Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biểu tượng nghệ thuật trong thơ xuân diệu...

Tài liệu Biểu tượng nghệ thuật trong thơ xuân diệu

.PDF
145
1671
118

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đoàn Thị Hồng Sương BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN DIỆU LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đoàn Thị Hồng Sương BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN DIỆU Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân. Các nội dung nghiên cứu và kết quả của đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian dối nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 02 năm 2014 Tác giả 1 LỜI CẢM ƠN Để quá trình nghiên cứu và hoàn tất luận văn được suông sẻ và thành công, tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều phía. Trước tiên, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân. Xin cảm ơn cô về những hướng dẫn và động viên của cô đối với tôi trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến các thầy cô trường Đại học Sư phạm đã giảng dạy nhiệt tình và mang đến nhiều kiến thức bổ ích cho tôi trong suốt khóa học. Tôi xin gởi lời cảm ơn đến phòng sau đại học đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt chương trình học. Cuối cùng, tôi xin gởi lời cảm ơn đến người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học và công việc nghiên cứu của mình. TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 02 năm 2014 Tác giả 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1 LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 5 2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài ................................. 6 3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 6 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 9 5. Những đóng góp dự kiến .............................................................................................. 11 6. Cấu trúc của luận văn: ................................................................................................. 11 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 12 1.1. Khái niệm biểu tượng ................................................................................................ 12 1.1.1. Biểu tượng .............................................................................................................12 1.1.2. Biểu tượng văn hóa ...............................................................................................16 1.1.3. Biểu tượng văn học ...............................................................................................17 1.2. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ .............................................................................. 21 1.3. Hành trình sáng tác và những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền thơ ca dân tộc ................................................................................................................................ 32 1.3.1. Hành trình sáng tác của Xuân Diệu .......................................................................32 1.3.2. Những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền thơ ca dân tộc ........................35 CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG THƠ XUÂN DIỆU..................................................................................................... 37 2.1. Biểu tượng Mùa xuân ................................................................................................ 37 2.1.1. Mùa xuân trong thơ ...............................................................................................37 2.1.2. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu .............................................................................39 2.2. Biểu tượng Hoa .......................................................................................................... 50 2.2.1. Hoa trong thơ.........................................................................................................50 2.2.2. Hoa trong thơ Xuân Diệu ......................................................................................53 2.3. Biểu tượng trái tim .................................................................................................... 63 2.3.1. Trái tim trong thơ ..................................................................................................64 2.3.2. Trái tim trong thơ Xuân Diệu ................................................................................65 2.4. Biểu tượng trăng ........................................................................................................ 