Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 trong học tập...

Tài liệu Biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 trong học tập

.DOC
14
89
111

Mô tả:

Mục lục Trang A/ Phần mở đầu:...…………………...……………………………………2 I. Lý do chọn đề tài:.............................................................................................2 II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:............................................................2 1. Mục đích:....................................................................................................................2 2. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................................................2 III. Giới hạn đề tài:...............................................................................................3 IV. Kế hoạch thực hiện.........................................................................................3 B/ Phần nội dung:.........................................................................................3 I. Cơ sở lý luận:....................................................................................................3 II. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................4 III. Thực trạng :.....................................................................................................4 1) Thuận lợi:....................................................................................................................4 2) Khó khăn.....................................................................................................................5 IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề:....................................................................5 V. Hiệu quả:..........................................................................................................6 C/ Kết luận:.................................................................................................6 I. Ý nghĩa:.............................................................................................................6 II. Khả năng áp dụng:...........................................................................................7 III. Bài học kinh nghiệm.......................................................................................7 D/ Tài liệu tham khảo: ................................................................................8 1 Đề tài: LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẠO SỰ HỨNG THÚ TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH A/ PHẦN MỞ ĐẦU: I. Lý do chọn đề tài: - Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên cần có khả năng hiểu biết về nhiều phương diện của kiến thức, phải có khả năng truyền đạt kiến thức đến học sinh một cách có hiệu quả. Phải tận tâm với nghề, thân mật, gần gũi giúp đỡ học sinh, thúc đẩy tinh thần học tập hăng say đồng thời không ngừng đổi mới, bổ sung, cải tiến và hoàn thiện phương pháp giảng dạy để thích ứng với một nền giáo dục đang thay đổi. - Lớp học có được tổ chức hài hoà, hợp lý kết hợp với sự điều hành linh hoạt thích đáng mới tạo ra cơ hội thuận tiện để học sinh học tâp. Tổ chức lớp học là do sáng kiến của giáo viên nhưng thực hiện là bổn phận, là trách nhiệm của học sinh. Giáo viên nhận định, theo dõi và nhắc nhở thường xuyên để duy trì thái độ học tập tích cực ở học sinh và tạo ra môi trường thật sự hấp dẫn và lôi cuốn học sinh. Có như vậy, học sinh mới cảm thấy thoải mái và tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng. - Trong thực tế giảng dạy cho thấy tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức còn thụ động. - Thiếu sự nhiệt tình, tích cực trong hoạt động nhóm. Một vài học sinh có biểu hiện ỷ lại vào các bạn trong nhóm. Chưa mạnh dạn bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân. - Hoạt động trò chơi chưa đưa vào nhiều trong các hoạt động giảng dạy. Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh của người giáo viên, bản thân nghĩ rằng mình cần phải biết tạo hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Đó là điều làm bản thân phải suy nghĩ: “Làm thế nào gây hứng thú học tập cho học sinh? ” và đây chính là đề tài tôi đã chọn để nghiên cứu. II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu: 1. Mục đích: Đối tượng giảng dạy của chúng ta chính là học sinh tiểu học. Đây là lứa tuổi học sinh chuyển tiếp từ giai đoạn vui chơi sang giai đoạn học tập, khả năng tri giác của các em rất tốt, hứng thú ngày càng bộc lộ và phát triển rõ rệt. Đặc biệt là hứng thú 2 nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung quanh, các em thể hiện tính tò mò, ham hiểu biết. Tuy nhiên sự phát triển hứng thú học tập của học sinh phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức daỵ học của giáo viên. 2. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp thảo luận. - Phương pháp động não. - Phương pháp đóng vai. - Phương pháp hỏi đáp. - Phương pháp thực hành, ... III. Giới hạn đề tài: Từ các biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trên, có thể áp dụng cho các lớp ở bậc tiểu học (Từ lớp 1 đến lớp 5). IV. Kế hoạch thực hiện: - Chọn đề tài: Vào đầu năm học. - Xây dựng đề cương: Dựa trên cơ sở chất lượng thực tế của học sinh lớp. - Thu thập thông tin: Thông qua quá trình giảng dạy. - Hoàn thành sáng kiến: Đến ngày 15 tháng 4 năm 2012. B/ PHẦN NỘI DUNG: I. Cơ sở lý luận: - Phải nhận thức được việc “dạy thật” có nghĩa là dạy học không phải chạy theo thành tích, dạy cho học sinh lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả nhất. Phải dạy theo từng đối tượng học sinh. - Giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ cả về giáo án và đồ dùng dạy học. Dự đoán trước những tình huống cụ thể xảy ra và chuẩn bị sẵn một hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức. - Cần phải linh động trong việc giảng dạy, chủ động đưa ra kế hoạch giảng dạy nhưng vẫn đảm bảo dạy đủ, dạy đúng kiến thức theo chương trình tiểu học. Biết tích hợp lồng ghép kiến thức một cách có hiệu quả. - Trong tiết dạy, giáo viên nên tổ chức các trò chơi bằng nhiều hình thức: Trắc nghiệm hoặc thi đố - trả lời nhanh, liên hệ thực tế những đồ vật xung quanh (khi dạy bài toán có hình học...) cho cả lớp cùng tham gia. 3 - Phải nhận thức được việc “học thật” nghĩa là phải nhận ra tầm quan trọng ở mỗi môn học là như nhau, không nghĩ rằng có môn chính, môn phụ. Phải có sự chuẩn bị bài vở trước khi đến lớp, biết sưu tầm những hình ảnh, tư liệu có liên quan đến bài học do giáo viên yêu cầu. II. Cơ sở thực tiễn: - Ví dụ : Dạy bài toán “Phép chia phân số” (SGK toán 4 trang 135-136) Mục tiêu đặt ra cho từng đối tượng học sinh là: + Học sinh trung bình – yếu : Phải biết viết phân số đảo ngược (Bài tập 1) và tính được các câu ở bài tập 2. + Học sinh khá - giỏi: Đều làm được cả bài tập 3,4. - Dạy bài: “Luyện tập” (SGK toán lớp 4 – trang 143). Giáo viên có thể dạy gộp bài tập 3, 4. + Từ bài tập 3 học sinh đã xếp bốn hình tam giác thành một hình thoi. + Thực hành ở bài tập 4 các em đã hình dung được hình từ BT3 và sẽ gấp được tờ giấy có bốn cạnh đều bằng nhau; hai đường chéo vuông góc với nhau và cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường. - Ở bài Đạo đức : Bảo vệ môi trường. Học sinh cần sưu tầm những tranh ảnh (môi trường xanh-sạch-đẹp; môi trường bị ô nhiễm,...) hoặc những hình ảnh có liên quan đến bài học để các em so sánh; biết được những hình ảnh nào ta nên tránh, hình ảnh nào phải thực hiện theo để phòng tránh ô nhiễm. III. Thực trạng : 1) Thuận lợi: - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và đặc biệt là phụ huynh học sinh của lớp. - Qua các hình thức dạy học trên, học sinh mau hiểu bài, tiếp thu kiến thức nhanh hơn. - Học sinh tích cực, học tốt; lớp học sinh động, làm việc theo nhóm có hiệu quả. - Phát huy được tính chủ động, tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh. 2) Khó khăn: - Còn một số em do gia cảnh khó khăn, phụ huynh học sinh ít quan tâm. - Một vài học sinh còn thụ động, chậm tiến, không chịu khó thực hiện các hoạt động nêu trên. 4 IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề: - Không có một phương pháp nào là tối ưu. Bên cạnh những phương pháp dạy học hiện đại: thảo luận, động não, đóng vai… Người thầy cần phát huy những phương pháp dạy học truyền thống: quan sát, hỏi đáp, thực hành, thí nghiệm, thuyết minh… - Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh . - Có nhiều hình thức tổ chức học tập như: cá nhân, tổ (nhóm), lớp. Tùy theo từng mục tiêu cần đạt được mà giáo viên lựa chọn, phối hợp một cách hợp lý các hình thức học tập. - Tăng cường tổ chức cho học sinh làm việc nhóm (nhóm 2,3,4,...) để học sinh có cơ hội trao đổi bàn bạc. Tuy nhiên, không phải lúc nào học tập nhóm cũng là tốt. Chúng ta chỉ nên cho học sinh làm việc nhóm khi câu hỏi đặt ra khá rộng, khó, cần sự góp ý của nhiều người thì làm việc nhóm mới thật cần thiết và đạt hiệu quả. Ví dụ: Dạy bài khoa học: Sự sinh sản của ếch. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm 4 để vẽ sơ đồ thể hiện chu trình sinh sản của ếch. - Tạo nhóm ngẫu nhiên. Ví dụ: Dạy bài ôn tập số tự nhiên, phân số, số thập phân. Giáo viên phát cho mỗi em một thẻ số (Thẻ phân số, thẻ số thập phân, thẻ số tự nhiên) yêu cầu học sinh di chuyển đến nhóm có thẻ cùng dạng số. - Tổ chức hình thức di chuyển trạm ( 3 đi một ở lại, di chuyển tự do ...) để học sinh được học tập thêm từ các nhóm khác. Ví dụ : Dạy bài Đạo đức: Tìm hiểu về Liên Hợp Quốc. Sau khi học sinh được làm việc nhóm trưng bày những hình ảnh, tư liệu về Liên Hợp Quốc sưu tầm được vào bảng nhóm. Giáo viên tổ chức cho học sinh 3 đi 1 ở lại để học tập thêm từ nhóm khác. Bạn mang thẻ màu đỏ sẽ ở lại giới thiệu thông tin, hình ảnh sưu tầm của nhóm mình cho các bạn nhóm khác nghe. Ba bạn mang thẻ ( trắng, vàng, xanh ) di chuyển sang trạm khác để học tập thông tin mới rồi trở về nhóm kể cho bạn ở lại nghe . - Bên cạnh những lời giảng giải của giáo viên thì đồ dùng trực quan cũng là một phương tiện hỗ trợ hiệu quả giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức. Đồ dùng trực quan phải đảm bảo tính khoa học, tính thẫm mĩ và tính sư phạm thì mới hấp dẫn và mang tính hiệu quả . Ví dụ: Dạy bài “ Phòng bệnh Sốt xuất huyết”. Học sinh được xem một đoạn phim thời sự về thông tin người bệnh sốt xuất huyết và biện pháp phòng bệnh sốt xuất huyết. 