PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp là hoạt động bình thường của tất cả mọi người.
Trong giao tiếp, hội thoại chiếm tỉ lệ thời gian rất lớn. Nhiều việc đạt kết quả hay
thất bại phụ thuộc vào kinh nghiệm tham gia hội thoại của từng người. Hội thoại có
vị trí quan trọng như thế nên ngay từ nhỏ, học sinh đã cần phải tham gia vào các
cuộc hội thoại và hiểu biết thêm về hội thoại. Tuy nhiên, trong thực tế, học sinh ít
được rèn luyện về kĩ năng hội thoại. Lâu nay, các chương trình học tập cũng đang
nghiên cứu và đưa ra các bài tập về hội thoại, nhưng kết quả thu được chưa cao.
Tại các nhà trường Tiểu học hiện nay, ở một số trường cũng đã quan tâm và đưa
hội thoại vào như một trong những mục tiêu chính của môn học.
Ở Việt Nam, chỉ từ cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, hội thoại mới
được đưa vào chương trình môn Tiếng Việt, được dạy thử nghiệm rồi dạy chính
thức ở các lớp học. Tuy nhiên, hiểu biết của giáo viên về hội thoại còn ít ỏi, sơ
lược, nên nhiều giáo viên còn rất khó khăn khi dạy hội thoại cho học sinh.
Chính vì những lí do trên nên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng
hội thoại ở phân môn tập làm văn lớp 3 trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học”.
Đề tài nhằm tìm hiểu các bài tập mà sách giáo khoa lớp 3 đưa ra về dạy hội thoại,
qua đó rút ra một số lưu ý trong phương pháp giảng dạy cho phù hợp từng dạng
bài.
2. Giả thuyết khoa học
Dạy hội thoại là một mảng kiến thức mới, có ít người tìm hiểu và đi sâu vào nó.
Chính vì thế, đề tài này sẽ giúp cho những giáo viên thêm hiểu hơn về hội thoại nói
chung, và phương pháp dạy hội thoại nói riêng, từ đó có cách dạy cho phù hợp với
đối tượng học sinh của mình.
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1Hội thoại
1.1.1 Hội thoại là gì?
Ngôn ngữ là công cụ để con người giao tiếp với nhau. Khi tham gia vào giao
tiếp, ngôn ngữ tồn tại dưới 2 dạng: dạng nói và dạng viết.
Khi ngôn ngữ tồn tại ở dạng nói, tức là ngôn ngữ được con người sử dụng
trong hoạt động nói năng, thì khi đó con người đang thực hiện một hoạt động, gọi
là hoạt động giao tiếp.
Như vậy, hội thoại là: hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân
vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích đặt ra.
Tuy nhiên trong những năm nay, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ
thông tin, công nghệ truyền thông nên điện thoại di động rồi internet phát triển rất
mạnh mẽ. Con người có thể nói chuyện với nhau mà không phải mặt đối mặt(qua
điện thoại), hay có thể đối thoại qua việc nhắn tin trên điện thoại mà cũng không
cần phải ở gần nhau, hay không cần phải dùng đến lời nói mà vẫn đảm bảo nội
dung cuộc thoại và các nhân tố như một cuộc đối thoại thông thường.
Như vậy, ngày nay, có thể đi đến câu trả lời toàn diện cho câu hỏi “hội thoại là gì?”
Vậy: hội thoại là cuộc giao tiếp bằng lời (ở dạng nói hay dạng viết) tối thiểu
giữa hai nhân vật về một vấn đề nhằm đạt được đích đã đặt ra.
1.1.2 Hội thoại và độc thoại
+ Sự giống nhau:
- Phải có vấn đề đặt ra để giao tiếp
- Phải có đích giao tiếp
- Tiến hành trong một hoàn cảnh không gian và thời gian nhất định
- Sử dụng ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp.
+ Sự khác nhau:
Độc thoại
Chỉ có 1 nhân vật tham gia giao tiếp
Hội thoại
Có từ hai nhân vật giao tiếp trở lên
2
Nói với một hay nhiều người nghe và Có lời trao – lời đáp theo luân phiên
không cần đáp lại.
lượt- lời. Bao giờ cũng có người nói
Hoặc là lời người nói tự nói với mình
– người nghe và có sự luân phiên đổi
vai.
Triển khai nội dung theo đích mà
Triển khai nội dung theo hoàn cảnh
người nói vạch sẵn
cụ thể phù hợp với lời đáp.
1.1.3 Vị trí của hội thoại trong đời sống văn chương và trong nhà trường
Hội thoại có vai trò quan trọng trong đời sống. Trong một ngày, một tháng, một
năm, một đời người, thời gian dành cho hội thoại rất lớn, lớn hơn thời gian dành
cho đọc thoại nhiều lần. Con người chủ yếu giao tiếp với nhau bằng hội thoại.
Ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong hội thoại. Giáo sư Đỗ Hữu Châu khẳng
định: “ hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó
cũng là hình thức cơ sở của mội hoạt động ngôn ngữ khác...”
Trong văn chương, hội thoại cũng chiếm vị trí quan trọng. Các nhân vật trò
chuyện, trao đổi với nhau tạo nên nhiều cuộc hội thoại khác nhau trong dòng diễn
biến của cốt truyện. Các cuộc hội thoại góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, bộc lộ
mâu thuẫn, thúc đẩy sự phát triển của tình tiết truyện, của các tính cách nhân vật.
Có thể nói hội thoại có vị trí vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong văn
chương, thế nhưng trong một thời gian dài nó không được các nhà nghiên cứu quan
tâm. Người ta cứ nghĩ, trẻ dùng được tiếng mẹ đẻ thì đương nhiên đã biết nói và
nghe, đã biết hội thoại. Vì thế nhà trường nên tập trung dạy đọc , viết, dạy độc
thoại. Đó là một quan điểm phiến diện. Từ lâu ông cha ta đã dạy: học ăn, học nói,
học gói, học mở. Ăn cũng phải học vì có dăm bảy cách ăn. Có cách ăn của người
3
văn minh, có cách ăn của phàm phu tục tử. Nói càng phải học vì có nhiều cách nói.
Có cách nói có văn hóa, lịch sự, có cách nói thô lỗ, lỗ mãng, dung tục. Học nói là
học tự phát âm, đến ngữ điệu, giọng điệu. Học cả độc thoại và hội thoại. Việc đưa
hội thoại vào nhà trường đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong nội dung cũng
như phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ và dạy ngoại ngữ. Chương trình dạy tiếng mẹ đẻ
và dạy ngoại ngữ trên thế giới ngày càng chú ý dạy hội thoại, nhờ vậy, học sinh
giao tiếp ngày càng linh hoạt sinh động.
Ở Việt Nam, chương trình tiếng Việt ở Tiểu học ban hành năm 2001 đưa việc
học hội thoại thành một nội dung quan trọng. Chương trình ban hành năm 2006
tiếp tục khẳng định phương hướng trên. Sách tiếng Việt đầu thế kỉ XXI đã có nhiều
loại bài tập và bài học dạy hội thoại. Đó là bước tiến mới trong lịch sử dạy tiếng
Việt.
1.2 Bản chất của hội thoại
Hội thoại là một hiện tượng giao tiếp bằng ngôn ngữ hay một hiện tượng xã
hội? Có thể khẳng định ngay: hội thoại vừa là một hiện tượng giao tiếp bằng ngôn
ngữ, vừa là một hiện tượng xã hội. Cả hai bản chất đó đều bộc lộ và chi phối các
hoạt động hội thoại.
Nói hội thoại là một hiện tượng giao tiếp bằng ngôn ngữ vì chính trong hội
thoại (độc thoại), ngôn ngữ mới thực hiện được chức năng quan trọng của nó: chức
năng giao tiếp. Chính trong hội thoại ngôn ngữ mới phát huy đầy đủ đặc điểm, sức
mạnh, vẻ đẹp ... của nó. Nói cách khác, ngôn ngữ trở thành ngôn ngữ sống nhờ vào
hội thoại. Một ngôn ngữ nếu không được ai sử dụng để giao tiếp, nó trở thành ngôn
ngữ chết. Có hàng trăm ngôn ngữ trên thế giới đã đi vào cõi vĩnh hằng vì không
còn ai sử dụng chúng để giao tiếp, để hội thoại. Ngược lại, bất kì cuộc hội thoại
nào mà muốn tiến hành được cũng phải dựa vào một ngôn ngữ cụ thể, cũng sử
dụng một tiếng nói cụ thể.
4
Bàn đến bản chất ngôn ngữ của hội thoại, về mặt sư phạm là bàn đến mối quan
hệ giữa kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và hội thoại của cá nhân học
sinh khi bước chân đến trường và yêu cầu dạy hội thoại của nhà trường. Khi vào
học lớp Một cũng như các lớp học trên, mặc dù chưa được học hội thoại nhưng học
sinh vẫn sử dụng ngôn ngữ để tham gia trò chuyện với nhau, với bố mẹ, trao đổi về
mọi vấn đề các em gặp phải trong đời sống, để giãi bày, yêu cầu, đòi hỏi, ra lệnh,
dọa nạt, quát tháo... dường như các em đã nắm được một phần nào các quy tắc,
quy luật .. về hội thoại.
Đó là con đường tiếp nhận tự phát. Muốn dùng ngôn ngữ cho chính xác, linh
hoạt, đúng lúc, đúng chỗ, tế nhị.... học sinh phải được học, được luyện tập về hội
thoại. Muốn hiểu các quy tắc, quy luật hội thoại một cách sâu sắc, kĩ, tự giác.... học
sinh phải qua con đường học tập. Do đó, dạy hội thoại cho học sinh là một yêu cầu
tất yếu nhà trường phải thực hiện. Con đường để dạy hội thoại nhanh, có hiệu quả
chính là phải từ kinh nghiệm sẵn có của học sinh phát triển lên, luyện tập thêm.
Bàn đến bản chất ngôn ngữ của hội thoại chính là bàn đến tính chất giao tiếp
của nó, là phải quan tâm đến các nhân tố tham gia vào cuộc giao tiếp, vào cuộc đối
thoại như: ngữ cảnh, ngôn ngữ và văn bản.
Nói hội thoại là một hiện tượng xã hội vì nó nảy sinh và tồn tại chỉ trong các
cộng đồng người, trong xã hội loài người. Con người sử dụng hội thoại như một
công cụ đắc lực để trao đổi thông tin, giao lưu tình cảm, gắn kết từng cá thể với
nhau tạo thành một cộng đồng, một xã hội.
Bàn đến bản chất xã hội của hội thoại là bàn đến chức năng, mục đích và nội
dung hội thoại. Hoạt động hội thoại là hoạt đồng giao tiếp gắn rất chặt với các quy
tắc ứng xử trong xã hội, thể hiện trình độ văn minh của con người. Học các quy tắc
hội thoại, từ quy tắc luân phiên lượt lời đến các phương châm điều hành nội dung
hội thoại, từ phép lịch sự đến việc thực hiện các quy luật cấu trúc hội thoại, người
5
học thực ra đã tiếp nhận nhiều quy tắc đạo đức, nhiều phép ứng xử văn minh như
tôn trọng thể diện người hội thoại, sự phối hợp, hợp tác trong cuộc sống... Vì thế,
dạy hội thoại cho học sinh đồng thời cũng là dạy đạo đức, dạy văn hóa ứng xử.
Một điều đáng lưu ý là hai bản chất nêu trên của hội thoại gắn chặt với nhau
đến mức nhiều nhân tố hoặc nhiều giai đoạn khó tách bạch đâu là tính chất ngôn
ngữ, đâu là tính chất xã hội. Điều ấy không có nghĩa là không nhận thấy hai bản
chất này trong hiện tượng hội thoại.
1.3 Các nhân tố giao tiếp và hội thoại
Hội thoại là một trong những hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ có vị trí quan
trọng nhất. Vì thế các nhân tố tham gia vào cuộc giao tiếp như: ngữ cảnh, ngôn
ngữ, văn bản cũng chính là các nhân tố tham gia vào cuộc hội thoại.
Các nhân tố tham gia cuộc hội thoại
Ta có sơ đồ biểu diễn mối quan hệ về các nhân tố tham gia cuộc hội thoại
Ngôn ngữ
Ngữ cảnh
Nhân vật
giao tiếp
Vai
giao
tiếp
Người
nói
Người
nghe
Hiện thực
bên ngoài
Quan
hệ liên
cá nhân
Vị
thế
xã
hội
Vị thế
giao
tiếp
Ngữ vực
Ngôn
ngữ cá
nhân
Hội
thoại
Quan
hệ liên
cá
nhân
6
II. Cơ sở thực tiễn
1. Nội dung chương trình sách giáo khoa tiếng Việt
Chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học đầu thế kỉ XXI (chương trình năm
2001 và năm 2006) có rất nhiều điểm mới so với chương trình Tiếng Việt đầu thế
kỉ XX.
1.1 Về nguyên tắc xây dựng chương trình
Điểm mới cơ bản là sự xác lập dứt khoát nguyên tắc giao tiếp, tích hợp và tích
cực trong việc dạy tiếng việt. Liên quan đến nội dung chuyên đề, cần nói rõ hơn về
nguyên tắc giao tiếp. Các chương trình môn Tiếng Việt đầu thế kỉ XXI đều nhấn
mạnh dạy tiếng việt để giao tiếp và trong giao tiếp. Dạy tiếng việt để giao tiếp liên
quan đến xác định mục tiêu của môn học. Chương trình đã đặt lên hàng đầu mục
tiêu “hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết,
7
nghe, nói) để học tập giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Học và
luyện tập các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trở thành nội dung cốt lõi của môn Tiếng
Việt. Nguyên tắc này đòi hỏi chương trình cần trình bày nội dung luyện tập bốn kĩ
năng tiếng Việt ở từng lớp và coi đây là một nội dung học tập bậc nhất trên cạnh
nội dung học các tri thức về tiếng Việt. Dạy Tiếng Việt trong giao tiếp liên quan
đến phương pháp dạy học đặc thù của môn học. nguyên tắc này đòi hỏi nhà
trường, giáo viên cần tạo môi trường giao tiếp để dạy tiếng Việt. Mọi hoạt động
học tập, luyện tập các kĩ năng và kiến thức tiếng Việt phải được “nhúng” trong
giao tiếp, được diễn ra trong môi trường giao tiếp.
1.2 Về nội dung chương trình
Nguyên tắc dạy Tiếng Việt để giao tiếp, trong giao tiếp đã dẫn tới các thay đổi
mới mẻ trong nội dung dạy học tiếng Việt.
-Sự xuất hiện nội dung học tập, rèn luyện từng kĩ năng sử dụng tiếng Việt một cách
có hệ thống từ lớp 1 đến lớp 5. Các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói được quy định học
ở từng lớp với các nội dung luyện tập từ thấp đến cao. Có được cách viết chương
trình như vậy là do sự hiểu biết ngày càng sâu hơn về bản chất và cấu trúc các kĩ
năng sử dụng tiếng Việt.
Căn cứ vào nội dung luyện tập các kĩ năng nghe, nói tiếng Việt người ta thấy lần
đầu tiên hội thoại có chỗ đứng trong chương trình bên cạnh độc thoại.
-Lần đầu tiên có sự xuất hiện của cả 6 kiểu văn bản (biểu cảm, tự sự, miêu tả, nghị
luận, thuyết minh, hành chính) trong nguồn ngữ liệu học tiếng Việt. Trong học viết
văn bản, bên cạnh học viết văn bản tự sự, miêu tả, chương trình nhấn mạnh học
viết nhiều kiểu loại văn bản hành chính thông dụng trong đời sống.
-Lần đầu tiên chuẩn kiến thức và kĩ năng được trình bày chi tiết, hệ thống theo
từng lớp học và ở cả cấp học.
1.3 Về cách viết chương trình
8
Chương trình tiếng Việt đầu thế kỉ XXI không lấy trục phân môn làm căn cứ
để trình bày các nội dung học ở từng lớp như các chương trình môn Tiếng Việt
thế kỉ XX. Chương trình năm 2001 viết theo từng lớp và ở mỗi lớp gồm 3 phần
chính: các nội dung luyện tập kĩ năng đọc, viết, nghe, nói; kiến thức về Tiếng
Việt, văn học gắn với nội dung luyện tập kĩ năng và các nguồn cũng như nội
dung ngữ liệu.
Phần cuối chương trình đề cập đến yêu cầu kiến thức cần đạt ở từng
lớp. Chương trình năm 2006 cũng viết theo từng lớp, mỗi lớp chỉ gồm 2 phần
chính là các kiến thức về tiếng Việt, làm văn, văn học và các kĩ năng cần luyện
tập. Chuẩn kiến thức và kĩ năng là phần thứ hai của chương trình môn học. cách
viết của chương trình môn Tiếng Việt đầu thế kỉ XXI đã làm rõ:
- Nội dung học tập kĩ năng môn Tiếng Việt
- Nội dung học tập kiến thức môn Tiếng Việt, làm văn, văn học và mối tương
quan với kĩ năng học ở từng lớp.
- Các yêu cầu cụ thể của chuẩn kiến thức, kĩ năng
Cách viết của chương trình năm 2001 và 2006 không ràng buộc người viết sách
giáo khoa phải tuân theo một hệ thống phân môn định trước như chương trình môn
Tiếng Việt thế kỉ XX. Hệ thống phân môn quy định sẵn trong chương trình gồm:
tập đọc, chính tả, tập viết, từ ngữ, ngữ pháp, làm văn, kể chuyện. Chương trình
môn Tiếng Việt đầu thế kỉ XXI cũng không ấn định thời lượng học tập cụ thể đối
với từng nội dung như chương trình thế kỉ XX. Chương trình chỉ quy định số tiết
học môn Tiếng Việt theo tuần ở từng lớp. Đây là cách viết chương trình phổ biến ở
các nước. căn cứ vào chương trình, các nhóm tác giả viết sách giáo khoa có thể xác
lập một hệ thống các phân môn hoặc các loại bài học theo quan điểm của mình và
đưa ra cách phân bố thời lượng học tập cho các phân môn hoặc các loại bài học
trong tuần miễn là bảo đảm thực hiện mục tiêu môn học, học đầy đủ các kiến thức,
kĩ năng và đạt các chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định. Trong tương lai khi trình độ
9
giáo viên được nâng cao, lại được giao quyền tự chủ về chuyên môn rộng rãi thì họ
có thể sẽ tự quy định các loại bài học hoặc các phân môn cùng số tiết học cho từng
phân môn trong tuần cần thực hiện ở trường mình.
2. Thực trạng dạy học hội thoại trong môn Tiếng Việt ở nhà trường Tiểu học
hiện nay
Nhà trường Tiểu học trong hơn 10 năm qua đã có nhiều nỗ lực thực hiện
nguyên tắc giao tiếp trong dạy Tiếng Việt. Các nỗ lực ấy được thể hiện trên các
phương diện sau:
a) Nội dung luyện tập kĩ năng ngày càng được chú trọng trong việc giảng dạy
và học tập tiếng Việt
Bài học thuộc bất kì phân môn nào cũng lấy yêu cầu thực hành làm yêu cầu chủ
đạo. Các bài Tập đọc chú trọng rèn luyện không chỉ kĩ năng đọc thành tiếng, đọc
thầm mà còn rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản. Đọc hiểu văn bản trở thành mục tiêu
cao nhất của bài tập đọc, của việc luyện đọc. các bài Luyện từ và câu chú trọng rèn
luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu để diễn đạt các nội dung giao tiếp khác nhau. Các
bài Làm văn chú trọng nhân tố : đích của văn bản, đối tượng đọc văn bản, hoàn
cảnh viết văn bản...nhằm tạo ra các đề bài văn mang tính tình huống, hướng dẫn
học sinh cá thể hóa bài văn của mình. Sách Tiếng Việt đầu thế kỉ XXI đã đổi tên
phân môn Ngữ pháp thành phân môn luyện từ và câu cũng là nhằm nêu bật nội
dung rèn luyện kĩ năng thực hành khi học ngữ pháp và từ vựng.
b) Dạy các kiến thức về tiếng Việt theo tinh thần giao tiếp
Việc lựa chọn và sắp xếp các đơn vị kiến thức tiếng Việt đưa vào chương trình
và sách giáo khoa hướng tới phục vụ mục đích rèn luyện kĩ năng lĩnh hội và sản
sinh văn bản.
Các đơn vị của ngôn ngữ như từ, cụm từ, câu...được dạy trong hoạt động giao
tiếp. Từ được xem xét khi nó tham gia tạo cụm từ, tạo câu...câu được xem xét cả
10
trong quan hệ nội tại (quan hệ giữa các thành phần cấu tạo câu ), cả trong việc thực
hiện các chức năng giao tiếp và trong các hoàn cảnh giao tiếp (ví dụ học cách dùng
câu hỏi vào mục đích khác, cách giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi, khi bày tỏ yêu
cầu, đề nghị...). Đoạn văn không chỉ được xem xét trong quan hệ với các câu mà
còn được xem xét trong quan hệ với các đoạn khác của bài văn.
Các từ, câu, đoạn...trong bài văn lại được xem xét, tìm hiểu trong mối quan hệ
với mục đích và nội dung giao tiếp, trong quan hệ với nhân vật và các tình huống
giao tiếp. Từ đó học sinh hiểu được không chỉ cấu tạo, đặc điểm mà còn hiểu được
ý nghĩa tác dụng của các đơn vị tiếng Việt trong quá trình giao tiếp.
c) Sử dụng giao tiếp như là một phương pháp chủ đạo trong dạy học Tiếng
Việt
Giờ dạy lý thuyết hay luyện tập kĩ năng thực hành cần thực hiện theo tinh thần
giao tiếp. Kiến thức về từ, câu, dấu câu... phải được rút ra qua phân tích các mẫu
lời nói: các bài thực hành kĩ năng cần tuân thủ yêu cầu luyện tập theo hệ thống các
thao tác của hoạt động nói năng (xác định yêu cầu, lập dàn ý, viết đoạn và bài,
kiểm tra và sửa chữa lời nói, bài viết...) ; xây dựng hệ thống bài tập phản ánh cơ
chế sản sinh và lĩnh hội lời nói thông qua các tình huống giao tiếp...
Rất nhiều lời khuyên đã được đưa ra với giáo viên như: người dạy cần tạo điều
kiện cho học sinh có nhu cầu giao tiếp, làm cho các em muốn và thích được nói,
được viết, có tâm thế hào hứng tham gia nói, viết...; làm sao để học sinh dễ dàng
xác định được nội dung, mục đích giao tiếp, biết xác định và phân tích đặc điểm
hoàn cảnh giao tiếp, đối tượng giao tiếp.
Nỗ lực cao nhất của nhà trường trong việc dạy tiếng Việt theo nguyên tắc giao
tiếp là tổ chức dạy hội thoại cho học sinh.
Trong thực tế giảng dạy tại các nhà trường Tiểu học hiện nay, các bài tập dạy
hội thoại cho học sinh được chú trọng rèn luyện nhiều hơn, hs được thực hành
11
trong các tiết học trên lớp, đan xen trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Thông
qua dạy hội thoại phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Việc dạy hội thoại được tiến hành theo các bài học đã phân bố trong sách giáo
khoa. Tuy nhiên, trong quá trình học tiếng Việt, kĩ năng hội thoại nhiều khi vẫn
được rèn luyện khi học sinh hỏi – đáp, đóng vai giải quyết tình huống...nên nhiều
khi giáo viên thường chủ quan, chỉ dạy qua loa, hoặc nhiều khi bỏ qua không dạy.
Đó cũng là một vấn đề nan giải trong nhà trường hiện nay cần phải được khắc
phục.
Khi dạy về hội thoại trong nhà trường Tiểu Học, nhiều khi, gv nỗ lực nhiều để
giờ học thực sự có hiệu quả, hs thực sự được hội thoại và giao tiếp. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, nhiều hs vì thiếu kĩ năng hội thoại đã tự biến lời thoại của
mình thành lời độc thoại. Người ta gọi hiện tượng này là “ Độc thoại hóa cuộc
thoại”. Ví dụ khi yêu cầu hs thảo luận theo chủ đề: Trao đổi về 1 vấn đề nào đó ,
nhiều khi học sinh sẽ trình bày thành một bài nói về vấn đề đó, hay nêu cảm nghĩ
và ý kiến của mình trước vấn đề. Khi đó, việc dạy dạng bài thảo luận, tranh luận về
một vấn đề đã không thành công. Do vậy hiệu quả đạt được sau mỗi giờ dạy chưa
cao.
Có thể nói trong việc dạy hội thoại cho học sinh tiểu học vẫn còn nhiều nan
giải, cần phải khắc phục. vì vậy, nghiên cứu về dạy hội thoại để có phương pháp
thích hợp là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
III. Các dạng bài tập và một số biện pháp rèn kĩ năng hội thoại cho học sinh
Tiểu học qua phân môn Tập làm văn trong SGK Tiếng Việt lớp 3
1. Tìm hiểu về nội dung dạy hội thoại trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3
1.1 Dạy hội thoại là gì
- Dạy hội thoại là dạy hoạt động nói năng
Hoạt động nói trước tiên liên quan đến hai kĩ năng quan trọng khi sử dụng tiếng
Việt, đó là kĩ năng nghe và nói. Để phục vụ tốt cho việc dạy hội thoại, chúng ta cần
12
chú trọng rèn cho học sinh năng lực nghe hiểu (từ chuỗi lời nói thu nhận được,
thông qua các thao tác tư duy, rút ra những thông tin chủ yếu chứa đựng trong đó),
năng lực nói liền mạch theo đề tài, chủ đề nhất định và đạt đích giao tiếp. Quá trình
rèn luyện năng lực nghe hiểu và nói liền mạch là quá trình tiếp nhận và sản sinh lời
nói.
Hoạt động nói năng là một loại hoạt động giao tiếp. Dạy hoạt động nói năng là
rèn luyện kĩ năng giao tiếp, rèn luyện các kĩ năng nói trong các tình huống giao
tiếp cụ thể, phù hợp với các nhân tố giao tiếp, với các đề tài và chủ đề hội thoại và
đạt đích giao tiếp, hội thoại.
- Dạy hội thoại góp phần phát triển tri thức, nâng cao văn hóa ứng xử trong xã
hội
Dạy hội thoại là dạy huy động vốn kiến thức đã có và xử lí các thông tin mới,
tiếp nhận trong hội thọại để tham gia hội thoại (trình bày tư tưởng, tình cảm, cảm
xúc, ý kiến cá nhân về các vấn đề đặt ra trong quá trình hội thoại). Chính quá trình
này làm cho hiểu biết của con người trở nên phong phú, sắc sảo, mở rộng và nâng
cao.
Dạy hội thoại là dạy văn hóa ứng xử trong giao tiếp. Các hàm lượng văn hóa
của mỗi dân tộc hàm chứa trong ngôn ngữ (như các nghi thức lời nói, các cách sử
dụng phép tu từ về từ, về câu...) khi được tích cực hóa sẽ trở thành vốn riêng của
từng người. Phép lịch sự trong giao tiếp, các phương châm hội thoại (như luân
phiên lượt lời, chất lượng, cách thức và quan hệ)...khi được vận dụng thường
xuyên và trở nên nhuần nhuyễn sẽ thấm sâu vào cách ứng xử của mỗi cá nhân. Các
vốn liếng trên tạo nên phong cách sống, cách đối nhân xử thế nhân văn, nhân hậu,
văn minh, lịch sự nâng cao phẩm chất thanh sạch của con người.
Tóm lại dạy hội thoại là quá trình rèn luyện năng lực nghe hiểu và nói năng liền
mạch phù hợp chủ đề, đạt đích giao tiếp, rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ có
13
văn hóa trong các tình huống giao tiếp cụ thể, là quá trình huy động và làm giàu
vốn hiểu biết của con người.
1.2 Nội dung dạy hội thoại trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3
Lần đầu tiên, chương trình Tiểu học đưa hội thoại thành một nội dung học tập.
Các chương trình này quy định các kĩ năng cần rèn luyện trong phần nội dung
chương trình và các mức độ cần đạt được trong phần chuẩn kiến thức và kĩ năng.
Nắm vững nội dung chương trình, chuẩn kiến thức và kĩ năng có vai trò quan trọng
để định hướng cho việc biên soạn sách giáo khoa, xác định nội dung dạy học và
các yêu cầu cần đạt sau quá trình dạy học.
Nội dung chương trình môn tiếng Việt lớp 3 quy định các kiến thức và kĩ năng
cần học và rèn luyện phục vụ cho hội thoại như sau:
- Kiến thức tập làm văn
+ sơ giản về bố cục văn bản
+ Sơ giản về đoạn văn
+ một số nghi thức giao tiếp chính trong sinh hoạt ở trường, lớp; thư, đơn,
báo cáo, thông báo...
- Kĩ năng
+ Nghe và kể lại những câu chuyện đơn giản, thuât lại nội dung chính của
các bản tin ngắn hoặc văn bản khoa học thường thức có nội dung phù hợp
với lứa tuổi.
+ Nghe viết đoạn văn, đoạn thơ, bài thơ ngắn.
+ Ghi lại một vài ý khi nghe văn bản ngắn, có nội dung đơn giản.
- Nói :
+ Dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp chính thức trong sinh hoạt
lớp, sinh hoạt đội.
+ Đặt câu hỏi về vấn đề chưa biết trả lời câu hỏi của người đối thoại.
+ Kể từng đoạn hoặc kể toàn bộ câu chuyện đơn giản đã được nghe
+ Thuật lại nội dung chính của bản tin ngắn hoặc văn bản khoa học thường
thức có nội dung phù hợp lứa tuổi.
14
+ Phát biểu ý kiến trong cuộc họp; giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, chi đội;
trình bày miệng báo cáo ngắn (đã viết theo mẫu) về hoạt động của tổ, lớp,
chi đội.
GV cần nắm vững chương trình từ đó có cách tiếp cận thích hợp với sách
giáo khoa để thực hiện 1 cách có hiệu quả mục tiêu bài học. ngoài ra việc nắm
vững chuẩn kiến thức để giảng dạy thích hợp với đối tượng học sinh cũng rất quan
trọng.
Ở lớp 3, chuẩn kiến thức kĩ năng cần nắm vững như sau:
Kĩ năng
Nói
Yêu cầu
Biết dùng từ xưng hô và lời
Ghi chú – ví dụ
Ví dụ: Hàng ngày hs sử dụng
Sử dụng nghi thức lời
nói phù hợp với tình huống
nghi thức lời nói khi vào lớp, học
nói
giao tiếp trong gia đình, nhà
trong lớp, khi ra về và ở nhà
trường...
(chào cô, mời lịch sự khi ăn, biết
Biết đặt và trả lời câu hỏi
xưng hô phù hợp với lứa tuổi...)
VD: “Hãy nói những điều em
trong học tập, giao tiếp
biết về Đội Thiếu niên Tiền
Đặt và trả lời câu hỏi
phong HCM” (BT1 – TLV tuần
1) Ở bài tập này, hs phải trao đổi
với bạn, biết nêu câu hỏi và đưa
ra câu trả lời phù hợp theo chủ đề
về Đội TNTP HCM.
Thuật việc, kể chuyện
Biết kể một đoạn truyện hoặc
15
một câu chuyện đã được đọc,
đã nghe
Nói được một đoạn đơn giản
về người, vật xung quanh theo
Phát biểu, thuyết
gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi
Bước đầu biết phát biểu ý kiến Nêu ý kiến cá nhân, nhận xét ý
trình
trong một cuộc họp.
kiến của bạn trong các tiết học
trên lớp và trong sinh hoạt tập thể.
Giới thiệu hoạt động của tổ, lớp
Biết giới thiệu các thành viên,
các hoạt động của tổ, của lớp.
dựa trên báo cáo hoặc văn bản đã
chuẩn bị theo mẫu.
1.3 Nhận xét về nội dung dạy hội thoại trong chương trình Tiếng Việt lớp 3
Nghiên cứu nội dung chương trình dạy Tiếng Việt lớp 3, ta thấy:
- Chương trình quy định dạy kiến thức và kĩ năng liên quan đến độc thoại và
hội thoại
Dạy về hội thoại, thì chương trình đã quy định, ở lớp 3 chỉ dạy về nghi thức lời
nói. Yêu cầu của chương trình là HS phải biết sử dụng lời nói trong các tình huống
cụ thể như biết dùng từ xưng hô phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp: trong gia đình,
với bạn bè, thầy cô... Ngoài ra, HS còn cần phải biết đặt và trả lời câu hỏi trong
những tình huống giao tiếp cụ thể. Đây là những yêu cầu bước đầu mang tính căn
bản trong việc rèn khả năng hội thoại cho học sinh.
Độc thoại được nhắc đến nhiều hơn trong nội dung chương trình. Gồm: thuật
việc, kể chuyện, phát biểu, thuyết trình....
Nhất quán với cách viết chung, ở phần này, chương trình cũng không đưa ra
các quy định thời lượng, cách sắp xếp, tổ chức cụ thể cho mỗi nội dung học tập,
rèn luyện. Việc làm này sẽ do các nhà soạn sách, các giáo viên căn cứ vào trình độ
16
của học sinh, đối chiếu với yêu cầu kiến thức và kĩ năng để tự quy định. Cách làm
mềm dẻo này sẽ tạo ra nhiều phương án thực hiện chương trình thích hợp với thực
tiễn giáo dục bao giờ cũng đa dạng. Tuy nhiên, căn cứ vào số lượng các nội dung
luyện tập có thể thấy chương trình vẫn chú trọng độc thoại hơn hội thoại. Ở các lớp
cuối cấp, độc thoại càng được dạy nhiều hơn và với yêu cầu cao hơn. Điều này
cũng có thể dễ hiểu. Chương trình cải cách năm 2000 lần đầu tiên đưa hội thoại
vào chương trình đã là một sự thay đổi quan trọng. Song hiểu biết về kĩ năng sư
phạm để dạy hội thoại của giáo viên còn mỏng, cho nên trong chương trình, việc
dạy hội thoại cũng chưa thể đưa ra yêu cầu cao. Chúng ta tin rằng trong tương lai,
việc dạy hội thoại có thể được chú ý thêm và đạt được hiệu quả hơn nữa.
- Trong dạy hội thoại, học về các nghi thức lời nói, nghi thức và quy tắc khi giao
tiếp (cách xưng hô phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp). Tuy nhiên cách hiểu biết về
giao tiếp trong đời thường còn chưa được chú ý đầy đủ vì mới nhấn mạnh đến việc
học các nghi thức lời nói, tức là học về mở đầu và kết thúc cuộc giao tiếp (những
đoạn dùng nghi thức lời nói là chính, còn phần phát triển đề tài thì không được
nhắc đến)
- ngoài các bài học trong tiết tập làm văn, thì cũng có thêm các tiết luyện tập về
nghi thức lời nói: luyện tập sử dụng các nghi thức lời nói thông thường trong đời
sống, và các nghi thức lời nói trong các hoạt động tập thể. (liên quan đến cuộc họp
lớp, sinh hoạt chi đội...); luyện tập, trao đổi thảo luận theo đề tài. Tuy nhiên nội
dung đề tài không được nhà trường quy định. Căn cứ vào vốn sống, vốn hiểu biết
của các em, căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi của học sinh, các nhà soạn sách và giáo
viên sách nên khai thác các đề tài cho việc luyện tập từ nhiều mặt khác nhau của
cuộc sống xung quanh các em, không nên chỉ bó hẹp trong các đề tài liên quan đến
chuyện học hành, cần có thêm đề tài về tình bạn, tình thầy trò, về các quan hệ xã
17
hội...; hoặc các sinh hoạt, mua bán đời thường... Không nên đưa các chủ đề xa lạ
với vốn sống của các em.
2. Các dạng bài tập dạy hội thoại trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3
2.1 Các loại bài tập dạy hội thoại
2.1.1Bài tập dạy cặp thoại
a) Cấu tạo
Cốt lõi của bài tập dạy cặp thoại là một tình huống giao tiếp đóng. Bài tập
sau là bài tập dạy cặp thoại:
VD: Bạn em ra vào bàn, làm rơi cái lọ. Em nhanh tay đỡ được. bạn khâm
phục: “Cậu nhanh thật đấy!”. (Tiếng Việt 2 tập hai)
Vì sao nói như vậy? Vì bài tập này đưa ra lời trao (là một lời khen) và người làm
bài phải đưa ra lời đáp (là một lời bày tỏ sự khiêm tốn). Có thể gọi đây là bài tập
đưa ra lời đáp.
Ngược lại có tình huống đã sẵn lời đáp, người làm bài phải đưa ra lời trao như ví
dụ sau:
Hà: - ...
Bố Dũng: - Cháu vào nhà đi. Dũng đang học bài đấy!
Có hai cách trình bày bài tập dạy cặp thoại. Cách thứ nhất trình bày theo kiểu miêu
tả tình huống giao tiếp (như bài tập đáp lời bà, bài tập trả lời bạn...). cách thứ hai
trình bày theo liệt kê các lượt lời (trao và đáp) như ví dụ trên đây.
b) Hướng dẫn thực hiện bài tập dạy cặp thoại
* Nhìn một cách tổng quát, việc xác định lời trao hay lời đáp trong bài tập này
dường như đã được ấn định bởi các yếu tố giao tiếp được nêu ra trong đầu bài, vì
vậy mỗi đầu bài dường như có sẵn một lời giải. Ví dụ tình huống sau:
- Em cho anh chạy thử cái tàu thủy của em nhé!
- Vâng
- ....
18
Lời giải cho tình huống trên chỉ có một lời đáp là “Cảm ơn” hoặc “Cảm ơn
em”.
Để học sinh có thể đưa ra được lời đáp, gv tổ chức cho hs thảo luận theo
hình thức nhóm. Trong trường hợp cụ thể này nên tổ chức theo nhóm đôi. Các hs
trong nhóm sẽ đều được đối thoại, đưa ra lời trao – đáp trong tình huống giả định.
GV dựa vào lời đáp của hs, nhắc hs đưa ra lời đáp thể hiện sự biết ơn, lịch sự
“Cảm ơn” hoặc “ Cảm ơn em nhé!”.
* Tuy nhiên trong một số trường hợp có thể có đến hai ba hoặc nhiều hơn
cách diễn đạt cho một nội dung đáp lời hay trao lời.
Ví dụ khi gặp tình huống sau: Em lỡ bước giẫm vào chân bạn. Em hãy nói lời xin
lỗi.(Tiếng Việt lớp 2)
Có rất nhiều cách diễn đạt lời xin lỗi đó. HS có thể đưa ra các lời trao như sau:
+ Xin lỗi bạn! (lịch sự)
+ mình vô ý quá ! (chân thành)
+ Bạn có đau không? Xin lỗi nhé! (Lịch sự, thân thiết)
+ xin lỗi vì đã giẫm phải bạn (Lịch sự)
+ tại mình mải đọc tờ báo đấy! (thiếu lịch sự)
....
Mỗi cách diễn đạt lời xin lỗi trên thể hiện tình cảm hay trình độ văn hóa của người
đáp (thân thiện hay hững hờ, lịch sự hay thiếu lịch sự)
Trong các trường hợp này, sau khi gợi ý để các em đưa ra nhiều cách diễn đạt lời
xin lỗi, giáo viên nên phân tích xem nên dùng những cách diễn đạt nào, không nên
dùng những cách diễn đạt nào, nêu rõ lí do.
* Có một số trường hợp dùng tình huống giao tiếp giả định có thể cho phép
đưa ra một lời đáp (hoặc trao) với các nội dung khác nhau tùy thuộc vào một số
yếu tố giao tiếp.
- Ví dụ có bài tập sau:
19
Một bạn vội, nói với em trên cầu thang: “xin lỗi! Cho tớ đi trước một chút!”
Em sẽ trả lời ra sao?
Có thể nêu ra đây một số cách trả lời và các yếu tố của ngữ cảnh chi phối
dẫn đến cách trả lời đó.
+( Em đồng ý để bạn đi trước) (tránh ra và nói): Mời bạn đi trước! hoặc: “Bạn đi
trước đi!”
+ (Người nói là bạn thân em, em muốn trêu bạn đó) : Vội gì mà đòi đi trước! hoặc :
Cậu có vội đâu! Cứ đợi đấy!
+ (Em cũng đang vội, không kịp tránh ra để nhường đường cho bạn): Tớ cũng
đang vội cuống lên đây!
+ (em không thể tránh, nhường đường cho bạn) Cậu không thấy tớ ôm chồng vở
thế này còn tránh đâu cho cậu đi trước được nữa!
Trong trường hợp này, mỗi câu trả lời đều có thể tìm thấy lí do giải thích. Kết luận
sư phạm rút ra: giáo viên cần suy ngẫm để có thể nhận diện đúng từng dạng bài tập
nêu trên. Từ đó khuyến khích học sinh trả lời, tránh dập khuôn máy móc nhất là
khi gặp các bài tập ở dạng thứ hai hay thứ ba nêu trên.
2.1.2 Bài tập dạy đoạn thoại và dạy cuộc thoại
a) Cấu tạo
Cốt lõi của bài tập này là các tình huống giao tiếp mở. Ví dụ các tình huống sau:
A. Nhân ngày 20 – 11 em thay mặt tổ mang hoa đến nhà tặng cô giáo.
B. Em vào viện thăm một thầy giáo bị ốm. Sau khi chào hỏi, em hỏi thăm sức
khỏe của thầy.
Đầu bài A là đầu bài cho một cuộc thoại. Đầu bài B là đầu bài cho một đoạn thoại.
b) Hướng dẫn thực hiện bài tập dạy cuộc thoại
Có hai cách dạy bài tập dạy cuộc thoại: cách dạy theo hướng phân tích và cách
dạy theo hướng thực hành.
20
- Xem thêm -