79 2.4.1. Trăng trong thơ ......................................................................................................79 2.4.2. Trăng trong thơ Xuân Diệu ...................................................................................81 3 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ XUÂN DIỆU............................................................................................................... 96 3.1. Tính hệ thống và sự vận động của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu 96 3.1.1. Tính hệ thống của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu............................96 3.1.2. Sự vận động của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu ...............99 3.2. Những đặc trưng nổi bật về nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu .................................................................................................................................. 101 3.2.1. Thủ pháp tạo nên sắc thái của biểu tượng ...........................................................101 3.2.2. Thủ pháp tạo nên độ vang của biểu tượng ..........................................................113 3.2.3. Thủ pháp tạo nên độ nén của biểu tượng ............................................................122 3.3. Sự giao hòa Đông và Tây trong biểu tượng thơ Xuân Diệu ................................ 126 3.3.1. Biểu tượng Mùa xuân ..........................................................................................126 3.3.2. Biểu tượng Hoa ...................................................................................................128 3.3.3. Biểu tượng Trăng ................................................................................................130 3.3.4. Biểu tượng Trái tim .............................................................................................132 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 136 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 139 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghiên cứu biểu tượng ngày càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó nghiên cứu biểu tượng văn học chiếm một phần quan trọng. Khi nghiên cứu thơ ca người ta không thể bỏ qua nghiên cứu về hệ thống biểu tượng trong tác phẩm. Bởi các biểu tượng nghệ thuật ấy có vị trí to lớn trong việc giúp người nghiên cứu dễ dàng tiếp cận với tác phẩm, dễ dàng nắm bắt thế giới nghệ thuật của nhà văn, và tất nhiên cũng sẽ dễ dàng hiểu một cách hoàn chỉnh nhất về thông điệp mà tác giả muốn gởi đến. Từ đó, người nghiên cứu còn hiểu thêm về phong cách của tác giả, về nét văn hóa đặc trưng của đất nước, của dân tộc. Chính vì vậy, để nhìn nhận đúng đắn và có cơ sở khoa học về giá trị của tác phẩm và vai trò của nhà văn trong nền văn học dân tộc rất cần sự khảo sát, đánh giá, phân tích cấu trúc biểu tượng trong các tác phẩm thơ ca. Và trong những năm gần đây, vấn đề biểu tượng nghệ thuật, cấu trúc biểu tượng trong tác phẩm văn chương đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm. Với tư cách là một tín hiệu của thời gian, biểu tượng nghệ thuật mang truyền thống văn hóa của dân tộc, nối kết nhân loại và gắn liền với phong cách nhà văn. Trong văn học biểu tượng xuất hiện như một tất yếu của tư duy sáng tạo, thủ pháp nghệ thuật và khơi gợi những ý nghĩa sâu xa. Tuy ở Việt Nam công việc nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca chỉ mới bắt đầu nhưng đã hứa hẹn nhiều triển vọng. Phong trào thơ Mới 1932 – 1945 đã gây tiếng vang và đánh dấu một bước chuyển mình của to lớn của thơ ca dân tộc. Quả thật, văn học Việt Nam giai đoạn này đã mang đến những thành tựu vô cùng đặc sắc. Nhất là về thơ với hàng loạt các tên tuổi để lại dấu ấn không phai với thời gian như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,… Và nhà thơ Xuân Diệu góp một phần không nhỏ vào “Một thời đại thi ca” đó với một phong cách thơ rất riêng. Đặc biệt ở mảng thơ ca, nhất là thơ tình yêu dường như Xuân Diệu vẫn chiếm vị trí số một trong lòng người đọc. Và giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu vẫn có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu tác phẩm thơ của Xuân Diệu cũng không phải là một vấn đề mới mẻ. Thế nhưng việc nghiên cứu tác phẩm thơ Xuân Diệu một cách hoàn chỉnh cả giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám theo hướng nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật thì hoàn toàn còn bỏ ngỏ. Trong khi đó, với tư cách là một thành tố trong thi pháp thơ ca, biểu 5 tượng có tác động, thậm chí là có sự chi phối lớn trong việc hình thành cấu trúc chung của tác phẩm. Chính vì lý do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” với mong muốn khảo sát, phân tích và bước đầu khái quát về hệ thống biểu tượng trong thơ Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác. Từ đó, chúng tôi mong muốn góp một phần để việc đánh giá, tiếp nhận tác phẩm thơ Xuân Diệu được ngày càng hoàn chỉnh. 2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Dựa trên những lý thuyết về đặc điểm thể loại, thi pháp học, lý thuyết phê bình mới, lý thuyết về nghiên cứu biểu tượng, chúng tôi muốn tiếp tục nghiên cứu văn học dưới cái nhìn của phê bình mới, của lí luận văn học. Qua đó, chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói nhằm khẳng định thêm về những thành công trong thơ Xuân Diệu nói riêng và dòng thơ ca lãng mạn nói chung, đồng thời khắc họa phong cách thơ Xuân Diệu và vai trò của ông trong phong trào Thơ mới 1932 – 1945 cũng như những đóp góp xứng đáng ở mảng thơ ca sau Cách mạng tháng Tám. Thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn được đóng góp hữu ích vào việc nghiên cứu, phân tích, giảng dạy các tác phẩm thơ ca của Xuân Diệu ở nhà trường phổ thông. 2.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận án này là các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu. Để việc tiếp cận và khảo sát, cũng như nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu được tiến hành thuận lợi, về mặt cơ sở lý luận chúng tôi xin khảo sát chủ yếu các tài liệu liên quan đến lý thuyết về biểu tượng. Và trong phạm vi giới hạn của một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chúng tôi xin xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài để tránh đi lan man, xa rời vấn đề. Phạm vi đề tài luận văn “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” là các tập thơ của Xuân Diệu: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió, Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông, Dưới sao vàng, Sáng, Mẹ con, Ngôi sao, Riêng chung, Mũi Cà Mau – Cầm tay, Một khối hồng, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh, Thanh ca. 3. Lịch sử vấn đề 6 Để biên soạn mục này chúng tôi đã khảo sát các công trình và một số bài báo nghiên cứu về biểu tượng trong thơ ca và trong tác phẩm thơ Xuân Diệu. Trong phần bày, chúng tôi xin trình bày theo từng vấn đề và theo trình tự thời gian như sau: 3.1. Một trong số những tài liệu có giá trị khi đề cập đến vấn đề biểu tượng nghệ thuật là các bài viết “Các biểu tượng trong nghệ thuật”, bài “Khám phá các biểu tượng trong văn học” của tác giả Raymond Firth, Đinh Hồng Hải dịch. Các bài nghiên cứu này đã mang đến phần nào cái nhìn rõ hơn về biểu tượng nghệ thuật. Ở Việt Nam, có rất nhiều các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và không chuyên đề cập đến vấn đề biểu tượng nghệ thuật. Vũ Ngọc Phan trong bộ sách Tục ngữ, ca dao, dân ca đã có đề cập đến vấn đề biểu tượng trong ca dao. Ông cho rằng: “Một đặc điểm trong tư duy hình tượng của nhân dân Việt Nam về cuộc đời: đời người với con cò và con bống”. Trong bài “Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian” đăng trên tạp chí Văn học năm 1981, Chu Xuân Diên cho rằng: “Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ…” [tr.22]. Ông đã đặt ra vấn đề nghiên cứu thi pháp văn học dân gian nhiều góc độ trong đó có biểu tượng thơ ca. Một số luận án triển khai liên quan đến biểu tượng nghệ thuật cũng đã khẳng định được ý nghĩa thực tiễn của nó. Tiểu biểu là các công trình nghiên cứu của Trương Thị Nhàn. Năm 1991, trên Tạp chí Văn hóa dân gian, Trương Thị Nhàn có bài viết về Giá trị biểu trưng của một số vật thể nhân tạo trong ca dao. Tác giả đã tìm hiểu về ý nghĩa biểu trưng của các vật thể như: khăn, áo, giường, chiếu, … và cho rằng khả năng biểu trưng văn hóa nghệ thuật của các vật thể nhân tạo tạo nên nét đặc trưng rất cơ bản trong nghệ thuật của ngôn ngữ ca dao. Tiếp đó, đến năm 1992, Trương Thị Nhàn công bố bài viết “Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật ca dao qua một tín hiệu thẩm mĩ” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian. Ở bài viết này, tác giả chủ yếu nghiên cứu về biểu tượng sông và cho rằng biểu tượng này tham gia vào hệ thống biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật ca dao và có giá trị của một tín hiệu thẩm mĩ. Đến năm 1995, luận án “Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ không gian trong ca dao” nghiên cứu hàng loạt các biểu tượng như núi, sông, rừng, biển, đình, chùa, cầu, thuyền, … đã góp phần đáng kể ở lĩnh vực lí thuyết và ứng dụng thực hành. Mặc dù tác giả xem xét dưới góc độ ngôn ngữ học nhưng đã phân tích làm rõ các lớp ngữ nghĩa tiềm ẩn trong mỗi biểu tượng đó. Gần đây, một số biểu tượng được nghiên cứu dưới bình diện văn hóa cũng như văn học đã đem lại nhiều hiểu biết thú vị, độc đáo. Đó là biểu tượng hoa hồng trong bài viết 7 “Hoa hồng trong ca dao” của Nguyễn Phương Châm đăng trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian năm 2001, biểu tượng chiếc áo trong bài viết “Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần người Việt qua thơ ca” của Nguyễn Thị Ngân Hoa đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ năm 2001. 