5 * Lưu ý: Không nên quá lạm dụng vào đồ dùng dạy học, sử dụng phải đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ, dùng xong giáo viên nên cất ngay để tránh gây mất tập trung cho các em. - Thường xuyên khen học sinh để các em tự tin khi đặt câu hỏi và trả lời. Tránh chê bai hay dùng những từ ngữ nặng nề, khó nghe khiến các em sợ hãi, căng thẳng dẫn đến chán học . - Gây hứng thú học tập ngay từ bắt đầu tiết học. Ví dụ: Giới thiệu bài sự sinh sản của ếch như sau : + Cho học sinh hát bài “Chú ếch con” + Tổ chức cho học sinh thi “ Bắt chước tiếng ếch kêu” + Hỏi: Bạn có biết ếch thường kêu vào mùa nào không? ( Đầu mùa hạ ếch đực thường cất tiếng gọi ếch cái đến để giao phối ). Giáo viên mới giới thiệu và cho các em tìm hiểu bài : Sự sinh sản của ếch . - Tạo không gian lớp học sạch sẽ, thoáng mát, đẹp Ví dụ: Sau khi dạy bài sự sinh sản của thú, học sinh có thể tập hợp hết những bảng dán hình ảnh động vật sưu tầm của học sinh vào một bảng lớn có phânloại động vật sinh sản bằng cách đẻ con, đẻ trứng và treo ở góc học tập của lớp. Nhờ đó học sinh sẽ luôn nhớ bài học mỗi lần nhìn vào góc học tập và lớp học sẽ sinh động, thêm đẹp hơn. - Thỉnh thoảng nên thay đổi không gian trong tiết học. V. Hiệu quả: Trong năm học, bản thân đã áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng dạy và đạt được kết quả với học sinh: - Hứng thú hơn trong học tập. - Làm việc theo nhóm có hiệu quả hơn . - Có tiến bộ học tốt, ngày càng mạnh dạn phát biểu và tự tin hơn. C/ KẾT LUẬN: I.Ý nghĩa: - Với những mô hình hoạt động trên đã giúp học sinh tiếp thu bài tốt, hứng thú trong học tập đạt kết quả cao hơn. - Phát huy tính tích cực của học sinh, các em sẽ tự tin hơn, tạo ra môi trường học tập thân thiện cho học sinh. 6 II. Khả năng áp dụng: Các biện pháp trên thực hiện cho học sinh lớp 4, 5 hoặc cho cả các khối lớp còn lại ở tiểu học (từ lớp 1 đến 5). III. Bài học kinh nghiệm: - Khảo sát chất lượng đầu năm học để đánh giá và phân loại học sinh (Giỏi, khá, TB, yếu) (nếu yếu thì yếu mặt nào hoặc hỏng kiến thức gì thì sẽ điều chỉnh hoặc đề ra giải pháp riêng biệt). - Tìm hiểu về nguyên nhân và gia cảnh từng mỗi cá nhân học sinh (cá biệt, khuyết tật) để đề ra giải pháp một cách phù hợp trong việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm. - Bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ ban cán sự lớp; thông qua đó để hỗ trợ và giúp việc cùng với giáo viên chủ nhiệm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình dạy và học. - Phải xây dựng một lớp học ‘’ Thân thiện, học sinh tích cực ‘’. - Nắm bắt, rà soát nội dung chương trình của khối lớp trên lẫn nội dung giảm tải, . . . - Tìm hiểu đặc điểm tâm – sinh lý học sinh. Chính vì vậy, để tổ chức hướng dẫn thực hiện các hoạt động một cách gây hứng thú cho học sinh, theo tôi người giáo viên cần: Đổi mới nhận thức của thầy và trò và đổi mới phương pháp dạy học. Tăng cường hoạt động trò chơi một cách tích cực hoặc tổ chức nhiều hình thức dạy học có hiệu quả của hoạt động trong nhóm nhằm tạo ra môi trường học tập thân thiện, hứng thú và tích cực cho học sinh. Trên đây là những biện pháp mà trong quá trình giảng dạy tôi đã đúc kết được. Tôi nghĩ rằng việc gây hứng thú học tập cho học sinh đó là điều mà mọi giáo viên đứng lớp đều quan tâm và thực hiện. Với công tâm của một nhà giáo, với lòng yêu nghề mến trẻ thực sự, thì giáo viên chúng ta sẽ làm được những việc nêu trên để gây được sự hứng thú học tập cho học sinh lớp mình trong suốt thời gian giảng dạy của mỗi người. Hội đồng xét duyệt của trường Xếp loại:................................................ An Thạnh, ngày 17 tháng 4 năm 2012 Người viết CTHĐ Nguyễn Thị Phi Loan 7 TÀI LIỆU THAM KHẢO *** 1. Căn cứ vào nội dung chương trình tiểu học, sách giáo khoa – sách giáo viên (lớp 4,5). 2. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu học chu kỳ - NXB GD. 3. Phướng pháp dạy học tiểu học (Chương trình đào tạo từ xa). 4. Những Kỹ năng và lời khuyên thực tế để cải tiến phương pháp giảng dạy. Tác giả: Nguyễn Đào – Quý Châu. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. 8 Đề tài: LÀM THẾ NÀO ĐỂ GÂY SỰ HỨNG THÚ TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH A/ Phần mở đầu: - Người giáo viên với phương pháp dạy và khuyến khích sự phát triển nội lực học sinh sẽ kích thích quá trình lĩnh hội tri thức và phát triển trí tuệ của học sinh cùng với lòng yêu nghề, yêu học sinh. Giáo viên sẽ có khả năng khơi dậy được lòng ham mê học hỏi và thích thú học tập của học sinh. - Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên cần có khả năng hiểu biết về nhiều phương diện của kiến thức, phải có khả năng truyền đạt kiến thức đến học sinh một cách có hiệu quả. Phải tận tâm với nghề, thân mật, gần gũi giúp đỡ học sinh, thúc đẩy tinh thần học tập hăng say đồng thời không ngừng đổi mới, bổ sung, cải tiến và hoàn thiện phương pháp giảng dạy để thích ứng với một nền giáo dục đang thay đổi. - Lớp học có được tổ chức hài hoà, hợp lý kết hợp với sự điều hành linh hoạt thích đáng mới tạo ra cơ hội thuận tiện để học sinh học tâp. Tổ chức lớp học là do sáng kiến của giáo viên nhưng thực hiện là bổn phận, là trách nhiệm của học sinh. Giáo viên nhận định, theo dõi và nhắc nhở thường xuyên để duy trì thái độ học tập tích cực ở học sinh và tạo ra môi trường thật sự hấp dẫn và lôi cuốn học sinh. Có như vậy, học sinh mới cảm thấy thoải mái và tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng.- I. Lý do chọn đề tài: 1) Cơ sở lý luận: - Trong thực tế giảng dạy cho thấy tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức còn thụ động. - Thiếu sự nhiệt tình, tích cực trong hoạt động nhóm. Một vài học sinh có biểu hiện ỷ lại vào các bạn trong nhóm. Chưa mạnh dạn bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân. - Hoạt động trò chơi chưa đưa vào nhiều trong các hoạt động giảng dạy. 2) Thực tiễn: 9 Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh của người giáo viên, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Đó là điều làm tôi phải suy nghĩ để “Làm thế nào gây hứng thú học tập cho học sinh? ” và đây chính là đề tài tôi đã chọn để nghiên cứu. II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu: 1. Mục đích: Đối tượng giảng dạy của chúng ta chính là học sinh tiểu học. Đây là lứa tuổi học sinh chuyển tiếp từ giai đoạn vui chơi sang giai đoạn học tập, khả năng tri giác của các em rất tốt, hứng thú ngày càng bộc lộ và phát triển rõ rệt. Đặc biệt là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung quanh, các em thể hiện tính tò mò, ham hiểu biết. Tuy nhiên sự phát triển hứng thú học tập của học sinh phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức học tập cho học sinh của giáo viên. Chính vì vậy, để tổ chức hướng dẫn thực hiện các hoạt động một cách gây hứng thú cho học sinh. 2. Phương pháp nghiên cứu: - Đổi mới nhận thức của thầy và trò. - Đổi mới phương pháp dạy học. - Tăng cường hoạt động trò chơi một cách tích cực. - Tổ chức nhiều hình thức dạy học có hiệu quả của hoạt động trong nhóm. - Tạo ra môi trường học tập thân thiện, hứng thú và tích cực. III. Giới hạn đề tài: Từ các biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trên, có thể áp dụng cho các lớp ở bậc tiểu học. ( Từ lớp 1 đến lớp 5) B/ Phần nội dung: 1. Cơ sở lý luận: - Phải nhận thức được việc “dạy thật” có nghĩa là dạy học không phải chạy theo thành tích, dạy cho học sinh lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả nhất. Phải dạy theo từng đối tượng học sinh. Ví dụ : Dạy bài toán “Phép chia phân số” (SGK toán 4 trang 135-136) Mục tiêu đặt ra cho từng đối tượng học sinh là: + HS trung bình – yếu : Phải biết viết phân số đảo ngược (BT1) và tính được BT2. 10 + HS khá - giỏi: Đều làm được cả BT3,4. - Giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ cả về giáo án và đồ dùng dạy học. Dự đoán trước những tình huống cụ thể xảy ra và chuẩn bị sẵn một hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức. - Giáo viên cần phải linh động trong việc giảng dạy, chủ động đưa ra kế hoạch giảng dạy nhưng vẫn đảm bảo dạy đủ, dạy đúng kiến thức theo chương trình tiểu học. Biết tích hợp lồng ghép kiến thức một cách có hiệu quả. Ví dụ: Dạy bài: “Luyện tập” (SGK toán lớp 4/143). Giáo viên có thể dạy gộp bài tập 3,4 + Từ bài tập 3 học sinh đã xếp bốn hình tam giác thành một hình thoi. + Thực hành ở bài tập 4 các em đã hình dung được hình từ BT3 và sẽ gấp được tờ giấy có bốn cạnh đều bằng nhau; hai đường chéo vuông góc với nhau và cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường. - Trong tiết dạy, giáo viên nên tổ chức các trò chơi bằng nhiều hình thức: Trắc nghiệm hoặc thi đố - trả lời nhanh, liên hệ thực tế những đồ vật xung quanh (khi dạy bài toán có hình học...) cho cả lớp cùng tham gia. 2. Cơ sở thực tiễn: Phải nhận thức được việc “học thật” nghĩa là phải nhận ra tầm quan trọng ở mỗi môn học là như nhau, không nghĩ rằng có môn chính, môn phụ. Phải có sự chuẩn bị bài vở trước khi đến lớp, biết sưu tầm những hình ảnh, tư liệu có liên quan đến bài học do giáo viên yêu cầu. Ví dụ: Ở bài Đạo đức : Bảo vệ môi trường. Học sinh cần sưu tầm những tranh ảnh (môi trường xanh-sạch-đẹp; môi trường bị ô nhiễm,...) hoặc những hình ảnh có liên quan đến bài học để các em so sánh; biết được những hình ảnh nào ta nên tránh, hình ảnh nào phải thực hiện theo để phòng tránh ô nhiễm. 3. Thực trạng : a) Thuận lợi: - Giáo viên đi sâu, nghiên cứu bài dạy, các hoạt động dạy học kĩ hơn trong quá trình giảng dạy . - Vận dụng nhiều phương pháp giảng dạy tích cực. - Phát huy được tính chủ động, gây được hứng thú học tập cho học sinh. b) Khó khăn 11 - Đòi hỏi giáo viên phải có sự say mê, chịu khó, mất nhiều thời gian đầu tư, suy nghĩ các hoạt động đề ra. - Gặp không ít khó khăn trong việc tìm kiếm tư liệu, đồ dùng phục vụ cho việc giảng dạy. 4. Các biện pháp giải quyết vấn đề: - Không có một phương pháp nào là tối ưu. Bên cạnh những phương pháp dạy học hiện đại: thảo luận, động não, đóng vai… Người thầy cần phát huy những phương pháp dạy học truyền thống: quan sát, hỏi đáp, thực hành, thí nghiệm, thuyết minh… - Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh . - Có nhiều hình thức tổ chức học tập như cá nhân, lớp, nhóm. Tùy theo từng mục tiêu cần đạt được mà giáo viên lựa chọn, phối hợp một cách hợp lí các hình thức học tập. - Tăng cường tổ chức cho học sinh làm việc nhóm (nhóm 2,3,4,...) để học sinh có cơ hội trao đổi bàn bạc. Tuy nhiên, không phải lúc nào học tập nhóm cũng là tốt. Chúng ta chỉ nên cho học sinh làm việc nhóm khi câu hỏi đặt ra khá rộng, khó, cần sự góp ý của nhiều người thì làm việc nhóm mới thật cần thiết và đạt hiệu quả. Ví dụ: Dạy bài khoa học : Sự sinh sản của ếch. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm 4 để vẽ sơ đồ thể hiện chu trình sinh sản của ếch. - Tạo nhóm ngẫu nhiên. Ví dụ: Dạy bài ôn tập số tự nhiên, phân số, số thập phân. Giáo viên phát cho mỗi em một thẻ số (Thẻ phân số, thẻ số thập phân, thẻ số tự nhiên) yêu cầu học sinh di chuyển đến nhóm có thẻ cùng dạng số. - Tổ chức hình thức di chuyển trạm ( 3 đi một ở lại, di chuyển tự do ...) để học sinh được học tập thêm từ các nhóm khác. Ví dụ : Dạy bài Đạo đức: Tìm hiểu về Liên Hợp Quốc. Sau khi học sinh được làm việc nhóm trưng bày những hình ảnh, tư liệu về Liên Hợp Quốc sưu tầm được vào bảng nhóm. Giáo viên tổ chức cho học sinh 3 đi 1 ở lại để học tập thêm từ nhóm khác. Bạn mang thẻ màu đỏ sẽ ở lại giới thiệu thông tin, hình ảnh sưu tầm của nhóm mình cho các bạn nhóm khác nghe. Ba bạn mang thẻ ( trắng, vàng, xanh ) di chuyển sang trạm khác để học tập thông tin mới rồi trở về nhóm kể cho bạn ở lại nghe . - Bên cạnh những lời giảng giải của giáo viên thì đồ dùng trực quan cũng là một phương tiện hỗ trợ hiệu quả giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức. Đồ dùng trực 12 quan phải đảm bảo tính khoa học, tính thẫm mĩ và tính sư phạm thì mới hấp dẫn và mang tính hiệu quả . Ví dụ: Dạy bài “ Phòng bệnh Sốt xuất huyết”. Học sinh được xem một đoạn phim thời sự về thông tin người bệnh sốt xuất huyết và biện pháp phòng bệnh sốt xuất huyết. * Lưu ý: Không nên quá lạm dụng vào đồ dùng dạy học, sử dụng phải đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ, dùng xong giáo viên nên cất ngay để tránh gây mất tập trung cho các em. - Thường xuyên khen học sinh để các em tự tin khi đặt câu hỏi và trả lời. Tránh chê bai hay dùng những từ ngữ nặng nề, khó nghe khiến các em sợ hãi, căng thẳng dẫn đến chán học . - Gây hứng thú học tập ngay từ bắt đầu tiết học. Ví dụ: Giới thiệu bài sự sinh sản của ếch như sau : + Cho học sinh hát bài “Chú ếch con” + Tổ chức cho học sinh thi “ Bắt chước tiếng ếch kêu” + Hỏi: Bạn có biết ếch thường kêu vào mùa nào không? ( Đầu mùa hạ ếch đực thường cất tiếng gọi ếch cái đến để giao phối ). Giáo viên mới giới thiệu và cho các em tìm hiểu bài : Sự sinh sản của ếch . - Tạo không gian lớp học sạch sẽ, thoáng mát, đẹp Ví dụ: Sau khi dạy bài sự sinh sản của thú, học sinh có thể tập hợp hết những bảng dán hình ảnh động vật sưu tầm của học sinh vào một bảng lớn có phân loại động vật sinh sản bằng cách đẻ con, đẻ trứng và treo ở góc học tập của lớp. Nhờ đó học sinh sẽ luôn nhớ bài học mỗi lần nhìn vào góc học tập và lớp học sẽ sinh động, thêm đẹp hơn. - Thỉnh thoảng nên thay đổi không gian trong tiết học. 5. Hiệu quả: Trong năm học, tôi đã áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng dạy và đạt được kết quả với học sinh: - Hứng thú hơn trong học tập. - Làm việc theo nhóm có hiệu quả hơn . - Có tiến bộ học tốt, ngày càng mạnh dạn phát biểu và tự tin hơn. C/ Kết luận: 13 I.Ý nghĩa: - Với những mô hình hoạt động trên đã giúp học sinh tiếp thu bài tốt, hứng thú trong học tập đạt kết quả cao hơn. - Phát huy tính tích cực của học sinh, các em sẽ tự tin hơn, tạo ra môi trường học tập thân thiện cho học sinh. II. Khả năng áp dụng: Các biện pháp trên thực hiện cho học sinh lớp 4,5 hoặc cho cả các khối lớp còn lại ở tiểu học (từ lớp 1 đến 5) III. Bài học kinh nghiệm Trên đây là những biện pháp mà trong quá trình giảng dạy tôi đã đúc kết được. Tôi nghĩ rằng việc gây hứng thú học tập cho học sinh đó là điều mà mọi giáo viên đứng lớp đều quan tâm và thực hiện. Với công tâm của một nhà giáo, với lòng yêu nghề mến trẻ thực sự, thì giáo viên chúng ta sẽ làm được những việc nêu trên để gây được sự hứng thú học tập cho học sinh lớp mình trong suốt thời gian giảng dạy của mỗi người. Hội đồng xét duyệt của trường An Thạnh ngày 17 tháng 4 năm 2012 Xếp loại:............................... Người viết CTHĐ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan