LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta sau nhiều năm chìm trong cơ chế tập trung quan liêu bao
cấo đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp
nói riêng. Nền kinh tế đó tất yếu gây lãng phí nghiêm trọng dẫn đến hậu quả khủng
hoảng kinh tế xã hội mà muốn vượt qua phải đổi mới nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường các doanh nghiệp muốn phát triển tốt phải tính đến hậu quả. Nói cách khác
để tồn tại và phát triển nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế thị trường thì
các doanh nghiệp phải chú trọng tới mục tiêu lợi nhuận, là mục tiêu kinh tế hàng
đầu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Với suy nghĩ trên trong thời gian thực tập tại Trung tân TM Dược Mỹ phẩm
- Hà Nội tôi đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề nâng cao lợi nhuận của xí nghiệp và
đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là : "Biện pháp tăng lợi nhuận ở Trung tâm TM
dƣợc phẩm - Hà Nội "
Nội dung đề tài gồm 3 phần :
Phần thứ nhất : Những vấn đề lý luận cơ bản về lợi nhuận trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp
Phần thứ hai : thực trạng lợi nhuận ở trung tâm TM Dược phẩm - Hà nội
Phần thứ ba : Biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở trung tâm TM Dược
phẩm - Hà nội
Trang 1
PHẦN THỨ NHẤT :
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I. LỢI NHUẬNCỦA DOANH NGHIỆP :
1. Các quan điểm về lợi nhuận :
Từ trước tới nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về lợi nhuận. Ta có
thể thấy được điều này qua các quan điểm về lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ với chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Việc tính toán
thu nhập hay chi phí đã chi ra là theo giá cả của thị trường mà giá cả thị trường do
quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ quyết định.
+ Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động KD, là chỉ tiêu
chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động KD của doanh
nghiệp.
+ Thu nhập của doanh nghiệp hay chính là doan thu bán hàng hoá và dịch vụ
trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất ( chi phí về tiền thuê lao động, tiền lương, tiền thuê
nhà cửa, tiền mua vật tư ... ) thuế hàng hoá và các thứ thuế khác hầu như còn lại
được gọi là lợi nhuận. Có thể biểu diễn qua biểu sau :
Biểu 1 : Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, thuế và lợi nhuận.
Doanh thu bán hàng và dịch vụ
Trang 2
Chi phí biến đổi
Lãi gộp
Chi phí biến đổi
Chi phí cố định
Tổng chi phí sản xuất
Lợi nhuận trước thuế
Thuế
Lợi
nhuận
thuần túy
1. Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp :
Trong doanh nghiệp, có nhiều loại hình lợi nhuận khác nhau, ta có thể khái
quát thành các loại lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận trước thuế.
+ Lợi nhuận sau thuế.
II: CÁC NGUỒN LỢI NHUẬN
Nội dung hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong phú và đa
dạng, do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
cũng hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Thứ nhất : Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ là
khoản chênh lệch giữa doanh thu về tiêu thụ và chi phí của khối lượng sản phẩm
hàng hoá lao vụ thuộc các hoạt động kinh doanh chính phụ của doanh nghiệp.
Thứ hai : Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh liên kết là số chênh lệch
giữa thu nhập phân chia từ kết qủa hoạt động liên doanh liên kết với chi phí của
doanh nghiệp đã chi ra để tham gia liên doanh.
Thứ ba : Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ tài chính là chênh lệch giữa
các khoản thu chi thuộc các nghiệp vụ tài chính trong quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư : Lợi nhuận do các hoạt động sản xuất kinh doanh khác mang lại là
lợi nhuận thu được do kết quả của hoạt động kinh tế khác ngoài các hoạt động kinh
tế trên.
Trang 3
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất
kỳ một doanh nghiệp nào. Vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị
trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là
doanh nghiệp đó phải tạo ra lợi nhuận. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong
những đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của
doanh nghiệp. Việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm
bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc.
Lợi nhuận của quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công ng hiệp là chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình kinh
doanh, của tất cả các mặt hoạt động trong quá trình kinh doanh ấy, nó phản ánh cả
về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh, của hoạt động kinh doanh.
Công việc kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận nhiều từ đó lợi nhuận có khả năng
tiếp tục quá trình kinh doanh có chất lượng và hiệu quả hơn. Trong trường hợp
ngược lại doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ nếu kéo dài có thể
dẫn đến phá sản.
III. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA DOANH
NGHIỆP
Trong trường hợp các nhân tố khác không biến động ( nhân tố về giá cả, giá
thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu thụ, thuế ...) thì sản lượng tiêu thụ
tăng giảm bao nhiêu lần tổng số lợi nhuận tiêu thụ cũng tăng giảm bấy nhiêu. Nhân
tố này được coi là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp trong công tác quản lý kinh
doan nói chung và quản lý tiêu thụ nói riêng. Việc tăng sản lượng tiêu thụ phản
ánh kết quả tích cực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu chuẩn bị tiêu thụ
và tiêu thụ sản phẩm.
*. Nhân tố kết cấu mặt hàng tiêu thụ :
Trang 4
Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ có liên quan đến việc xác định chính
sách sản phẩm, cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp. Mỗi loại mặt hàng có tỷ trọng
mức lãi lỗ khác nhau do đó nếu tăng tỷ trọng những mặt hàng có mức lãi cao, giảm
tỷ trọng tiêu thụ những mặt hàng có mức lãi thấp thì mặc dù tổng sản lượng tiêu
thụ có thể không đổi nhưng tổng số lợi nhuận có thể vẫn tăng.
Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ lại chịu ảnh hưởng của nhu cầu thị
trường. Về ý muốn chủ quan thì doanh nghiệp nào cũng muốn tiêu thụ nhiều
những mặt hàng mang lại lợi nhuạan cao song ý muốn đó phải đặt trong mối quan
hệ cung cầu trên thị trường và những nhân tố khách quan tác động.
*. Nhân tố giá bán sản phẩm :
Trong điều kiện bình thường đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
bình thường, giá bán sản phẩm do doanh nghiệp xác định. Trong trường hợp này
giá bán sản phẩm thay đổi thường do chất lượng sản phẩm thay đổi. Do việc thay
đổi này mang tính chất chủ quan, tức là phản ánh kết quả chủ quan của doanh
nghiệp trong quản lý sản xuất kinh doanh nói chung và quản lý chất lượng nói
riêng. Khi giá bán sản phẩm tăng sẽ làm tổng số lợi nhuận tiêu thụ. Từ phân cáchg
trên có thể suy ra rằng việc cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ
bản để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác việc thay đổi giá bán cũng do
tác động của quan hệ cung cầu, của cạnh tranh ... đây là tác động của yếu tố khách
quan.
*. Nhân tố giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ :
Giá thành toàn bộ sản phẩm là tập hợp toàn bộ các khoản mục chi phí mà
doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giá thành sản phẩm
cao hay thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng lao động, vật tư kỹ thuật,
tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như sản lượng
sản xuất, giá cả, mức thuế không thay đổi thì việc giảm giá thành sẽ là nhân tố tích
cực ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trang 5
*. Nhân tố thuế nộp ngân sách :
Ảnh hưởng của thuế đối với lợi nhuận là không theo cùng một tỷ lệ. Việc
tăng giảm thuế là do yếu tố khách quan quyết định ( chính sách, luật định của nhà
nước ). Với mức thuế càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng giảm nhưng
doanh nghiệp vẫn phải có nghĩa vụ đóng thuế đầy đủ cho nhà nước.
*. Chế độ phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp :
Lợi nhuận tạo ra sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh một phần được trích
nộp vào ngân sách nhà nước, một phần để lại doanh nghiệp.
Phần trích nộp vào ngân sách nhà nước biểu hiện ở hình thức nộp thuế lợi tức
đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào ( tỷ lệ nộp thuế lợi tức đối với các doanh
nghiệp sản xuất thường nlà 25% và 45% đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ.
Phần để lại doanh nghiệp được trích vào 3 qũy đó là qũy khuyến khích phát
triển sản xuất, qũy phúc lợi và qũy khen thưởng theo các tỷ lệ sau :
Qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh > 35%.
Qũy phúc lợi và khen thưởng < 65%.
Việc trích lợi nhuận vào qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh
giúp cho doanh nghiệp có tích lũy tạo khả năng tái sản xuất mở rộng nhằm phát
triển quy mô sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có khả năng
đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng
cạnh tranh ... từ đó có điều kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn, đạt lợi nhuận
cao hơn.
Còn phần trích vào qũy phúc lợi và qũy khen thưởng nhằm mục tiêu tạo ra
công cụ khuyến khích người lao động không ngừng nâng cao tay nghề và trình độ,
tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống của người
lao động, là động lực giúp cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp hơn.
Trang 6
IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA DOANH
NGHIỆP VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC NÂNG CAO LỢI NHUẬN CỦA
DOANH NGHIỆP :
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả
các mặt hàng hoạt động kinh doanh. Dưới đây ta đi sâu vào xem xét cụ thể từng
nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
1.1 Quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường :
Do tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo nguồn cơ chế thị trường nên
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố quan hệ cung - cầu hàng hoá
dịch vụ. Sự biến động này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự ứng xử thích hợp để thu được lợi
nhuận. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn trên thị trường sẽ cho phép các doanh
nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh để đảm bảo cung lớn. Điều đó tạo khả năng
lợi nhuận của từng đơn vị sản phẩm hàng hoá, nhưng đặc biệt quan trọng là tăng
tổng số lợi nhuận. Cung thấp hơn cầu sẽ có khả năng định giá bán hàng hoá và
dịch vụ, ngược lại cung cao hơn cầu thì giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ thấp điều
này ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng sản phẩm hàng hoá hay tổng số lợi nhuận
thu được.
Trong kinh doanh các doanh nghiệp coi trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá
tiêu thụ, còn giá cả có thể chấp nhận ở mức hợp lý để có lãi cho cả doanh nghiệp
Trang 7
công nghiệp và doanh nghiệp thương mại, khuyến khích khách hàng có thể mua
với khối lượng lớn nhất để có tổng mức lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy các doanh
nghiệp phải tìm các biện pháp kích thích cầu hàng hoá và dịch vụ của mình, nhất là
cầu có khả năng thanh toán bằng cách nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ,
cải tiến phương thức bán ...
1.2 Chất lượng công tác chuẩn bị cho quá trình kinh doanh :
Để cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đạt tới lợi
nhuận nhiều và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị tốt các
điều kiện, các yếu tố chi phí thấp nhất. Các đầu vào được lựa chọn tối ưu sẽ tạo
khả năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí hoạt
động và giá thành sản phẩm giảm. Do đó cơ sở để tăng lợi nhuận cho các doanh
nghiệp công nghiệp là chuẩn bị các đầu vào hợp lý, tiết kiệm tạo khả năng tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Nội dung của công tác chuẩn bị cho quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc
vào nhiệm vụ, tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trước hết đó là chuẩn bị tốt về khâu thiết kế sản phẩm và công nghệ sản
xuất. Thiết kế sản phẩm và công nghệ chế tạo hợp lý sẽ tạo điều kiện giảm thời
gian chế tạo, hạ giá thành, tạo lợi nhuận cho quá trình tiêu thụ.
Tiếp đó là chuẩn bị tốt các yếu tố vật chất cần thiết cho quá trình hoạt động
như lao động ( số lượng, chất lượng, cơ cấu ) máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất
được thuận lợi, nhịp nhàng và liên tục giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Cuối cùng là doanh nghiệp phải có phương án hợp lý về tổ chức điều hành
quá trình sản xuất ( tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý ).
1.3 Nhân tố về trình độ tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm :
Trang 8
Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và dịch vụ là quá trình thực
hiện sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào như lao động, vật tư, kỹ thuật ... để
chế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Qúa trình này tiến hành tốt hay xấu ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tạo ra số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chất lượng
sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chi phí sử dụng các yêu tố để sản xuất ra sản phẩm
hàng hoá dịch vụ đó.
Điều đó chứng tỏ rằng muốn tạo ra lợi nhuận cao cần phải có trình độ tổ chức
sản xuất sao cho tiết kiệm được chi phí ở mức tối đa mà không ảnh hưởng đến chất
lượng của sản phẩm tiêu thụ.
1.4 Nhân tố trình độ tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ :
Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo
quyết định tối ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo sẽ là phải tổ chức bán nhanh, bán
hết, bán với giá cao những hàng hoá và dịch vụ đó để thu được tiền về cho quá
trình tái sản xuất mở rộng tiếp theo.
Lợi nhuận của quá trình hoạt động kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi
thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Do đó tổ chức tiêu
thụ khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta khả
năng lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này doanh nghiệp phải nâng cao chất
lượng các mặt hàng hoạt động về tổ chức mạng lưới kênh tiêu thụ sản phẩm, công
tác quảng cáo marketing, các phương thức bán và dịch vụ sau bán hàng.
1.5 Trình độ tổ chức và quản lý quá trình kinh doanh của doanh nghiệp :
Tổ chức quản lý quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là
một nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá
trình quản lý kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp bao gồm các khâu cơ bản
như định hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh
doanh, xây dựng các phương án kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các
hoạt động kinh doanh. Các khâu quản lý quá trình hoạt động kinh doanh tốt sẽ tăng
Trang 9
sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi chí
quản lý. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp qua phân tích ở trên
phải chính do doanh nghiệp khắc phục bằng chính ý chí chủ quan muốn đạt được
lợi nhuận cao của mình. Ngoài ra còn có những nhân tố ảnh hưởng khách quan từ
phía bên ngoài môi trường kinh doanh đó là nhân tố chính sách kinh tế vĩ mô của
nhà nước.
1.6 Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước :
Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân, hoạt động của nó
ngoài việc bị chi phối bởi các quy luật của thị trường nó còn bị chi phối bởi những
chính sách kinh tế của nhà nước ( chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính
sách tỷ giá hối đoái ... )
Trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước cần nghiên cứu
kỹ các nhân tố này. Vì như chính sách tài khoá thay đổi tức là mức thuế thay đổi sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, hoặc khi chính sách tiền tệ
thay đổi có thể là mức lãi giảm đi hay tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay
vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh
nghiệp công nghiệp. Các nhân tố này được tiếp cận theo quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp, chúng có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Việc nghiên cứu các nhân
tố này cho phép xác định các yêu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định các biện pháp nâng cao lợi nhuận
của doanh nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
V. CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM TĂNG LỢI NHUẬN TRONG
DOANH NGHIỆP
Trang 10
Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận ở phần trên
ta có thể đưa ra một số biện pháp chính nhằm tăng lợi nhuận trong các doanh
nghiệp như sau :
2.1 Tăng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu trong nước và quốc tế
trên cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ .
Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng hay của thị trường rất đa dạng và
phong phú, dễ biến động. Trong điều kiện các nhân tố khác ổn định thì việc tăng
lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu thị trường sẽ làm tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp. Muốn tăng được khối lượng sản phẩm tiêu thụ cần chuẩn bị tốt
các yếu tố và điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành
thuận lợi, tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh một cách cân đối nhịp nhàng
và liên tục, khuyến khích người lao động tăng nhanh năng suất lao động.
Phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ : Nhu cầu thị
trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, phấn
đấu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm tiêu thụ là điều kiện
để tăng nhanh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó giúp tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Đối với những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao cho ta khả
năng nâng cao giá trị và giá trị sử dụng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Nhưng để nâng cao được chất lượng sản phẩm đòi hỏi bản thân doanh
nghiệp phải nỗ lực cố gắng.
2.2 Tăng cường tiêu thụ những sản phẩm có tỷ trọng lợi nhuận cao :
Mỗi doanh nghiệp thu được những nguồn lợi nhuận khác nhau từ những mặt
hàng tiêu thụ khác nhau. Đối với những mặt hàng tiêu thụ có tỷ trọng lợi nhuận lớn
doanh nghiệp phải phấn đấu tăng lượng tiêu thụ và chú trọng vào sản xuất mặt
hàng đó nhiều hơn. Trong điều kiện cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp
phải sản xuất kinh doanh theo kiểu tổng hợp do vậy mà cơ cấu mặt hàng rất đa
dạng và phong phú. Có thể có mặt hàng không có lãi hay lãi thấp, có mặt hàng có
Trang 11
lãi cao vậy để tăng lợi nhuận doanh nghiệp nên chú trọng việc tăng mặt hàng thu
được lợi nhuận cao.
2.3 Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và các chi phí khác nhằm tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp :
Đây là nhân tố quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, giá thành là
tổng hợp của nhiều nhân tố chi phí tạo nên trong đó bao gồm các chi phí chính như
: Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng thứ nữa là các chi phí tiền lương,
tiền công và cuối cùng là chi phí cố định ( thể hiện qua việc khấu hao tài sản cố
định hàng năm được tính vào giá thành ) do vậy để hạ giá thành sản phẩm cần phải
giảm các nhân tố chi phí trên :
- Biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng : Cần phải cải tiến định
mức tiêu hao, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, vật
liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản
và tiết kiệm nguyên vật liệu.
Ảnh hưởng của biện pháp này đến việc hạ giá thành sản phẩm được tính theo
công thức :
Chỉ số hạ giá
thành
do
giảm chi phí
=
Chỉ số định
mức NVL
Chỉ số tỷ trọng
Chỉ
x
NVL
số
giácả
-1
x
NVL trong giá
thành
sản
phẩm
- Biện pháp giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm :
Muốn giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm cần
tăng nhanh năng suất lao động bằng cách cải tiến công tác tổ chức sản xuất, tổ
chức lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp, nâng cao trình
độ người lao động, có chế độ khuyến khích người lao động thích hợp bằng cách áp
dụng hình thức lương hưởng đúng mức.
Trang 12
Năng suất lao động tăng nhanh hơn chi phí về tiền lương bình quân sẽ cho
phép giảm chi phí trong giá thành sản phẩm. Do đó khoản mục chi phí và tiền công
trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong giá thành
sản phẩm.
Ảnh hưởng của việc giảm chi phí tiền lương sẽ được tính toán theo công thức
:
Chỉ
số
lương
Chỉ số hạ giá thành
bình
quân
-
sản phẩm do tăng =
năng suất lao động
tiền
Chỉ
số
1
tăng x
Chỉ số chi phí tiền
lương trong giá thành
sản phẩm
năng suất lao
động
- Biện pháp giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm : Giảm chi phí cố
định ở đây không có nghĩa là phải đầu tư những công nghệ rẻ tiền, cũ kỹ mà phải
sử dụng những công nghệ tiên tiến nhằm tăng lượng sản phẩm sản xuất ra. Tốc độ
tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong giá thành sản phẩm giảm
vì tốc độ tăng chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng sản phẩm. Như vậy để tăng lượng sản
phẩm sản xuất, phải mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động.
Ảnh hưởng của biện pháp này được xác định theo công thức :
Chỉ số chi phí
Chỉ số giảm giá
cố định
thành do giảm chi =
phí cố định
Chỉ
số
sản x
1
Chỉ số chi phí cố định
trong giá thành sản
phẩm
lượng
Trên cơ sở tính toán được ảnh hưởng của các nhân tố trong giá thành sản
phẩm ta phải kết hợp các nhân tố để làm sao giảm được các chi phí ở mức tối ưu (
không nhất thiết là giảm càng nhiều càng tốt như vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng
sản phẩm ).
Trang 13
2.4 Tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhằm giảm chi
phí tiêu thụ :
Để thấy được hiệu quả rõ rệt của hoạt động kinh doanh thì nhất thiết phải làm
tốt khâu tiêu thụ sản phẩm. Dù cho sản phẩm có chất lượng tốt như thế nào, công
tác sản xuất có hiệu quả đến mấy mà sản phẩm không tiêu thụ được thì sẽ không
có lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này cần có những biện pháp xúc tiến bán
hàng như quảng cao, khuyến mại ... các kênh tiêu thụ phân phối hợp lý, làm tốt
công tác dịch vụ sau bán hàng.
VI. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO LỢI NHUẬN CỦA DOANH
NGHIỆP:
1 Vai trò của nâng cao lợi nhuận với sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp :
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường điều đầu tiên
mà họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
hiệu quả của quá trình kinh doanh, đồng thời đó còn là yếu tố sống còn của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và hoạt động khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh
nghiệp hoạt động không có hiệu quả thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì
doanh nghiệp đó đi đến chỗ phá sản. Từ trước đến nay nước ra có hàng loạt các xí
nghiệp, doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể do làm ăn không có hiệu quả, trong đó
có cả xí nghiệp nhà nước, tư nhân ... Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh
diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng
và có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp.
- Tạo ra khả năng để tiếp tục kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao hơn.
- Đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
- Việc không ngừng nâng cao lợi nhuận là đảm bảo hiệu quả kinh doanh thể
hiện năng lực, trình độ quản lý sản xuất và sự năng động của đội ngũ cán bộ quản
Trang 14
lý sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ
chế thị trường, một doanh nghiệp tạo được lợi nhuận chứng tỏ là đã thích nghi với
cơ chế thị trường.
- Lợi nhuận càng cao thể hiện sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp càng
vững chắc, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện đầu tư chiều sâu
và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, tăng
khả năng cạnh trạnh ... từ đây là tạo đà nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao sẽ có điều kiện nâng
cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động. Ngoài phần tiền công mà mỗi lao
động nhận được theo nguyên tắc phân phối theo lao động , lợi nhuận của doanh
nghiệp còn góp phần nâng cao thu nhập của người lao động thông qua phần phối
phối vào qũy phúc lợi và qũy khen thưởng. Chính yếu tố kinh tế đó sẽ tạo nên sự
gắn bó của cán bộ công nhân với doanh nghiệp.
- Lợi nhuận là điều kiện tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm với xã hội. Thông qua việc nộp ngân sách đầy đủ sẽ giúp cho nhà nước thực
hiện công tác phúc lợi đối với xã hội, đất nước ... tạo điều kiện cho đất nước phát
triển, thực hiện tốt chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì mỗi
doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân nên bản thân doanh nghiệp
hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế trong nước mới phát triển.
2.2 Đối với nhà nước :
Khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt được lợi
nhuận cao thì Nhà nước cũng có lợi :
- Tăng nhiều sản phẩm cho xã hội.
- Chất lượng tăng, giá bán hạ làm ổn định nền kinh tế.
- Tăng nguồn thu cho ngân sách.
- Tạo điều kiện cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân.
Trang 15
- Đảm bảo tăng trưởng kinh tế
Trang 16
II .PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LỢI NHUẬN CỦA TRUNG TÂM
THƢƠNG MẠI DƢỢC MỸ PHẨM
==========================
2.1. Khái quát về tình hình trung tâm
2.3.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÌNH HÌNH CỦA TRUNG TÂM DỊCH VỤ THƢƠNG
MẠI DƢỢC MỸ PHẨM - TỔNG CÔNG TY DƢỢC VIỆT NAM.
2.3.1.1. Đặc điểm tổ chức kinh doanh của trung tâm :
Trung tâm được cấp đăng ký kinh doanh ngày 23/10/1996. Số đăng ký kinh doanh
là : 111336 do Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội cấp.
2.3.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp :
Tên doanh nghiệp : Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm - Tổng Công ty
Dược Việt Nam.
Trụ sở chính : Số 95 - phố Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội.
Trung tâm dịch vụ Thương mại Dược mỹ phẩm thuộc Tổng Công ty Dược Việt
Nam được thành lập năm 1992 với tên gọi là Trung tâm hỗ trợ và phát triển Dược.
Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm được thành lập theo quyết định số
46b/BYT-QĐ ngày 30/3/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Căn cứ vào quyết định số 1693/BYT-QĐ ngày 28/9/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế
v/v phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Dược Việt Nam.
Căn cứ công văn số 3540/TCCB ngày 28/5/1997 của Bộ Y tế đồng ý cho Tổng
Công ty Dược Việt Nam thành lập Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm.
Theo đề nghị của ông trưởng phòng tổ chức - LDTL Tổng Công ty Dược Việt
Nam: Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm là đơn vị hạch toán phụ thuộc
trực tiếp Tổng Công ty Dược Việt Nam, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và
được mở tài khoản chuyên thu, chuyên chi tại ngân hàng quận Đống Đa theo đúng
các chế độ quy định hiện hành của Nhà nước.
Trang 17
Công ty ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển dần từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong sự thay đổi của nền kinh tế đất nước, việc sản xuất và kinh doanh
Dược - Mỹ phẩm đã có những thay đổi phù hợp với thị trường, Công ty đã trở
thành nơi kinh doanh các mặt hàng do các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty sản
xuất của các doanh nghiệp ngày càng có hiệu quả. Các mặt hàng trung tâm kinh
doanh ngày càng phong phú hơn, đáp ứng ngày càng cao về chủng loại và chất
lượng. Trong quá trình kinh doanh sự thay đổi, bổ sung các mặt hàng được tiến
hành theo nhu cầu của thị trường.
2.3.1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ
phẩm - Tổng Công ty Dược Việt Nam.
Theo đúng đăng ký kinh doanh Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm thì
Công ty có những chức năng, nhiệm vụ sau :
+ Kinh doanh đại lý các sản phẩm thuốc chữa bệnh (thuốc chuyên khoa, biệt dược,
thuốc y học dân tộc...) dược liệu, tinh dầu, hương liệu, phụ liệu, mỹ phẩm, dụng cụ
y tế, kính mắt, thực phẩm sinh dưỡng.
+ Dịch vụ tư vấn về tiếp cận thị trường, thông tin, quảng cáo, hội thảo, hội chợ
triển lãm, chu chuyển kho bãi đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
+ Trung tâm chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc, đồng thời chịu sự chỉ
đạo về nghiệp vụ chuyên môn của các phòng ban, văn phòng Tổng Công ty Dược
Việt Nam nhằm thực hiện đúng chế độ quy định của Nhà nước.
+ Trung tâm đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký, chịu
trách nhiệm trước Tổng giám đốc về kết quả hoạt động của trung tâm.
+ Chịu trách nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ do
Trung tâm thực hiện.
+ Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩmvới chức năng kinh doanh dược
phẩm, nguyên liệu làm thuốc và thiết bị dụng cụ y tế, được phép liên kết với các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để nhập và bán các mặt hàng dược
Trang 18
phẩm, mỹ phẩm, nguyên liệu, dụng cụ thiết bị y tế sản xuất trong nước và nhập
khẩu đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam và các tiêu chuẩn khác.
+ Trung tâm có nhiệm vụ phân phối các sản phẩm và tung các mặt hàng ra thị
trường cả nước, cộng tác trao đổi đầu tư vốn và mở rộng thị trường nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường đảm bảo kinh doanh theo đúng các chế độ của
Nhà nước, chấp hành đầy đủ nghĩa vụ giao nộp ngân sách về thuế, đảm bảo thu
nhập cho người lao động, đảm bảo công bằng xã hội và các quyền lợi khác như
phúc lợi, bảo hiểm cho cán bộ công nhân viên của Trung tâm, đảm bảo hình thành
ba lợi ích: với Nhà nước, tập thể và người lao động.
+ Thực hiện tốt công tác bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản và trật tự trị an tại Trung
tâm.
+ Thực hiện các chế độ báo cáo thống kê, kế toán, hạch toán, báo cáo định kỳ và
báo cáo bất thường theo yêu cầu của cấp trên và của Tổng Công ty.
2.3.1.1.3. Đặc điểm kinh doanh của Trung tâm:
Ngày 23/10/1996 Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm đã trở thành một
doanh nghiệp Nhà nước theo đúng nghĩa của nó nhưng trong hoạt động kinh
doanh, Công ty phải tuân thủ theo các quy định Nhà nước và Tổng Công ty Dược
những quy định này đã làm cho mô hình kinh doanh như một doanh nghiệp thương
mại của Công ty có những đặc điểm:
Về địa bàn kinh doanh Công ty tập trung chủ yếu bán buôn thuốc cho các bệnh
viện trong Hà Nội và các tỉnh phía Bắc và phát triển trên địa bàn các tỉnh Vĩnh
Long, Trà Vinh, Bến Tre, Đà Nẵng, Đồng Tháp ...
Trung tâm hoạt động với công nghệ bán hàng truyền thống vì tính đặc biệt của mặt
hàng thuốc, mỹ phẩm nên đòi hỏi nhân viên bán hàng phải là người có bằng cấp về
dược, họ phải hướng dẫn cho khách hàng cách sử dụng, liều lượng ... họ phải làm
từ A - Z.
Về địa điểm kinh doanh vì kinh doanh mặt hàng thuốc, mỹ phẩm không như các
mặt hàng khác nên tại Công ty là nơi giao nhau giữa được Láng Hạ và Thái Thịnh,
một vị trí thuận lợi cho kinh doanh, ngoài ra Trung tâm có các quầy thuốc bán
Trang 19
buôn, bán lẻ và các quầy bán tại Trung tâm triển lãm Giảng Võ cùng nhiều địa
điểm khác.
Về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của Trung tâm tương đối đầy đủ, phục vụ cho
các quầy hàng có điều kiện đảm bảo trong kinh doanh, và phù hợp với tính chất
đặc biệt của các mặt hàng thuốc, mỹ phẩm có kho bãi lưu giữ hàng hoá một cách
đảm bảo an toàn.
Qua trên ta thấy Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm là đơn vị thành
viên thuộc Tổng Công ty Dược Việt Nam, Trung tâm đã nhập hàng của các xí
nghiệp, Công ty đã sản xuất để tiêu thụ tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ
Tổng Công ty tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Nhà nước, các Công ty TNHH
tiếp cận thị trường và phát triển hàng trên thị trường.
2.3.1.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy và lao động:
Chúng ta có thể xem xét cơ cấu tổ chức của Công ty Thương mại Dược mỹ phẩm
qua sơ đồ sau
Trang 20
- Xem thêm -