3.2. Riêng về việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu cũng khá phong phú. Nhiều nhà nghiên cứu thơ Xuân Diệu dưới nhiều góc độ khác nhau như văn hóa, lí luận văn học, phê bình văn học và cả ngôn ngữ học. Lê Tiến Dũng với luận án tiến sĩ “Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 – 1945”, bài viết “Sáng tạo và đóng góp của thi sĩ Xuân Diệu vào tiến trình thơ Việt Nam hiện đại” in trên tạp chí Trung học phổ thông đã đi sâu nghiên cứu về thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu và chỉ ra những đóng góp to lớn của Xuân Diệu trong nền thơ ca Việt Nam. Trong cuốn sách “Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945”, tác giả Lê Quang Hưng đã trình bày rất kĩ về hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả đã chú ý làm rõ các hình tượng tiêu biểu như hình tượng Cái tôi cá nhân phân cực, hình tượng Thế giới du dương, Thế giới u sầu mù mịt... để từ đó khẳng định vị trí cao của Xuân Diệu trong phong trào Thơ Mới ở thời kì cực thịnh. Ông viết: “Hạt nhân của cấu trúc nghệ thuật thơ Xuân Diệu là hình tượng cái tôi cá nhân với những quan điểm về cuộc đời, với tư thế trữ tình độc đáo…” [tr.225]. Năm 2007, luận án “Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt” (thể hiện qua ca cao trữ tình, thơ tình Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh) cũng có khảo sát một số hình ảnh làm cơ sở liên tưởng theo phương thức ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu như: hoa, tháng giêng, lá, cành, máu,… Tác giả cũng đã chia các hình ảnh đó theo các nhóm khác nhau: - “Các hiện tượng tự nhiên: mây, gió, trăng, sao, trời đất, nắng mưa, ngày, đêm, … - Các đồ dùng như: thuyền, ghe, gương, chỉ, đàn, dây, … - Các loại thực vật: hoa, cỏ, cây, lá, cành, … - Các động vật: chim, cá, ong, bướm … - Các bộ phận cơ thể người: răng, chân, tay, mặc, ngực, tim, lòng, … - …” [tr.70]. Nhưng hướng đi của đề tài này chủ yếu là tìm hiểu phương thức cấu tạo trong mỗi hình ảnh ẩn dụ đó chứ chưa đi vào nghiên cứu hệ thống biểu tượng thơ Xuân Diệu. Tuy vậy, luận án cũng đã khái quát được nội dung ý nghĩa của các hình ảnh trong thơ Xuân Diệu. Trong luận án này, tác giả còn chỉ ra tính biểu trưng của các hình ảnh đó nhưng chủ yếu là 8 nhằm làm rõ phương thức liên tưởng ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu. Tác giả cho rằng Trăng có tính biểu trưng cho người con gái còn trẻ, sự thủy chung, thời gian, một tháng, nhân chứng cho tình yêu, vật thể nguyên vẹn, qui luật, … Riêng việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu từ lí thuyết biểu tượng nói chung, đặc biệt biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn đến nay vẫn chưa thấy một công trình chuyên khảo cụ thể nào. Năm 2008 luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Ngọc Thư với đề tài “Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ Mùa xuân và Trái tim trong thơ Xuân Diệu” nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học cũng đã đề cập đến hai trong số các biểu tượng thơ Xuân Diệu. Công trình nghiên cứu này đã khảo sát biểu tượng Mùa xuân và Trái tim và chỉ ra nội hàm của chúng. Điều này đã góp một phần vào những bước tiếp cận hoàn chỉnh về thơ ca của Xuân Diệu. Tuy nhiên, tác giả luận án cũng chỉ mới nêu ra hai tín hiệu thẩm mĩ và khái quát về ý nghĩa tư tưởng của chúng theo góc độ ngôn ngữ học chứ chưa đi sâu vào ý nghĩa biểu tượng, cũng như về tính tư tưởng và tính nghệ thuật của nó một cách cụ thể. Nhìn chung, đây là đề tài đã và đang thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học khi tìm hiểu về thi pháp thơ Xuân Diệu. Nhưng việc nghiên cứu biểu tượng một cách toàn diện, hệ thống, nghiên cứu biểu tượng nhìn từ cảm hứng nghệ thuật và từ thủ pháp nghệ thuật, chú ý đến tính chất động và tĩnh của biểu tượng, sự vận động của nó trong cấu trúc bài thơ, … vẫn còn là một công việc cần bổ sung, hoàn chỉnh. Một số biểu tượng đã được phân tích, tìm hiểu nhưng vẫn còn thiếu cái nhìn tổng quát, thật sự hệ thống về các biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Với mục đích tiếp tục việc nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu”. Bên cạnh một số thuận lợi có được từ việc tiếp thu thành quả nghiên cứu của các công trình đi trước, chúng tôi cũng gặp khá nhiều khó khăn như: đối tượng nghiên cứu phức tạp, khối lượng tư liệu phải xử lí khá lớn,… 4. Phương pháp nghiên cứu Vấn đề là nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu liên quan đến yếu tố đời sống thực tiễn, lịch sử xã hội, quê hương tác giả. Chính vì vậy, chúng tôi nhận thấy ngoài việc sử dụng phương pháp chuyên ngành như Thi pháp học, Phê bình mới, Phê bình cấu trúc, chúng tôi cần sử dụng kết hợp với phương pháp liên ngành như Lịch sử, Văn hóa. - Phương pháp Thi pháp học: ở chương 2 và chương 3, chúng tôi sử dụng phương pháp Thi pháp học để khám phá nội dung ý nghĩa của từng biểu tượng cũng như 9 sự hình thành các biểu tượng trong tư duy thơ Xuân Diệu. Thi pháp học cũng là một phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thấy sự chi phối, tác động của các biểu tượng nghệ thuật lên phong cách sáng tác của Xuân Diệu. - Phương pháp Phê bình mới được sử dụng vào việc tìm hiểu tính tư tưởng và tính nghệ thuật của các biểu tượng thơ Xuân Diệu chủ yếu ở khía cạnh nghiên cứu là những biểu tượng nghệ thuật trong thơ ca. - Phương pháp Phê bình cấu trúc được sử dụng trong quá trình luận văn khảo sát cấu trúc nội tại của biểu tượng, mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong làm nên ý nghĩa của biểu tượng thơ Xuân Diệu. - Phê bình liên ngành: Xuân Diệu là một tác giả lớn của thơ ca hiện đại Việt Nam, nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu đòi hỏi cách tiếp cận liên ngành (Lịch sử, Văn hóa, …). Thơ Xuân Diệu phản ánh bộ mặt xã hội, thời đại và đời sống văn hóa của con người Việt Nam từ những năm trước cách mạng tháng Tám cho đến giai đoạn sau này. Đặc biệt bầu không khí giai đoạn 1932 – 1945 và sự kiện cách mạng tháng Tám thành công đã mang đến nhiều suy tư cho giới văn nghệ sĩ nói chung và Xuân Diệu nói riêng. Vì vậy, một cách tiếp cận liên ngành là cần thiết cho quá trình nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng một số phương pháp phổ thông như thống kê. Bên cạnh đó, biểu tượng nghệ thuật là những tín hiệu thẩm mĩ tồn tại ở nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều bộ phận văn học, nhiều môi trường văn hóa, … Vì vậy, khi nghiên cứu chúng tôi thấy cần thiết phải sử dụng thêm một số phương pháp khác như so sánh, phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê: là phương pháp đầu tiên khi đi vào khảo sát và tìm hiểu biểu tượng thơ Xuân Diệu. Phương pháp này cho phép xác định những chi tiết, hình ảnh xuất hiện với tần số dày đặc, giúp nhận ra những biểu tượng nào là tiêu biểu thể hiện thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu. - Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp: dựa trên kết quả đã khảo sát được cùng với phương pháp này chúng tôi sẽ tiến hành phân tích, so sánh đối chiếu bản thân biểu tượng với biểu tượng khác trong thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu và biểu tượng thơ của tác giả khác. Mục đích là để tìm ra nét đặc trưng của biểu tượng thơ Xuân Diệu bên cạnh việc xác định biểu tượng nào đóng vai trò chủ đạo, cốt yếu làm nên phong cách thơ Xuân Diệu 10 5. Những đóng góp dự kiến Bên cạnh việc tiếp thu thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi mong muốn có những đóng góp mới với đề tài này nhằm góp phần làm rõ biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu: - Thống kê và miêu tả các biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu. - Khảo sát biểu tượng ở nhiều mặt: nguồn gốc, chức năng, ý nghĩa, nghệ thuật xây dựng biểu tượng. - Xác định vai trò, vị trí của biểu tượng nghệ thuật trong việc hình thành phong cách thơ Xuân Diệu. - Vận dụng kết quả nghiên cứu vào việc giảng dạy tác phẩm Xuân Diệu trong nhà trường phổ thông. 6. Cấu trúc của luận văn: Luận văn “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” gồm có 159 trang, trong đó 154 trang chính văn, ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (94 đề mục), được chia thành các chương sau: Chương 1: Những vấn đề chung ( 30 trang): chúng tôi dành để giới thuyết về khái niệm biểu tượng và giới thiệu chung về nhà thơ Xuân Diệu. Chương 2: Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu (66 trang): luận văn khảo sát và đi sâu vào phân tích bốn biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác. Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu (49 trang): luận văn triển khai trên các phương diện: tính hệ thống, tính vận động, các thủ pháp nghệ thuật và sự giao hòa Đông Tây trong việc xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu. 11 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Khái niệm biểu tượng 1.1.1. Biểu tượng Biểu tượng là một phần quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần nhân loại. Ngày nay, nghiên cứu biểu tượng đã và đang trở thành lĩnh vực được nhiều nhà khoa học ở nhiều ngành khác nhau đặc biệt quan tâm. Thế giới biểu tượng nói chung góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển của một cộng đồng, một dân tộc. Biểu tượng mang lại những đặc sắc về văn hóa cho mỗi quốc gia. Mỗi một nền văn hóa trên thế giới này đều là sự tổng hòa của các hệ thống biểu tượng. Jean Chevalier, tác giả của Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới từng nhận xét rằng: “Nói chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta” [26,tr.XIV]. Như thế, vai trò của biểu tượng đã được đánh giá khá chính xác với những gì chúng đóng góp trong đời sống của con người. Việc đi sâu vào thế giới biểu tượng và mối quan hệ của biểu tượng với đời sống con người là một trong những phương thức giúp con người nhận ra giá trị của chính mình trong vũ trụ. Thế giới biểu tượng vẫn còn là một thế giới đầy kì ảo, mê hoặc và luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Tiếp cận và lý giải nó là mong muốn của nhân loại trên con đường đi đến tương lai. Trước hết, ta cần tìm hiểu: biểu tượng là gì? Biểu tượng, theo tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh, hình dạng. Biểu tượng là một hình ảnh cụ thể được bày ra, được thể hiện để nhằm biểu thị một ý nghĩa trừu tượng. Thuật ngữ chỉ biểu tượng trong tiếng Anh là symbol có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là symbollon (có nghĩa là kí hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau là một). Biểu tượng (symbol) là một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử dụng với những nội hàm khác nhau. Từ xa xưa, biểu tượng đã được dùng để chỉ một vật được cắt, tách ra làm đôi (thường là mảnh sứ, gỗ hoặc kim loại). Mỗi mảnh này được giữ bởi hai người (chủ tớ, người cho vay – người vay, tình nhân, chồng – vợ, …) Sau này, khi hai mảnh vỡ ấy có cơ hội ráp lại với nhau thì họ sẽ nhận ra mối quan hệ cũ. Như vậy biểu tượng chia ra và kết lại với nhau chứa đựng hai ý tưởng phân li và tái hợp. Điều này cũng đồng nghĩa rằng mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ: “Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ: ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là kết nối những phần của nó đã bị vỡ ra” [26, tr.XXIII]. 12 Sau này, khi khoa học về biểu tượng được hình thành và phát triển hơn thì có rất nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra nhằm lí giải về ý nghĩa của biểu tượng, mối quan hệ và vai trò của biểu tượng trong đời sống của con người. Sau đây, xin dẫn một vài ý kiến, nhận định của các nhà nghiên cứu: Theo Từ điển Larousse cho rằng: “Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con vật sống động hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó” [tr. 78]. Còn trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống thì giải thích về khái niệm biểu tượng như sau: “Tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia”, tức là dùng cái “có thể hiểu biết” để nói lên điều “khó có thể hiểu biết”, hay dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái hữu hình để nói cái vô hình, …[68] Theo phân tâm học Freud, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng … [26,tr. XXIV]. Tóm lại, các ý kiến trên ít nhiều đều có sự khác nhau, song về cơ bản, tất cả đều chỉ ra rằng, biểu tượng là những cách thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa nọ, dùng hình ảnh cụ thể để thể hiện một ý nghĩa trừu tượng. Hay nói cách khác, biểu tượng là sự thống nhất của hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt có thể là một sự vật, một hiện tượng, một hình ảnh, … cụ thể trong hiện thực khách quan hoặc trong tưởng tượng của con người. Cái biểu đạt nhằm mục đích thể hiện cái được biểu đạt, tức là thể hiện những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người về cuộc sống, xã hội, thế giới (có thể đang xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng còn ăn sâu trong đời sống tâm hồn con người). Con người tồn tại, trưởng thành từ những kinh nghiệm sống của thế hệ đi trước và tự tạo ra kinh nghiệm sống cho chính mình. Những kinh nghiệm đó thường được con người lưu giữ trong trí nhớ, đây chính là cơ sở tạo nên biểu tượng. Và biểu tượng chính là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thế nhưng giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan và những ý nghĩa mà nó hàm chứa (dưới góc độ biểu tượng) không phải là sự đồng nhất mà là một sự tương ứng ở nhiều khía cạnh, cấp độ, quan hệ khác nhau. Chính điều này làm nên tính đa nghĩa của biểu tượng. Có thể xem biểu tượng như là một sự quy ước, hay nói đúng hơn, một trong những đặc điểm của biểu tượng là tính quy ước. Đó có thể là quy ước của một cá nhân, một cộng 13 đồng hay một dân tộc. Khi một nhà văn, nhà thơ thường xuyên sử dụng một hình ảnh nào đó trong các sáng tác của chính mình nhằm biểu hiện một thông điệp cá nhân về con người và cuộc sống. Độc giả tiếp xúc và nhận ra các hình ảnh quen thuộc đó, đồng thời khám phá ra các giá trị thẩm mĩ của những hình ảnh mà nhà văn, nhà thơ đã dụng công xây dựng. Điều này làm cho tác phẩm, tác giả có sức sống với thời gian. Đó là biểu tượng của cá nhân, mang tính quy ước của một tác giả nào đó. Rộng hơn là những biểu tượng là quy ước của cộng đồng. Biểu tượng sẽ chỉ tồn tại khi nó được cộng đồng hiểu, chấp nhận. Ở đây, ta phải nhắc đến ý nghĩa ổn định của biểu tượng trong một thời kì lịch sử nào đó, trong một bối cảnh xã hội nhất định. Đã là biểu tượng, nó sẽ chết nếu đứng yên, bất biến. Thế nhưng nếu một sự vật, hiện tượng luôn luôn thay đổi về ý nghĩa thì khó mà tạo nên giá trị biểu tượng cho bản thân nó. Biểu tượng phải vừa ổn định, vừa không ổn định. “Mỗi nhóm người, mỗi thời đại có những biểu tượng của mình: rung động trước cái biểu tượng đó, tức là tham gia vào nhóm người và thời đại ấy” [26,tr. XXXIII]. Biểu tượng mang tính cộng đồng. Bởi chỉ những sự vật, hiện tượng, hay hình ảnh được cộng đồng chấp nhận, đồng tình rằng nó có chứa những ý nghĩa nào đó ở bên ngoài nó, thì nó mới trở thành biểu tượng. Sau khi trải qua thời gian, biểu tượng được hình thành, phát triển ổn định, chắc chắn trong tâm thức cộng đồng. Cũng chính vì biểu tượng mang tính cộng đồng, tính xã hội mà trên thế giới có vô số các cộng đồng, dân tộc khác nhau, nên các sự vật, hiện tượng dù giống nhau cũng không bao giờ chứa các ý nghĩa biểu tượng hoàn toàn giống nhau. Trong Luận án tiến sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Điệp đưa ra một số ví dụ về tính đa dạng của biểu tượng trong đời sống của các cộng đồng dân tộc khác nhau trên thế giới: “Chẳng hạn, đối với người Hindu, thấm nhuần tư tưởng Vệ - Đà, con bò cái mang một ý nghĩa tinh thần khác hẳn đối với người nuôi bò xứ Normandie. Đối với người dân lao động Nga, trong thi ca dân gian, chim thiên nga, con tu hú mang những ý nghĩa tượng trưng sâu sắc mà ở các dân tộc khác không có”. Mặc dù không toàn toàn trùng khớp về những lớp nghĩa biểu tượng trong những cộng đồng, dân tộc khác nhau, thế nhưng giữa chúng có một mối liên hệ liên kết con người lại với nhau. Điều này thể hiện cụ thể qua một số biểu tượng mang tầm vóc quốc tế bên cạnh những nét riêng của dân tộc mình: chim bồ câu – biểu tượng của sự hòa bình, hoa – biểu tượng chỉ người con gái, … Đến đây, sau khi trình bày những ý kiến, kiến giải sâu sắc về khái niệm biểu tượng, người viết xin đưa ra sơ đồ “siêu kí hiệu” của R. Barthes để làm lời kết về khái niệm phức 14 tạp này. R. Barthess đã tiếp thu khái niệm Ký hiệu học biểu thị và Ký hiệu học hàm nghĩa của Hjelmslev vào hệ thống Ký hiệu học của mình. Có thể tóm tắt sơ đồ "siêu ký hiệu" của R. Barthes như sau : Một là, hệ thống "Ký hiệu học biểu thị" [A] ( ký hiệu - thông thường ) Hai là hệ thống "Ký hiệu học hàm nghĩa" [B] (Biểu tượng – Siêu ký hiệu). Hai hệ thống ký hiệu này lồng ghép với nhau tạo thành “hệ thống trong hệ thống” – hệ thống biểu tượng. (Xem sơ đồ 1.1) Sơ đồ 1.1.1. Sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của R. Barthes [19] Sơ đồ trên đây đã thể hiện rõ là: trong hệ thống (B) ở bình diện "cái biểu đạt" (CBĐ) - hình thức của hệ thống (B) đã là hệ thống ký hiệu học biểu thị (A). Còn ở bình diện "cái được biểu đạt" (CĐBĐ) - nội dung của hệ thống (B) lại là một hệ thống ký hiệu nghĩa hàm nghĩa (ẩn dụ). Cả hai hệ thống (A) và (B) trở thành “hệ thống"kép" tạo thành thế giới "siêu ký hiệu" - Thế giới biểu tượng (Symbols). Để dễ dàng hiểu được sơ đồ cú pháp "Ký hiệu học hàm nghĩa" của R. Barthes trong quá trình tiếp cận Ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng, ta có thể chuyển đổi sơ đồ mẫu trên đây trở thành sơ đồ giải thích. (Xem sơ đồ 1.1.2) 15 Sơ đồ 1.1.2. [19] (A) Hệ thống Ký hiệu học biểu thị (ký hiệu biểu thị) bao gồm hai mặt: Hình ảnh, hình tượng biểu thị và ý nghĩa biểu đạt chúng tạo thànhh một ký hiệu thông thường (đơn nghĩa). (B) Ký hiệu học hàm nghĩa (ký hiệu hàm nghĩa) bao hàm hai mặt: Ký hiệu biểu thị hiển ngôn, và ký hiệu ẩn dụ - mật ngôn. Chúng tạo nên thế giới của "siêu ký hiệu" - thế giới biểu tượng (đa nghĩa). [19] 1.1.2. Biểu tượng văn hóa Toàn thư quốc tế về phát triển văn hóa (International thesaurus on cultural development) của UNESCO đã đưa ra lời nhận xét rằng: “Văn hóa là tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt”. Còn C. Levy – Strauss cũng đã đưa ra một khái niệm tương tự như thế: “ Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp hàng đầu là ngữ ngôn, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo” [26, tr. XXIII]. Khi tìm hiểu về biểu tượng văn hóa ta không thể không chú ý đến khái niệm văn hóa. Văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất, tinh thần của con người được tạo nên do những tác động của chính con người lên tự nhiên và xã hội. Văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới. Khi nghiên cứu về biểu tượng văn hóa cũng là đang chạm vào các yếu tố văn hóa. Biểu tượng, như đã nói ở phần trên, là một vật được chia ra làm hai nửa, khi ghép lại sẽ thể hiện một mối quan hệ, liên kết nào đó. Biểu tượng được hình thành lâu dài và được 16 cộng đồng chấp nhận. Nét văn hóa, bản sắc mỗi dân tộc thể hiện khá rõ nét qua hệ thống biểu tượng của dân tộc đó. Và biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành động, hiện tượng, ý niệm, …) có khả năng biểu hiện ý nghĩa rộng hơn chính hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một hệ thống đặc trưng cho những nền văn hóa nhất định: nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục, thần linh, … Trong văn hóa Việt Nam và phương Đông, người ta có thể dễ dàng bắt gặp một loạt các biểu tượng văn hóa như: nước, lửa, mặt trời, con rùa, con trâu, hoa sen, … Những biểu tượng là dạng nguyên thủy nhất có thể được xem là cổ mẫu, mẫu gốc của một nền văn hóa. Đó là nguồn gốc phát sinh các biểu tượng mang tính truyền thống của các ngành văn học, nghệ thuật. Có thể nói mẫu gốc, cổ mẫu là cấp độ đầu tiên của biểu tượng. Khi đi vào đời sống văn hóa, trải qua sự biến đổi của thời gian và quá trình phát triển của văn minh loài người, các mẫu gốc có khả năng sản sinh ra nhiều biểu tượng văn hóa khác nhau. Từ đấy, chúng luân chuyển, biến đổi và được bồi đắp thêm những ý nghĩa mới thông qua tư duy phong phú của con người. Nhưng về cơ bản, mối liên hệ giữa chúng với mẫu gốc vẫn tồn tại và in hằn dấu vết bởi những truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, nghi lễ, phong tục,… 1.1.3. Biểu tượng văn học Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa. Như đã nói, các cổ mẫu, mẫu gốc chính là những dạng biểu tượng nguyên thủy, sau này được các tác giả văn học sử dụng để xây dựng biểu tượng văn học trong sáng tác của mình. Từ những biểu tượng văn hóa với những nét nghĩa đã được hình thành từ xưa, nhà văn, nhà thơ lựa chọn và sử dụng trong tác phẩm văn học. Từ đó, biểu tượng ấy được bồi đắp thêm nhiều lớp ý nghĩa mới, chuyển tải thêm nhiều cảm xúc, tình cảm của tác giả về đời sống của con người đương đại. Những hình ảnh, sự kiện, … của thế giới xung quanh được nhà văn, nhà thơ chắp nối, tái tạo theo một logic mới, trật tự mới để tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ dựa trên cơ sở những mẫu gốc. Và biểu tượng văn học xuất hiện. Trong văn học, khi nói đến biểu tượng là người ta thường đề cập đến hai dấu hiệu nhận biết. Biểu tượng là những hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, nhằm diễn đạt, truyền tải một thông điệp, nội dung trừu tượng. Biểu tượng văn học được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa. Nó là sự mã hóa cảm xúc, ý tưởng của nhà văn. Biểu tượng văn học chính là phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều 17 biểu tượng chính là sự thể hiện cách từ chối của tác giả về cách bày tỏ tâm tư, tình cảm một cách trực tiếp. Điều này ta thường thấy trong thơ ca. Biểu tượng văn hóa, biểu tượng văn học (biểu tượng nghệ thuật) cũng có sự khác biệt cơ bản. Như đã nói, biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa. Ngoài ra, biểu tượng văn hóa có xu hướng được bổ sung ý nghĩa, và sau một thời gian, dường như ý nghĩa đó trở nên cố định và nhiều lúc trở nên khó hiểu đối với con người ở thế hệ sau. Còn biểu tượng văn học luôn có xu hướng tái sinh về mặt ý nghĩa, không chỉ trong sáng tác mà trong cả tiếp nhận văn học. Một vài nét nghĩa có thể vẫn được giữ nguyên nhưng sẽ có một vài nét nghĩa của nó được bổ sung. Và như thế, khi xuất hiện trong tác phẩm với nét nghĩa mới nó vẫn giữ trong mình những ý nghĩa từng có trong lịch sử. Lý do cơ bản của việc vì sao biểu tượng văn hóa đôi khi lại gây khó hiểu cho con người ở thế hệ sau đó chính là do thời đại phát sinh đã không còn hiện hữu, trái lại biểu tượng văn học, ngoài môi trường thời đại, xã hội thì nó còn một môi trường không bao giờ có thể mất đi, đó là chỉnh thể tác phẩm. Do đó, cho dù thời đại phát sinh có lùi xa vào quá khứ thì việc cảm nhận, lí giải, cắt nghĩa biểu tượng văn học cũng không mấy khó khăn. Khi những biểu tượng văn học được nhiều người thừa nhận, đồng thời chính nó có một đời sống rộng lớn trong lòng công chúng, chứa đựng toàn vẹn nỗi niềm của con người thì nó trở thành biểu tượng văn hóa. Sự biến dổi này đôi lúc khiến chúng ta khó nhận ra được là biểu tượng đi từ đời sống vào văn học hay ngược lại. Văn học là một bộ phận của văn hóa. Có thể nói, được trở thành biểu tượng văn hóa là một thành công lớn lao của biểu tượng văn học. Đi vào biểu tượng văn học, ta cần phải phân biệt sự khác nhau giữa biểu tượng và những khái niệm có nội hàm gần giữ như ẩn dụ và hình tượng. 1.1.3.1. Phân biệt biểu tượng và hình tượng Về hình tượng, Từ điển Thuật ngữ văn học ghi rằng: “Hình tượng nghệ thuật vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát làm bộc lộ được bản chất của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của người nghệ sĩ. Hình tượng nghệ thuật không phải phản ánh các khách thể thực tại tự nó, mà thể hiện toàn bộ quan niệm và cảm thụ sống động của chủ thể đối với thực tại… Vì những lẽ trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống nhất cao độ giữa các mặt đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và lí tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình”.[17,tr.147] 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan