dụng các lí thuyết phê bình văn học nước ngoài được mở rộng. Có thể kể đến kí hiệu học, chủ nghĩa hậu hiện đại, thuyết người đọc và biểu tượng học. Đưa vào nghiên cứu và giảng dạy biểu tượng ở bậc đại học có thể nói là bước tiến đáng kể cho hoạt động nghiên cứu biểu tượng tại Việt Nam (cụ thể là Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn Hà Nội, Khoa học xã hội và Nhân Văn Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Văn hoá Hà Nội). Có thể kể ra rất nhiều công trình và bài viết gần đây đề cập đến biểu tượng trong văn học. (- Biểu tượng nước trong thơ ca dân gian và thơ ca hiện đại các dân tộc ít người; - Biển: biểu tượng của vũ trụ trong thơ Huy Cận; - Về biểu tượng Lửa trong thơ Nguyễn Quang Thiều; - Biểu tượng giấc mơ trong thơ Nguyễn Bính; - Biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ; - Biểu tượng trong thơ thiền Lý – Trần; - Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn kí hiệu học; - Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng….). Nghiên cứu biểu tượng cơ hồ là một trào lưu thời thượng của giới nghiên cứu trong thời gian gần đây. Nhưng dễ hiểu, hướng nghiên cứu này bổ sung đáng kể cho diện mạo lí luận phê bình văn học Việt Nam. Chúng tôi đến với nghiên cứu biểu tượng cũng với mục đích ấy. Một phần hoà vào dòng chảy chung, nhưng hơn hết, chúng tôi - thông qua luận văn này – mong muốn gợi mở thêm một vài điểm nhìn về nghiên cứu biểu tượng trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam. Về Thanh Tâm Tuyền, đây là nhà thơ hầu như bị độc giả hiện nay quên lãng, thậm chí hoàn toàn xa lạ với người đọc trẻ. Việc nghiên cứu tác phẩm của ông gặp phải rất nhiều khó khăn, trước hết là vấn đề tài liệu. Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy nghiên cứu về Thanh Tâm Tuyền đặt ra rất nhiều vấn đề với những thách thức chung cho nghiên cứu văn học đô thị miền Nam trước 1975. Bước vào thế giới thơ Thanh Tâm Tuyền, người đọc phải tuân thủ những luật lệ của ông. Nhà thơ cũng là vua, là ông hoàng của cô độc. Phải chăng vì thế mà có rất ít công trình tìm hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền. Có chăng là một vài bài viết tưởng niệm sau khi ông qua đời. Đa 9 số được viết bởi những bạn văn thân thiết, mến mộ tài thơ của ông (- Nhớ nghĩ về Thanh Tâm Tuyền, những điều chợt đến… của Trần Thanh Hiệp; - Thanh Tâm Tuyền của Khánh Phương; - Nói thêm về Thanh Tâm Tuyền của Phan Lạc Phúc; Thanh Tâm Tuyền trong văn học Việt Nam hiện đại của Bùi Ngọc Tuấn; - Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo của Dương Nghiễm Mậu….). Nhìn chung viết về nhà thơ này, bài vở chỉ dừng lại ở mức giới thiệu, kể lại một vài kỷ niệm, hay những đánh giá bước đầu về thơ Thanh Tâm Tuyền. Riêng công trình của Trần Hữu Vinh với “Thi pháp thơ Thanh Tâm Tuyền qua Tôi không còn cô độc và Liên-Đêm-Mặt trời tìm thấy” phác hoạ được phần nào thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Tuy nhiên, công trình chưa làm nổi bật được những gì được gọi là “đặc sản”, hay những thành tựu cách tân, những đỉnh cao trong sáng tác của ông. Nếu chỉ dừng lại ở những thủ pháp như tính hàm súc đa nghĩa, giàu tính văn xuôi hay các phép tu từ quen thuộc thì Thanh Tâm Tuyền vẫn chưa có nhiều đóng góp cho thơ ca Việt Nam. Thông qua việc tìm hiểu và ghi chép, chúng tôi nhận thấy: nghiên cứu về Thanh Tâm Tuyền vẫn còn ít ỏi và hạn chế, riêng hướng tiếp cận biểu tượng đối với thơ ông thì hầu như không tìm thấy. Đây cũng là một thách thức đối với chúng tôi trong luận văn này. 3. Mục đích nghiên cứu Xác định tính cấp thiết của đề tài, chúng tôi đặt ra những mục đích cần đạt được trong quá trình nghiên cứu: a. Phần thứ nhất: Trước hết, chúng tôi phác hoạ tổng quan về hoạt động nghiên cứu biểu tượng trong nước cũng như giới lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, xem đây là nền tảng và là góc nhìn tham khảo quan trọng đối với việc hiểu về biểu tượng. Thông qua trình bày cách suy nghĩ của mình về biểu tượng thẩm mỹ dựa trên những quan niệm vốn có; đặc biệt là quan niệm của các nhà phân tâm học; chúng tôi còn phân biệt giữa biểu tượng với những khái niệm liên quan. Quan trọng hơn, luận văn góp phần xác định cách hiểu về khái niệm biểu tượng thẩm mỹ. Bên cạnh đó, 10 chúng tôi trình bày thêm một cách hiểu về biểu tượng thẩm mỹ và biểu tượng nghệ thuật. Luận văn xác định phải trình bày được quá trình hình thành và biểu hiện của biểu tượng thẩm mỹ đặc biệt trong lĩnh vực văn học. Đây là vấn đề mà chúng tôi đặc biệt quan tâm trong chương thứ nhất. Con đường từ biểu tượng tâm lí đến biểu tượng thẩm mỹ đòi hỏi người viết đào sâu vào tư tưởng của các nhà phân tâm học; nhưng trong phạm vi cho phép của luận văn thạc sĩ, chúng tôi hầu như tiếp cận được những khái niệm bước đầu và nền tảng. Để có được góc nhìn toàn diện hơn, e rằng, chúng tôi cần phải có nhiều thời gian hơn. Do đó, những phát biểu và suy nghĩ của chúng tôi ít nhiều xuất phát từ quan niệm và lập luận riêng với mong muốn học tập và trao đổi. b. Phần thứ hai: Tìm hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền bằng việc khảo sát thế giới biểu tượng và nghệ thuật thơ, chúng tôi muốn khơi dậy sự quan tâm nhiều hơn đối với nhà thơ này. Theo tìm hiểu mà chúng tôi có được, Thanh Tâm Tuyền thực sự là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Qua luận văn này, chúng tôi muốn trình bày rõ hơn về những đóng góp ấy. Thông qua đó, chúng tôi phát hiện những biểu tượng thẩm mỹ trong thơ ông, xem như một hệ thống có mối liên hệ chặt chẽ và mang đến những biểu tượng thẩm mỹ độc đáo. Trong phần này, với mục đích đã nêu, chúng tôi trình bày hệ thống biểu tượng thẩm mỹ qua hai góc nhìn: 1 – dưới góc độ của khuynh hướng hiện sinh và 2 – quan điểm phân tâm vật chất. Thanh Tâm Tuyền và tạp chí Sáng Tạo cũng như những bạn văn từ trước khi đến với Sáng Tạo thật sự gây dựng được cuộc đổi mới mạnh mẽ trên thi đàn bấy giờ. Tất nhiên, độ dài hơi và những giá trị mà họ đóng góp còn là việc chúng ta cần thêm thời gian để nghiên cứu nhưng những nỗ lực, đóng góp ấy nên được ghi nhận. Ở đây, chúng tôi mong muốn trình bày quá trình cách tân ở thơ Thanh Tâm Tuyền. Và cho thấy, quá trình này đã ảnh hưởng gì đến sự hình thành biểu tượng thẩm mỹ. 11 Vấn đề “cái mới” trong thơ Thanh Tâm Tuyền, có lẽ mỗi hướng nghiên cứu lại mang đến một nét riêng. Luận văn này cũng chỉ dừng lại ở việc trình bày những nét mới của nhà thơ dưới góc nhìn biểu tượng. Chúng tôi cho rằng nên xem xét những kết quả nghiên cứu khác biệt ấy là sự bổ sung hơn là mâu thuẫn. Văn học cơ hồ là một bức tranh đa dạng, đa diện và nhiều màu sắc. 4. Phạm vi nghiên cứu Về mặt cơ sở lí luận, chúng tôi tìm hiểu trong phạm vi thành tựu nghiên cứu biểu tượng của giới lí luận phê bình văn học Âu-Mỹ thế kỷ XX. Mặc dù, sự quan tâm dành cho biểu tượng, hay sự manh nha cho chuyên ngành biểu tượng học đã xuất hiện từ lâu, nhưng phải đến thế kỷ XX thì nghiên cứu biểu tượng mới có được những thành tựu đáng kể. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ nên tập trung vào những thành tựu của giới nghiên cứu Âu- Mỹ giai đoạn này. Về Thanh Tâm Tuyền, ông là cây viết đa dạng. Ông vừa làm thơ, viết truyện, viết báo, viết tiểu luận, tạp ghi. Tuy nhiên, người ta nhớ đến ông nhiều nhất là thơ. Tài sản thơ của ông quan trọng nhất là hai tập được xuất bản trước 1975 tại Sài Gòn. Riêng tập Thơ ở đâu xa được xuất bản ở hải ngoại không có nhiều đóng góp vào con đường nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền. Do đó, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu biểu tượng thơ thông qua hai tập : - Tôi không còn cô độc (1956); Liên- đêm- Mặt trời tìm thấy (1964). Mặc dù có tham khảo thêm một vài truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết của ông trước 1975 nhằm mục đích so sánh, nhưng trên hết vẫn là thơ và biểu tượng thẩm mỹ. Và chúng tôi cũng xác định phạm vi chủ yếu của luận văn này là những biểu tượng đặc trưng nhất. 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu a. Cơ sở lí luận Trước hết đó là những thành tựu nghiên cứu biểu tượng của giới lí luận phê bình văn học Âu - Mỹ thế kỷ XX. Phân tâm học đóng góp đáng kể cho lĩnh vực nghiên cứu văn học ở quan niệm về biểu tượng. Chúng tôi xem đó là một trong những nền tảng lí luận quan trọng suốt quá trình thực hiện luận văn này. 12 Bên cạnh đó, trong sự liên hệ và mở rộng việc nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Thanh Tâm Tuyền, một tác giả đa dạng, chúng tôi còn quan tâm đến chủ nghĩa hiện sinh và khuynh hướng hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam trước 1975. Đồng thời, tiếp biến các thành tựu văn học một cách rộng rãi và trực tiếp, Thanh Tâm Tuyền là ngọn gió mới của thi đàn thời bấy giờ, mà trước hết, đó là mạch nguồn siêu thực. Trào lưu Siêu thực cũng là vấn đề lí luận mà chúng tôi xem là cơ sở cho luận văn này. Tiếp theo, những biểu hiện Tân hình thức trong thơ ông, lôi cuốn chúng tôi khảo cứu về thi pháp của trường phái này. Quả thực, Thanh Tâm Tuyền là một vũ trụ thơ đa dạng, đa tầng, đa chiều trong cái toàn thể vừa chuyển động vừa tái tạo liên tục. b. Phương pháp nghiên cứu cơ bản: - Phương pháp khảo sát, thống kê: Đến với các vấn đề quan niệm về biểu tượng hay tìm hiểu văn bản thơ Thanh Tâm Tuyền, phương pháp này là công việc bước đầu nhằm nắm bắt những quan niệm và liên hệ xung quanh biểu tượng, cũng như khám phá các chi tiết và hình ảnh nào đã thể hiện sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả. Chính những dữ liệu khảo sát và thống kê được là nền tảng cho việc hình dung về biểu tượng và những biểu tượng nào thực sự nổi bật trong sáng tác của Thanh Tâm Tuyền. - Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát Dựa trên dữ liệu khảo sát được, chúng tôi tiếp tục sử dụng những phương pháp cơ bản như phân tích, tổng hợp, khái quát. Biểu tượng nước và đất chẳng hạn, chúng tôi bắt đầu từ việc khảo sát các hình ảnh hệ lụy trong quỹ đạo của nó. Và từ đó, phân tích các khía cạnh hình thức, tổng hợp và tìm ra mối liên hệ giữa chúng, nhằm đưa tới khái quát về đặc tính của một biểu tượng chủ đạo cụ thể. - Phương pháp so sánh, đối chiếu Song song với tổng hợp, khát quát về đặc tính biểu tượng thì việc so sánh và đối chiếu biểu tượng ấy với những biểu tượng trong cùng môi trường của nó sẽ giúp ích cho việc phát hiện các liên hệ bên trong. Những liên hệ này sẽ bị bỏ qua nếu chúng ta đặt biểu tượng trong thế khép kín như một đối tượng duy nhất. Và thiếu đi 13 việc liên hệ so sánh sẽ đánh mất khá nhiều đặc trưng thú vị của biểu tượng. So sánh giữa những đặc trưng của chủ nghĩa Lập thể trong văn học và hội họa, chúng tôi nhìn thấy mối liên hệ giữa chúng mà hơn hết đã xác định được phương hướng tiếp cận thơ Thanh Tâm Tuyền. Phương pháp so sánh đóng góp đắc lực vào khả năng hình thành khung tham chiếu trong quá trình nghiên cứu. - Phương pháp hệ thống Thêm vào đó, nhìn thấy mối liên hệ giữa những biểu tượng thuộc về hình thức và biểu tượng thuộc về bản thể nghĩa là đặt chúng trong một hệ thống. Chính phương pháp hệ thống và quan điểm hệ thống đóng vai trò liên kết các khía cạnh đặc trưng của biểu tượng. Phương pháp này giúp cho luận văn không rơi vào tình trạng rời rạc và gượng ép các mảng màu xô bồ, hỗn tạp. Phương pháp này giúp cho những ý tưởng được tiếp nhận thấu đáo hơn. Cụ thể, trong khi trình bày về những biểu tượng nước và đất, chúng tôi vẫn không ngừng tìm đến mối liên hệ giữa chúng với biểu tượng thành phố và thể xác đã trình bày qua. Phương pháp này giúp cho luận văn trở nên nhất quán và chặt chẽ hơn. - Phương pháp thi pháp học: Với chương 2 và 3, chúng tôi sử dụng phương pháp thi pháp học với mục đích khám phá từng khía cạnh nội tại của biểu tượng thẩm mỹ cũng như sự hình thành của nó qua tư duy thơ Thanh Tâm Tuyền. - Phương pháp liên ngành: Ở đây, trong phạm vi những biểu tượng mà chúng tôi khảo sát, đâu đó vẫn có những vấn đề đòi hỏi một cái nhìn liên ngành. Vì Thanh Tâm Tuyền là một tư duy thơ rộng mở. Sự tiếp nhận nơi ông cho thấy mối quan tâm sâu sắc đến văn nghệ nói chung. Các loại hình nghệ thuật đã đi vào thơ Thanh Tâm Tuyền mà rõ nét nhất là hội họa. Hơn nữa, bầu không khí “hiện sinh” tại Sài Gòn trước 1975 đặt ra cho nhà thơ và giới văn nghệ sĩ nói chung rất nhiều suy tư. Có thể hình dung, họ rơi vào vòng xoáy hiện sinh. Thế nên, một cách nhìn liên ngành (xã hội học, triết học, nghiên cứu văn học) thực sự cần thiết cho việc tìm hiểu luận văn này. 14 6. Đóng góp của luận văn Chúng tôi mong rằng qua luận văn này đã góp thêm một phần nhỏ vào việc tìm hiểu biểu tượng thẩm mỹ trong tác phẩm văn học, mong muốn mang lại vài suy nghĩ tiếp theo về hướng nghiên cứu biểu tượng tại Việt Nam hiện nay. Chúng tôi không quá chú ý đến việc phải xác lập hệ thống lí luận về biểu tượng (việc này dường như vượt quá yêu cầu của một luận văn thạc sĩ). Cụ thể hơn, điều mà chúng có thể làm được là gây dựng được nhiều quan tâm hơn đến nghiên cứu biểu tượng, cũng như đối với thơ Thanh Tâm Tuyền. Trình bày những thành tựu đáng kể trong thơ Thanh Tâm Tuyền, luận văn ít nhiều đã mang lại thêm vài ý kiến giúp ích cho việc hiểu biết về nhà thơ này. Chúng tôi chỉ mong sao bài viết này góp một phần nhỏ để tìm lại những tài năng văn học đa đạng và độc đáo của văn học đô thị miền Nam nói riêng. Cho thấy những đặc sắc trong thơ Thanh Tâm Tuyền về mặt biểu tượng thẩm mỹ, nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Thanh Tâm Tuyền là tiểu mục mà chúng tôi đặt nhiều tâm huyết và công sức. Mặc dù, có thể bên cạnh đó, nghệ thuật thơ Thanh Tâm Tuyền vẫn còn nhiều khía cạnh đặc sắc và đặc trưng hơn; nhưng các quan điểm mà chúng tôi phát biểu với tinh thần trao đổi cũng gợi ra một vài hướng tiếp cận khả dĩ phù hợp đối với thế giới thơ Thanh Tâm Tuyền. Công việc này có thể giúp ích cho việc hiểu về thơ Thanh Tâm Tuyền toàn diện hơn. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, công trình được chia làm ba chương: Chương 1: Biểu tượng thẩm mỹ - những vấn đề lịch sử và lí luận Chướng 2: Những biểu tượng thẩm mỹ nổi bật trong thơ Thanh Tâm Tuyền Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Thanh Tâm Tuyền 15 Chương 1: BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ LÍ LUẬN 1.1. Những nét chủ yếu trong hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ 1.1.1. Hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ trong lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX “Biểu tượng và huyền thoại là phương thức khám phá. Chúng là sự biểu lộ cho tiến trình của cấu trúc trong các mối quan hệ giữa chúng với tự nhiên và chính sự tồn tại này, đồng thời biểu lộ một phương thức thẩm mỹ mới”[45;tr.45]. Biểu tượng, do đó, có thể nói là đối tượng không chỉ của lí luận phê bình văn học mà còn đối với nhiều chuyên ngành khác. Biểu tượng đóng vai trò là phương thức của tư duy người. Biểu tượng là một vấn đề quan trọng của văn hóa. Biểu tượng thâm nhập vào hầu hết những khía cạnh của đời sống, từ sinh hoạt thường nhật đến những hình thái ý thức xã hội như văn học, triết học, tôn giáo, …Con người từ lâu đã quan tâm đến biểu tượng. Hoạt động nghiên cứu biểu tượng, bởi thế, có một quá trình phát triển lâu dài. Từ thời Trung cổ, hoạt động chú giải Kinh thánh phần nào đụng chạm đến những vấn đề đầu tiên của biểu tượng học. “Biểu tượng trong nghệ thuật dựa trên phương pháp biểu hiện ý tưởng hoặc (của) việc liên kết hình ảnh. Lý thuyết thời Trung cổ và lý thuyết cổ điển về biểu tượng cho rằng nhiều tác phẩm chứa đựng những tầng kép phức hợp về ý nghĩa. Chúng và những thứ tương tự có thể được xem là văn chương, có tính biểu tượng, là sự chú giải Kinh thánh, hoặc những hình thức phổ thông hơn và ngay cả trong đạo đức. Biểu tượng còn có thể được hiểu như là cái bản chất hoặc là cái quy ước. Những thứ vốn có làm nảy sinh những cái khác; hoặc một số lại tùy thuộc vào mối quan hệ đã quy ước hóa từ trước. Chiếc nón trắng có thể là biểu tượng cho một 16 anh chàng lịch thiệp ở Tây phương, nhưng màu trắng cũng tự nó biểu hiện cho khoảng màu sắc giản dị và do đó lại gần với sự thanh khiết. Biểu tượng, do đó, như là nhân tố ưu trội của nhiều loại hình nghệ thuật, chúng đã tự phân tách ra khỏi những hình thức phản ánh được xác nhận là duy thực và những cách lý giải hiện thực khác, mặc dù lý luận về nghệ thuật đã xác định rằng ngay cả hiện thực cũng phải sử dụng những hiểu biết mang tính quy ước và do đó đã là tượng trưng”[56;p.310]. Trải qua thời gian lâu dài nhưng nghiên cứu biểu tượng hoạt động tách rời, thiếu đi phương pháp khoa học thích hợp khiến cho nghiên cứu biểu tượng trở thành “cuộc tranh luận kéo dài” cho đến tận đầu thế kỷ XIX. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nghiên cứu biểu tượng mới thật sự trở thành một khoa học. Và cũng ở giai đoạn này trở về sau, nghiên cứu biểu tượng nói chung đạt được nhiều thành tựu đáng kể, khiến chúng ta có cái nhìn thấu đáo và sâu sắc hơn về biểu tượng trong rất nhiều lĩnh vực đời sống. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Tượng trưng đã trở thành một phong trào có tầm ảnh hưởng rộng rãi trong tư duy thơ Tây phương. Đi sâu vào những khía cạnh đặc sắc của trào lưu này, theo đó, hoạt động nghiên cứu văn học hình thành xu hướng nghiên cứu biểu tượng trong thế giới nghệ thuật của những nhà thơ Tượng trưng Pháp. Ở Mỹ, còn có những nghiên cứu về E.A.Poe, N. Hawthorne, W.Whitman….. Bên cạnh đó, chúng ta thấy nhiều học giả quan tâm đến giải thích những hình ảnh, biểu tượng, các khía cạnh biểu tượng, các hình ảnh tượng trưng trong nhiều tác phẩm kinh điển, chẳng hạn như trường hợp của J.B.Fletcher với Thần khúc hay W.R. Price với Zadig. Chính trong giai đoạn này, sự phát triển của khoa tâm lý học với những thành tựu to lớn của S.Freud (1856-1939) và C.Jung (1875-1961), mang lại nền tảng cần thiết và vững chắc cho việc tìm hiểu biểu tượng và sự hình thành biểu tượng trong tư duy người. Phân tâm học góp phần xác lập sự hình thành, tồn tại và ý nghĩa của biểu tượng. Nghiên cứu biểu tượng thật sự trở thành một ngành khoa học. 17 Trong phạm vi ảnh hưởng của phân tâm học, Gaston Bachelard (1884-1962) thật sự là “ngọn núi đứng riêng một cõi” mang lại nhiều điều thú vị cho hoạt động nghiên cứu biểu tượng. Những tác phẩm của Bachelard giàu chất thơ, uyên thâm và gần với văn chương hơn bao giờ hết. Dựa trên này tảng ấy, chưa bao giờ biểu tượng lại được quan tâm nhiều như thế. Hầu như hướng nghiên cứu này diễn ra trên rất nhiều phương diện. Nghiên cứu biểu tượng đi vào từng khía cạnh vấn đề. Đặc biệt, từ phân tâm học, hoạt động nghiên cứu biểu tượng trong địa hạt văn chương thật sự nở rộ. Song song việc chú giải Kinh thánh, các biểu tượng của tôn giáo đi vào trong đời sống và do đó đã trở thành một bộ phận của văn hóa Tây phương. Biểu tượng tôn giáo cũng là biểu tượng của văn hóa. Sau nữa, hướng nghiên cứu này gắn liền với sự phát triển của văn hóa học, nhân học, xã hội học, dân tộc học…khi nó đi sâu nghiên cứu đời sống văn hóa tộc người (vượt ra khuôn khổ đời sống Âu châu). Trong tình hình nghiên cứu biểu tượng triển khai rộng rãi ở nhiều lĩnh vực khác nhau, việc này đòi hỏi các nhà khoa học cần có tiếng nói chung. Và do đó, dù mỗi chuyên ngành có những đặc điểm tư duy và phương pháp khác nhau, nhưng nghiên cứu biểu tượng vẫn cần thiết xác lập nền tảng chung về thuật ngữ, phân loại, định tính và phương pháp tiếp cận. Khoảng những thập niên 1950-1960 của thế kỷ XX, nghiên cứu biểu tượng có cơ hội nhìn lại và rút ra tổng quan về mặt lí luận, đồng thời xây dựng quan niệm về biểu tượng trong nhiều khoa học khác nhau. W. Y.Tindall nghiên cứu biểu tượng trong văn học. F.W.Dillistone tìm hiểu mối quan hệ giữa Thiên Chúa giáo và biểu tượng. R. May chủ biên cho những nghiên cứu về biểu tượng trong tôn giáo và văn học. Chính sự mở rộng biên độ từ biểu tượng tâm lý sang biểu tượng thẩm mỹ, như là đối tượng của văn nghệ cũng như những hình thái ý thức xã hội khác, khiến cho diện mạo lí luận về biểu tượng trở nên đa dạng. Từng khía cạnh biểu tượng được trình bày cụ thể và đóng góp đáng kể cho việc nắm bắt biểu tượng nói chung. Khởi đi từ nền tảng tâm lý, biểu tượng trở thành đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học xã hội. Nghiên cứu biểu tượng trở thành một hoạt động 18 mang tính chất liên ngành. Chính giai đoạn này, những năm 80 trở đi, cũng là lúc xét lại những khía cạnh nội dung của biểu tượng, góp thêm hiểu biết về biểu tượng. Nhiều nhà nghiên cứu đứng từ vị trí của một lý thuyết khác nhìn về biểu tượng (Elzbieta Halas, Barbara Foley,..), hoặc nghiên cứu biểu tượng trong mối liên hệ với chuyên ngành khác (Nick Ciceotosto, Craig Leroux, Rodger Morrison….). Một lần nữa, nghiên cứu biểu tượng lại được mở rộng biên độ và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. 1.1.2. Nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ ở Việt Nam từ 1986 đến nay Theo Tiến sĩ Đinh Hồng Hải: “Cho đến nay, các nghiên cứu khoa học xã hội trên bình diện văn bản học (như văn học, sử học, triết học, ngôn ngữ học,...) đã đạt được khá nhiều thành tựu, trong khi nghiên cứu biểu tượng (như ký hiệu học, nhân học biểu tượng,...) dường như vẫn đang là một mảnh đất còn bỏ trống với số lượng các công trình nghiên cứu chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí trong số những nghiên cứu ít ỏi đó, chưa một công trình nào thực sự “đặt nền móng” cho một khoa học nghiên cứu về biểu tượng”[71]. Và ông nhận xét thêm, thực trạng ấy bắt nguồn từ chỗ chúng ta chưa có nền tảng lí luận cần thiết. Trong những năm gần đây, nghiên cứu biểu tượng hay cụ thể là biểu tượng trong văn học nghệ thuật đang trở thành một trào lưu bổ khuyết cho diện mạo lí luận phê bình văn học Việt Nam. Nhưng rõ ràng ý kiến nêu trên vẫn có chỗ xác đáng, vì trong nhiều nghiên cứu, nhiều luận án mà chúng ta thực hiện, hầu như vẫn chưa có tài liệu nào định hướng một cách vững chắc cho hoạt động nghiên cứu biểu tượng. Tình hình chung là biểu tượng ngày càng được chú ý, nhưng một khoa học hệ thống với đầy đủ nền tảng lí luận về biểu tượng vẫn chưa thật sự định hình ở Việt Nam. Và đó cũng là điều mà giới nghiên cứu ở nước ta đang cố gắng thực hiện. Chúng tôi xin trình bày thêm một ý kiến khác. “Ranh giới đích thực phân biệt con người và các động vật cao cấp khác chính là khi vượn người xuất hiện một khả năng đặc biệt – khả năng biểu trưng hóa (symbolizing) trong hoạt động trí thức để trở thành người vượn”[73]. Đó là lời nhận xét của PGS.TS Đỗ Thu Hà ( công tác tại 19 Khoa Đông phương học – Đại học KHXH & NV Hà Nội). Dẫn ý kiến này, chúng tôi nhận thấy sự quan tâm ngày càng nhiều của giới nghiên cứu khoa học Việt Nam về vấn đề biểu tượng nói chung. Trong đó, chúng ta cũng nhận thấy “biểu trưng hóa” là một đặc trưng tồn tại về mặt tư duy của con người từ buổi sơ khai và ảnh hưởng nhiều đến hoạt động ý thức của chúng ta. Nghiên cứu biểu tượng trong các hình thái ý thức xã hội là cần thiết. Trong đó, nghiên cứu biểu tượng trong văn học là khía cạnh thú vị. Dành nhiều quan tâm nhưng cũng có rất nhiều lí do ảnh hưởng khiến cho nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam hiện nay hầu như phân tán rời rạc. Nhìn chung, biểu tượng học vẫn là mảnh đất ít người tìm đến. Mặc dù hiện nay đã có không ít công trình nghiên cứu về lĩnh vực này nhưng vẫn chưa góp phần định hình nền tảng lí luận cần thiết. Thiết nghĩ, vẫn luôn cần một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững tiếp theo. Nghiên cứu biểu tượng hiện nay thật sự trở thành trào lưu. Chúng tôi không chỉ đơn thuần hòa vào dòng chảy chung, mà hơn hết muốn đóng góp thêm vài ý kiến vào quan niệm chung về biểu tượng. Đây là hướng nghiên cứu sâu rộng mà chúng ta cần phải chú trọng nhiều hơn nữa. 1.2. Những vấn đề khái niệm 1.2.1. Về biểu tượng a. Về khái niệm biểu tượng nói chung Trước hết, chúng tôi xin trình bày qua về nguồn gốc thuật ngữ. Biểu tượng trong nguồn gốc Hy Lạp là symbolon (συμβoλον); - Latin: symbolus/symbolum; Pháp: symbole [35],[42],[43],[58]. Theo Từ điển Latin của Charlton T. Lewis: symbolus là kí hiệu hoặc phù hiệu mà nó mang lại một cái khác, nhằm để hiểu thấu bất cứ gì đằng sau nó[42;p.825].Theo Henry G. Liddell và Robert Scott [43; p1174]: “συμβoλον” có nghĩa là: 1- là một kí hiệu hoặc dấu hiệu mà từ nó cho biết hoặc suy ra/ hàm ý một thứ khác; 2- Vật tượng trưng hoặc phù hiệu; 3 – là dấu hiệu bên ngoài của ý thức hoặc cảm giác; 4 - ở Athens, còn có nghĩa là vé, ngân phiếu, bàn tính. Có thể nói thêm rằng, biểu tượng trong nguồn gốc Hy Lạp có nghĩa đen là dẫn đến, so sánh với một thứ khác. Hay “cái biểu hiện, vật làm tin, dấu hiệu mà từ nó có thể suy
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan