Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY TẠI NHTM TẠI NHNo&PTNT BA ĐÌNH
Các vấn đề trong chương
- Tổng quan về NHTM
- Đầu tư và dự án đầu tư
- Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
- Rủi ro của dự án
- Nhân tố ảnh hưởng
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
I. Tổng quan về NHTM
1. Khái niệm, chức năng của NHTM
Trong hoạt động sản xuất tiêu dùng của xã hội, tại một nơi nào đó, một
lúc nào đó luôn luôn xảy ra một tình trạng đối nghịch: có những cá nhân, tổ
chức có những đồng tiền nhàn rỗi không có nhu cầu hoặc chưa có nhu cầu
sử dụng đến nó trong khi đó lại có những cá nhân, tổ chức có nhu cầu cần
một khoản tiền cho các cơ hội đầu tư hoặc các mục đích tiêu dùng. Thị
trường tài chính đã ra đời đóng vai trò to lớn trong việc thu hút các nguồn
lực tài chính nhàn rỗi trong xã hội tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội. Nhưng thông thường do rất nhiều lý do trên thị trường có rất nhiều tổ
chức đứng ra làm trung gian tài chính để chuyển vốn từ người có vốn đến
người có nhu cầu.
NHTM chính là một trong những trung gian tài chính đó, đóng một vai
trò quan trọng trong việc đưa những đồng tiền tiết kiệm đến tay các nhà đầu
tư. Qua đó nó giúp cho nền kinh tế vận hành một cách nhịp nhàng, hữu
hiệu.
NHTM là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các
ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò
mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả
công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương
hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ
của ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh
tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi
cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt
động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới
khác. Tóm lại, NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Thông qua khái niệm về NHTM ta đã có thể biết được những chức
năng của NHTM.
Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi
tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và họ cần bổ
sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu
nhập hiện tại lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ
có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn
độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang
nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều
giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này
cản trở quan hệ trực tiếp và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Một
đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay
nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi
tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro.
Tạo phương tiện thanh toán
Ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán là giấy nhận
nợ thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với
nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm
phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó thở thành tiến giấy. Trong
điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy
nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả
để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay,
số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng tăng lên. Toàn bộ hệ thống
ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được
mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Trong
khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội
thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng , ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết
kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán
như bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng
Trung ương hoặc thông qua trung tâm thanh toán. Nhiều hình thức thanh
toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không
chỉ giữa các ngân hàng trong cùng một quốc gia mà còn giữa các ngân
hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã
làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng biến ngân hàng trở thành
trung tâm thanh toán quan trọng.
2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ trên thị trường tài chính, tất cả các
hoạt động của NHTM đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Đây là
mục tiêu chi phối mọi hoạt động của ngân hàng. Theo đuổi mục tiêu này,
ngân hàng không ngừng cải tiến các dịch vụ, nâng cao chất lượng, đa dạng
hóa hoạt động, nhưng khái quát lại NHTM có 3 hoạt động chính: hoạt động
huy động vốn, cho vay và đầu tư, các hoạt động trung gian. Đây là ba hoạt
động truyền thống của NHTM có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Để có
vốn cho vay ngân hàng phải đi huy động những đồng tiền nhàn rỗi từ
những người tiết kiệm. Đồng thời với lợi thế là trung gian tài chính trên thị
trường tài chính, NHTM cung cấp một số dịch vụ ngân hàng cho khách
hàng qua đó hỗ trợ cho hoạt động huy động, cho vay vốn và tìm kiếm lợi
nhuận cho mình.
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Hoạt động huy động vốn
Đó là các hoạt động của ngân hàng để thu gom vốn nhàn rỗi trong
công chúng. Trước kia các ngân hàng chủ yếu là nhận tiền gửi từ người
gửi tiền. Nhưng ngày nay, do sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, các
NHTM đã đưa ra rất nhiều những hình thức khác nhau để huy động vốn
đảm bảo và mở rộng các hoạt động. Ngân hàng tập trung được một số vốn
lớn từ các tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, từ
các công cụ kỳ phiếu trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi.... Bên cạnh đó,
khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, cho vay các NHTM có thể
đi vay vốn từ ngân hàng trung ương, từ các NHTM khác, vay các tổ chức tài
chính trên thị trường trong nước và quốc tế. Trên bàng cân đối tài sản, các
hoạt động huy động vốn được biểu hiện qua các tài sản nợ của ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động mà ngân hàng phải bỏ ra những chi
phí.Đó là các chi phí giao dịch, chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay,các chi phí
khác liên quan. Những cho phí đó đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng những
đồng vốn đó như thế nào để bù đắp các chi phí và đem lại thu nhập cho
ngân hàng.
Các hoạt động trung gian
Là một tổ chức trung gian trên thị trường tài chính, NHTM thực hiện
các dịch vụ trung gian, dịch vụ ngân hàng, phi ngân hàng như thanh toán,
chuyển tiền, ủy thác, ký thác, tư vấn. bảo lãnh, bảo quản,.... Những hoạt
động này đem lại cho ngân hàng các khoản thu từ phí dịch vụ. Tuy nhiên
hoạt động đem lại thu nhập chính cho ngân hàng là các hoạt động cho vay
và đầu tư. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể vấn đề này ngay sau đây.
Hoạt động cho vay và đầu tư
Đây là hoạt động đặc trưng cơ bản, có tính truyền thống của NHTM.
Nó đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của NHTM. Đó là việc sử dụng nguồn
vốn huy động cho những người có nhu cầu vay vốn và thu khoản lãi nhất
định trên số tiền cho vay theo nguyên tắc vốn vay phải được hoàn trả và thu
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
từ lãi phải đảm bảo cho ngân hàng trang trải hết các chi phí đồng thời thu
được lợi nhuận.
NHTM có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo các
tiêu thức phân loại khác nhau mà có một số những hình thức sau
Theo mục đích cho vay
oCho vay công nghiệp
oCho vay nông nghiệp
oCho vay xây dựng cơ bản
oCho vay xuất nhập khẩu
Theo lãi suất
oCho vay theo lãi suất cố định
oCho vay theo lãi suất thả nổi
Theo thành phần kinh tế
oCho vay ngoài quốc doanh
oCho vay trong quốc doanh
Theo tài sản đảm bảo
oCho vay có tài sản đảm bảo
oCho vay không có tài sản đảm bảo
Theo thời gian
oCho vay ngắn hạn
oCho vay trung hạn
oCho vay dài hạn
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Dù cho vay dưới bất kì một hình thức nào thì việc cho vay cũng trải
qua 3 giai đoạn sau: (1) xem xét trước khi cho vay, (2) thực hiện cho vay,
(3) thu gốc và lãi.
Ba giai đoạn này là một quá trình gán bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn đều
có ý nghĩa nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng của một khoản vay. Để có
một khoản cho vay chất lượng là một điều mong muốn và là mục tiêu hoạt
động của NHTM. Nhưng nó cũng là một điều rất khó khăn và ngân hàng
vẫn có thể thất bại.
Trên thực tế, vận động của xã hội và thị trường luôn tồn tại sự không
cân xứng về thông tin giữa các đối tượng, không có thông tin đầy đủ về
nhau do đó dẫn đến những hiểu biết sai lệch. Giữa NHTM và người đến
vay cũng xảy ra tình trạng như vậy. Ngân hàng không có những thông tin
đầy đủ về khách hàng nên có thể thực hiện những khoản cho vay sai lầm.
Đứng trước những rủi ro đó, NHTM luôn luôn phải cất nhắc, đắn đo, xem
xét bằng các nghiệp vụ để xác định được khách hàng tốt, khoản xin vay có
chất lượng trước khi quyết định.
Như vậy, trong ba giai đoạn trên, việc xem xét trước khi cho vay có ý
nghĩa quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả các khoản cho vay
và các hoạt động của giai đoạn sau. Giai đoạn này được ngân hàng tiến
hành rất kỹ với rất nhiều phương pháp nghiệp vụ đặc thù. NHTM phải đối
mặt với các câu hỏi:
Cho ai vay?
Cho vay như thế nào?
Cho vay khi nào?
Quản lý các khoản vay như thế nào?
Thu gốc và lãi ra sao?
Đây là một bài toán khó mà ngân hàng bằng cách thức riêng phải tìm
được lời giải đúng nếu không muốn phải gánh chịu những hậu quả khôn
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
lường. Một nguồn vốn quan trọng được ngân hàng sử dụng cho vay là tiền
gửi của khách hàng. Do đó để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển thì bên
cạnh mục tiêu lợi nhuận ngân hàng còn phải đảm bảo an toàn và thanh
khoản, tức là ngân hàng phải chịu trách nhiệm vô hạn với những đồng tiền
của khách hàng và phải thỏa mãn bất cứ nhu cầu rút tiền nào của khách
hàng vào bất cứ thời điểm nào. Nếu ngân hàng không tìm được lời giải
đúng cho bài toán cho vay thì những nguyên lý cơ bản trong hoạt động
ngân hàng bị phá vỡ, mục tiêu của ngân hàng không được đảm bảo và
ngân hàng đứng trước nguy cơ tồi tệ nhất: phá sản.
Quá trình tìm lời giải cho bài toán chính là quá trình thẩm định các
khoản vay. Một hình thức cho vay phổ biến của NHTM là cho vay theo các
dự án đầu tư. Hình thức cho vay này có số lượng vốn lớn, thời hạn dài và
có nhiều biến động. Nhưng nếu là một dự án tốt ngân hàng sẽ có thu nhập
cao và bảo đảm an toàn vốn. Tuy nhiên, xác định được dự án tốt là một
công việc phức tạp nhưng ngân hàng không thể không thực hiện.
II. Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
1. Đầu tư và dự án đầu tư
a. Đầu tư
Đầu tư là đem một khoản tiền sử dụng vào một việc nhất định sau đó
thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn. Một cách vắn tắt, có thể nói đầu tư
là việc sử dụng tiền nhằm mục đích sinh lời. Tính sinh lời là đặc trưng hàng
đầu của đầu tư. Không thể coi là đầu tư nếu sử dụng tiền không nhằm mục
đích thu lại một khoản có giá trị lớn hơn khoản bỏ ra ban đầu.
Phân loại đầu tư: tùy theo các mục đích khác nhau, có thể phân loại
đầu tư của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau
Theo phương thức đầu tư:
Đầu tư gián tiếp (hay đầu tư tài chính): là đầu tư bằng cách mua các
chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư...
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
để hưởng lợi tức. với phương thức này người đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý việc sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tham gia quản lý việc sử dụng vốn.
Theo mục đích đầu tư ta có thể phân loại đầu tư thành: đầu tư tăng
năng lực sản xuất, đầu tư đổi mới sản phẩm, đầu tư đổi mới thiết bị, đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu
tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,.... Việc phân loại này có thể giúp
cho các nhà quản lý tài chính xác định hướng đầu tư và kiểm soát được
tình hình đầu tư theo những mục tiêu đã định.
b. Dự án đầu tư
Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Về mặt hình thức dự án đầu tư là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày
một cách chi tiết, có hệ thống các hoạt động theo một kế hoạch nhằm thực
hiện những mục tiêu trong tương lai.
Về bản chất dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì cải tiến nâng cao
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Trên góc độ quản lý thì đây lại là công cụ quản lý việc sử dụng các
nguồn lực để tạo ra các kết quả kinh tế xã hội trong một thời gian dài.
2. Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
a. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư
Một dự án đầu tư thường do chủ dự án lập hoặc thuê các cơ quan tư
vấn lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của chủ dự án. Do
vậy, dự án đầu tư thường mang tính chủ quan của nhà đầu tư và không
xem xét, đánh giá hết được các tình huống liên quan.
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Bên cạnh đó, quyết định đầu tư vào một dự án là quyết định tài chính
dài hạn, đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, chịu ảnh hưởng và
chi phối bởi nhiều yếu tố thị trường nên chủ dự án cũng rất cần xem xét,
đánh giá kỹ trước khi quyết định đầu tư.
Ngoài ra, dự án đầu tư còn liên quan ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều
bên khác nhau nên nó cần được xem xét từ nhiều phía của các bên liên
quan để thấy được lợi ích thực do dự án đem lại cho xã hội, cho các bên.
Hay nói cách khác, dự án đầu tư cần phải được thẩm định kỹ càng trước
khi quyết định.
Trong nền kinh tế hiện nay đầu tư là hoạt động chủ yếu, quyết định sự
phát triển của doanh nghiệp. Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bỏ vốn
dài hạn nhằm hình thành và bổ sung những tài sản cần thiết để thực hiện
những mục tiêu kinh doanh. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nhưng
hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Các ngân hàng sẽ đầu tư bằng cách bỏ
vốn vào một dự án của doanh nghiệp nào đấy. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ
phải đánh giá về tính khả thi và khả năng sinh lời của dự án. Thực tế hiện
nay cho thấy nợ quá hạn trong các NHTM là không nhỏ. Một trong những
nguyên nhân chủ quan của vấn đề này là các NHTM đã không thực hiện tốt
quá trình thẩm định trước khi cho khách hàng rút vốn. Chính điều này càng
cho thấy thẩm định tài chính càng cần phải được coi trọng trên hai khía
cạnh: hạn chế rủi ro và đảm bảo đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Điều này
không có nghĩa là đi ngược lại với lợi ích của khách hàng vì chính những
kết quả kinh doanh tốt đẹp của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thu
được vốn và lãi làm cho ngân hàng đầu tư có hiệu quả.
b. Khái niệm, mục tiêu thẩm định dự án đầu tư của NHTM
Thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng là việc tổ chức xem xét một
cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng
trực tiếp đến tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của khách hàng
để phục vụ cho việc xem xét quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự
án.
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Mục tiêu của thẩm định dự án đầu tư là:
Xác định tính chất khả thi của dự án, đánh giá các lợi ích và chi phí
tài chính, cũng như các lợi ích và chi phí kinh tế, hiệu quả xã hội của
dự án một cách khoa học.
Xác định các điều kiện của khoản tiền cho vay hợp lý, phù hợp với
khả năng của ngân hàng, yêu cầu của khách hàng đồng thời phải
phù hợp với chiến lược phát triển đầu tư và quy hoạch phát triển kinh
tế xã hội.
Tư vấn cho chủ đầu tư điều chỉnh, bổ sung các nội dung của dự án.
c. Yêu cầu đối với công tác thẩm định dự án đầu tư
Bất cứ một công việc nào đều có yêu cầu khi thực hiện nó. Thẩm định
là công việc nghiêm túc, không thể làm chiếu lệ. Trong môi trường gia tăng
cạnh tranh giữa các ngân hàng, khách hàng, đòi hỏi ngân hàng phải thực
hiện quy trình phân tích nhanh gọn và tiết kiệm chi phí, đây cũng là hoạt
động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban và cán bộ. Do vậy,
quy trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Được xây dựng và thống nhất trong toàn ngân hàng, tránh tùy tiện,
duy ý trí. Quy trình này phải được ban lãnh đạo ngân hàng thông qua
và phổ biến đến các phòng có liên quan cũng như các cán bộ tín
dụng.
Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung.
Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như các bộ ngân hàng
cần biết mình phải làm gì, đến mức nào.
Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng của
ngân hàng.
d. Nội dung thẩm định tài chính dự án
Thẩm định dự án đầu tư phải xem xét trên tất cả các mặt và đưa ra
câu trả lời về tính khả thi của mỗi mặt đó. Mỗi khía cạnh của dự án đầu tư
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
tồn tại trong một tổng thể liên quan, có quan hệ ràng buộc, tương tác, ảnh
hưởng lẫn nhau hình thành nên dự án đầu tư. Do vậy, bất cứ một trục trặc
ở khía cạnh nào đều ảnh hưởng tới các mặt khác và ảnh hưởng tới hiệu
quả cuối cùng của dự án.
Pháp lý
Thị trường
Thẩm định dự
án đầu tư
Kỹ thuật
Đánh giá
Tổ chức, quản lý
Kinh tế, xã hội
Tài chính
- Pháp lý: hoạt động của dự án liên quan và chịu sự điều chỉnh của luật
và các văn bản pháp quy liên quan nên để dự án có thể thực hiện trước tiên
phải xem xét tính hợp lệ, hợp lý của dự án. Một dự án không khả thi về mặt
pháp lý sẽ bị loại bỏ ngay.
- Thị trường: đây là khía cạnh quan trọng quyết định sự thành bại của
dự án. Trong đó, thẩm định phải xem xét những gì đưa ra trong dự án có
đúng có chính xác không. Bên cạnh đó, phải xác định nhu cầu về sản phẩm
của dự án, tính cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản
phẩm. Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô đầu tư, thiết
bị, công suất và dự tính khả năng tiêu thụ.
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
- Kỹ thuật: đánh giá việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, giải pháp kỹ
thuật có phù hợp không, tiết kiệm được vốn đầu tư không , chi phí sản xuất,
địa điểm có phù hợp không, xử lý tác động môi trường đã tốt chưa....
- Tổ chức, quản lý: bộ máy tổ chức được thiết lập ra sao? Cần bao
nhiêu cán bộ quản lý, bao nhiêu công nhân, kỹ sư? Các phòng ban thiết lập
thế nào để phục vụ sản xuất?
- Kinh tế, xã hội: dự án sử dụng nguồn lực nào của xã hội và đóng góp
gì vào phát triển nền kinh tế, phát triển ngành, phát triển địa phương như
tạo ra bao nhiêu công ăn việc làm, thu nhập,....
- Tài chính: xem xét, tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính,
các kế hoạch tài chính của dự án để đánh giá xem dự án có đem lại hiệu
quả không, có lợi nhuận không.
Các dự án rất đa dạng với nhiều phạm vi, lĩnh vực, quy mô khác nhau
mà NHTM khó có thể thẩm định chi tiết hết được mọi khía cạnh. Ngân hàng
chủ yếu tập trung vào khía cạnh tài chính.
Một dự án thông thường đòi hỏi một số lượng vốn đầu tư rất lớn vượt
quá khả năng tài chính của chủ dự án hoặc do mong muốn chia sẻ rủi ro,
hay sử dụng đòn bẩy tài chính trong kinh doanh mà chủ dự án luôn luôn
mong muốn và cần khoản vốn vay từ ngân hàng. Đối với NHTM, việc tài trợ
cho một dự án là một nghiệp vụ, là một hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận,
là các khoản cho vay trung và dài hạn, là cơ sở để NHTM cung cấp các sản
phẩm dịch vụ. Trong các khía cạnh thẩm định thì thẩm định tài chính dự án
rất quan trọng mà qua đây ngân hàng sẽ quyết định cho dự án nào vay, vay
bao nhiêu, khi nào, lãi suất, quản lý thu hồi vốn ra sao, hỗ trợ dự án thế
nào,.... Chỉ cho vay các dự án có hiệu quả tài chính thì các khoản cho vay
của NHTM mới bảo đảm, ngân hàng mới có thể thu hồi gốc và lãi.
Mục tiêu cuối cùng của thẩm định tài chính dự án là xác định khả năng
tạo ra lợi nhuận trên khoản vốn đầu tư, xem dự án tạo ra được lợi ích gì
trong tương lai từ những nguồn lực đã dành cho dự án. Xác định hiệu quả
tài chính để xem khả năng trả nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, thẩm định
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
tài chính dự án còn phân tích tình hình tài chính của chủ dự án để đánh giá
các rủi ro, mức độ và chất lượng hoạt động. Ngân hàng sẽ đi vào thẩm định
tài chính dự án với các nội dung cụ thể:
Một:
oXác định tổng nhu cầu về vốn cho dự án (cố định và lưu động).
oXác định phần vốn mà ngân hàng cần tài trợ.
Hai: xem xét dự toán các bảng tài chính.
oBảng dự trù chi phí sản xuất năm.
oBảng dự trù doanh thu, lỗ lãi.
oBảng dự trù cân đối tài sản.
oBảng dự trù cân đối thu chi.
Ba: đánh giá hiệu quả tài chính của dự án và phân tích tài chính.
oTính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính NPV, IRR, BCR,....
oPhân tích tài chính dự án trong các năm hoạt động:
▫ Phân tích các tỷ lệ tài chính.
▫ Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
▫ Phân tích tình hình tài chính theo luồng tiền mặt.
▫ Phân tích các chỉ tiêu trung gian.
Bốn: xác định bảng lịch trình thu gốc và lãi.
Ngay sau đây là giải trình bốn nội dung của thẩm định tài chính dự án.
Một: khi một dự án đưa đến ngân hàng xin vay thì dự án đó đã được
nhiều cấp xem xét, phê duyệt, tổng vốn đầu tư đã được xác định. Tuy vậy,
ngân hàng vẫn tiến hành xem lại trên cơ sở những kết quả thẩm định của
ngân hàng. Điều này là rất quan trọng vì vốn đầu tư đủ sẽ giúp cho dự án
thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn đầu tư
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động của dự án cũng như hoạt động vận
hành kết quả đầu tư sau này. Ngược lại, thừa vốn gây lãng phí làm giảm
hiệu quả tài chính của dự án. Tổng vốn đầu tư được xác định trên tổng các
chi phí:
Chi phí lập dự án:
oChi phí thuê chuyên gia, tư vấn, soạn thảo.
oChi phí mua thông tin tài liệu.
oChi phí khảo sát thăm dò.
oChi phí hành chính.
Chi phí đầu tư tài sản cố định:
oChi phí xây dựng nhà xưởng.
oChi phí mua máy móc.
oChi phí lắp đặt, vận hành, chạy thử.
oChi phí thuê chuyên gia kỹ thuật, công nghệ.
Chi phí tài sản lưu động.
Trên cơ sở nhu cầu vốn ngân hàng xem xét các nguồn vốn tài trợ cho
dự án. Thường thì một dự án có 2 nguồn cung cấp: nguồn bên trong do chủ
dự án tự bỏ ra; nguồn bên ngoài như từ Nhà nước, NHTM, dân cư, tổ chức
khác,.... Ngân hàng xem có bao nhiêu nguồn tài trợ cho dự án, khả năng
tính bảo đảm của mỗi nguồn, số vốn các nguồn khác đã cung cấp qua đó
xác định số vốn dự án còn thiếu để cho vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng sẽ
xây dựng một lịch trình cho vay để phù hợp với yêu cầu và tiến độ bỏ vốn
của dự án.
Hai: thẩm định tính chính xác, hợp lý của các bảng dự trù tài chính. Cơ
sở để xem xét là dựa trên nội dung của luận chứng kinh tế kỹ thuật, dựa
trên các chỉ tiêu, định mức kinh tế kỹ thuật của ngành do Nhà nước ban
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
hành hoặc các cơ quan chuyên môn công bố và dựa trên các kết quả thẩm
định các mặt thị trường, kỹ thuật, tổ chức, kinh tế xã hội của ngân hàng.
Ba: đánh giá tài chính dự án thường dựa trên các tiêu chuẩn cụ thể và
dựa trên phân tích tài chính dự án.
Giá trị hiện tại ròng (NPV)
NPV là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính dự án
mang lại trong thời gian kinh tế của dự án và giá trị đầu tư ban đầu. Do vậy,
chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (khi NPV dương) hoặc giảm đi (khi
NPV âm) nếu dự án được chấp nhận.
Công thức tính giá trị hiện tại ròng NPV như sau:
n
Ci
i
i1 (1 r)
NPV C0
C0 là vốn đầu tư ban đầu vào dự án, do là khoản đầu tư (luồng tiền
ra) nên C0 mang dấu âm.
Ci là luồng tiền dự tính dự án đem lại các năm i (i=1, 2, 3,...).
r là tỷ lệ chiết khấu phù hợp của dự án.
NPV phản ánh kết quả lỗ lãi của dự án theo giá trị hiện tại (tại thời
điểm 0) sau khi đã tính đến yếu tố chi phí cơ hội của vốn đầu tư. NPV
dương có nghĩa là dự án có lãi. NPV=0 chứng tỏ dự án chỉ đạt mức trang
trải đủ chi phí vốn. Dự án có NPV âm là dự án bị lỗ.
Việc xác định chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng liên quan đến các tính toán
sau. Thứ nhất là dự tính lượng tiền đầu tư ban đầu, tức là luồng tiền tại thời
điểm 0. C0 bao gồm các khoản đầu tư vào tài sản, có thể dưới dạng tiền
sẵn sàng cho dự án hoạt động, tạo ra tồn kho, mua sắm tài sản cố định.
Thực tế, nó bao gồm các khoản chi tiêu tại các thời điểm khác nhau của dự
án nhưng để đơn giản trong tính toán ta coi đó là khoản chi tiêu tại thời
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
điểm ban đầu. Thứ hai là dự tính luồng tiền trong thời gian kinh tế của dự
án. Đây là các khoản thực thu bằng tiền trong các năm hoạt động của dự
án. Nó được tính bằng doanh thu ròng trừ đi các chi phí bằng tiền của từng
năm và người ta thường giả định các luồng tiền diễn ra vào thời điểm cuối
năm. Cuối cùng là dự tính tỷ lệ chiết khấu. Rất khó để xác định một tỷ lệ
chiết khấu chính xác. Tỷ lệ chiết khấu là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào
dự án mà không đầu tư trên thị trường vốn. Tỷ lệ này thường được tính
bằng tỷ lệ thu nhập của các tài sản chính tương đương. Đó là tỷ lệ thu nhập
mà nhà đầu tư mong đợi khi đầu tư vào dự án.
Căn cứ vào ý nghĩa của chỉ tiêu NPV, ta thấy quy tắc đơn giản là: chấp
nhận dự án có NPV dương và lớn nhất (nếu có nhiều hơn một dự án có
NPV dương). Tuy nhiên chỉ tiêu này không áp dụng được cho các dự án có
thời hạn khác nhau và có vốn đầu tư khác nhau. Chỉ tiêu này còn không
thấy được giá trị lợi ích thu được từ một đông vốn đầu tư và phụ thuộc vào
cách lựa chọn lãi suất chiết khấu r.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại
ròng của dự án bằng 0.
IRR được tính thông qua việc giải phương trình:
n
Ci
0
i
i1 (1 IRR)
NPV C0
Để tính được IRR chúng ta có thể dùng phương pháp nội suy hoặc đồ
thị. Tương tự như chỉ tiêu NPV, chỉ tiêu này liên quan đến việc dự tính các
luồng tiền mà dự án sẽ tạo ra trong thời gian thực hiện. Đồng thời phải có
một tỷ lệ chiết khấu mong đợi để so sánh khi ra quyết định đầu tư.
IRR phản ánh khả năng sinh lời của dự án, chưa tính đến chi phí cơ
hội của vốn đầu tư. Tức là, nếu như chiết khấu các luồng tiền theo IRR, PV
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
sẽ bằng đầu tư ban đầu C0. Hay nói cách khác, nếu chi phí vốn băng IRR,
dự án sẽ không tạo thêm được giá trị hay không có lãi.
Qua đây ta nhận thấy rằng, nếu IRR lớn hơn chi phí vốn (tỷ lệ chiết
khấu của dự án) thì thực hiện dự án. Trong trường hợp này có thể nói dự
án có lãi, tương đương với giá trị hiện tại ròng dương. Hệ số hoàn vốn nội
bộ biểu thị sự hoàn trả vốn đã được đầu tư vì vậy nó chỉ ra tỷ lệ lãi suất tối
đa dự án có thể chịu được. Nhưng cũng như NPV, sự chính xác của chỉ
tiêu phụ thuộc vào sự chính xác của các dự tính về luồng tiền. IRR là một
chỉ tiêu mang tính tương đối, tức là nó phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của
dự án là bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi (hay lỗ) của dự
án bằng tiền. Khi dự án lập trong nhiều năm, việc tính toán là rất phức tạp.
Tỷ số lợi ích, chi phí BCR
Khi tính NPV, đối với các dự án lớn có chi phí đầu tư cao thường
mang về NPV cao hơn các dự án có chi phí đầu tư thấp, điều này không
nhất thiết có nghĩa là các dự án lớn tốt hơn dự án nhỏ. BCR được áp dụng
để tính khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ được đầu tư.
n
B
(1ir)i
BCR in1 C
(1r)i i
i1
Bi, Ci lần lượt là thu nhập, chi phí của dự án năm i (i=1, 2, 3,...).
Khi sử dụng chỉ tiêu này ta sẽ chấp nhận mọi dự án có BCR lớn hơn
hay bằng 1. Tuy nhiên cũng phải thận trọng khi dùng để đánh giá các dự án
vì nó phụ thuộc vào việc xác định mức lãi suất. Hạn chế nữa là BCR rất
nhạy cảm với các định nghĩa về chi phí trên phương diện kế toán vì theo
như cách tính trên thì lợi ích là toàn bộ nguồn thu gia tăng của dự án, còn
chi phí là tổng chi phí sản xuất gia tăng.
Điểm hòa vốn
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Điểm hòa vốn lý thuyết là điểm mà doanh thu ngang bằng với chi phí
sản xuất. Người ta có thể tính điểm hòa vốn cho cả thời gian thực hiện dự
án hoặc cho từng năm. Điểm hòa vốn được biểu diễn bằng số đơn vị sản
phẩm hoặc giá trị doanh thu.
Cách tính điểm hòa vốn:
Gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc bán ra được.
Gọi x0 là khối lượng sản phẩm tại điểm hòa vốn.
Gọi f là chi phí cố định, v là chi phí biến đổi của sản phẩm.
v.x là tổng chi phí biến đổi
Gọi p là giá thành sản phẩm
DT = p.x là doanh thu của dự án
Tại điểm hòa vốn thì:
p.x0 = v.x0 + f
Sản lượng hòa vốn là:
x0
Ta có:
f
DT0
1- v p
f
p-v
Xác định thời gian hoàn vốn
Gọi T là khoảng thời gian hoàn vốn của dự án, khi đó T được xác
định qua phương trình:
T
CF (1 r )
t
-t
0
t 0
Chỉ tiêu này cho biết sau bao lâu dự án sẽ có thu nhập đủ bù chi phí
vốn. Và đây là điều được chủ đầu tư và ngân hàng rất quan tâm, nhất là đối
với những dự án có tuổi thọ kinh tế dài hoặc đầu tư trong những lĩnh vực có
độ cạnh tranh cao do rào cản về gia nhập thấp.
Ngoài các chỉ tiêu phân tích ở trên, thẩm định tài chính dự án còn tiến
hành các phân tích tài chính. Thông thường, phương pháp được áp dụng
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
rộng rãi và có tính hiện thực cao là phân tích các tỷ lệ tài chính. Các tỷ lệ tài
chính chủ yếu được phân tích có 4 nhóm:
Tỷ lệ về khả năng thanh toán:
oKhả năng thanh toán hiện hành.
oKhả năng thanh toán nhanh.
oVốn lưu động ròng.
Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn:
oHệ số nợ.
oSố lần có thể trả lãi.
Tỷ lệ về khả năng hoạt động:
oVòng quay tiền.
oVòng quay dự trữ.
oKỳ thu tiền bình quân.
oHiệu suất sử dụng tài sản cố định.
oHiệu suất sử dụng tổng tài sản
Tỷ lệ về khả năng sinh lãi:
oDoanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
oDoanh lợi vốn tự có.
oDoanh lợi vốn.
Bên cạnh đó còn phải phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn,
các luồng tiền mặt, các chỉ tiêu tài chính trung gian như: giá trị gia tăng,
tổng lãi kinh doanh, kết quả kinh doanh,....
Bốn: xuất phát từ quan điểm của tín dụng là bên vay vốn (chủ dự án)
phải hoàn trả ngân hàng đầy đủ và đúng hạn số vốn gốc và lãi vay. Trong
quá trình thẩm định NHTM đặc biệt quan tâm đến khả năng hoàn trả của
20