Biện pháp nhằm củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam
PHẦN I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI
THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG:
1. Khái niệm về thị trường:
Sản xuất hàng hoá là sản xuất để bán. Bán ở đâu? bán trên thị trường.
Vậy thị trường là cái tất yếu, là hợp phần bắt buộc của sản xuất hàng hoá.
Thị trường là nơi diễn ra sự chuyển nhượng, sự trao đổi, sự mua - bán hàng
hoá.
Điều quan trọng để hiểu được thực chất của thị trường là ở chỗ, thị
trường không phải chỉ đơn thuần là lĩnh vực trao đổi, di chuyển hàng hoá,
dịch vụ từ người sản xuất sang người tiêu dùng, mà là trao đổi được tổ chức
theo các quy luật của lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. C.Mác đã
từng chỉ ra rằng, lưu thông là quá trình tổng thể của trao đổi và là quá trình
hình thành và tích luỹ tiền tệ. Trong trao đổi diễn ra sự thay thế trực tiếp,
không tách rời sản phẩm này với sản phẩm khác, còn quá trình hình thành
tích luỹ tiền tệ chỉ diễn ra khi các hành vi mua, bán tách ra cả về không
gian, thời gian và cả người thực hiện hành vi đó. Lưu thông hành hoá giả
định mua và bán tách ra, tiền và hàng tách ra thành hai cực đối lập nhau,
nhưng không thể thiếu nhau trên thị trường. Cực lưu thông hàng hoá và cực
lưu thông tiền tệ. Có nghĩa là hàng hoá không tức khắc được chuyển thành
tiền và tiền thành hàng; Vì thế bản thân sự trao đổi không phải đương nhiên
thực hiện được. Nhằm giải quyết những khó khăn, mâu thuẫn ấy, giữa các
chủ thể của sản xuất - lưu thông có những quan hệ thị trường, để giải quyết
tương quan giữa giá cả và số lượng hàng hoá mua - bán. Vậy có thể hiểu,
thị trường là một quá trình, trong đó, người bán và người mua tác động qua
lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng của một hay nhiều thứ hàng hoá
khác nhau. Trong đời sống kinh tế, chúng ta gặp nhiều loại thị trường khác
nhau.
1
2.
Vai trò và phân loại thị trường
2.1 Vai trò:
Thị trường có vai trò quan trọng đối với sản xuất hàng hoá, kinh
doanh và quản lý kinh tế. Tái sản xuất hàng hoá gồm có sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng. Thị trường nằm trong khâu lưu thông. Như vậy
thị trường là một khâu tất yếu của sản xuất hàng hoá. Thị trường chỉ mất
khi sản xuất hàng hoá không còn. Như vậy, không nên và không thể coi
phạm trù thị trường chỉ gắn với nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Thị
trường là chiếc cầu nối của sản xuất và tiêu dùng. Thị trường là mục tiêu
của quá trình sản xuất hàng hoá. Thị trường là khâu quan trọng nhất của
quá trình tái sản xuất hàng hoá. Để sản xuất hàng hoá, xã hội phải chi phí
sản xuất, chi phí lưu thông. Thị trường là nơi kiểm nghiệm các chi phí đó và
thực hiện yêu cầu quy luật tiết kiệm lao động xã hội.
Thị trường không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán nó còn
thể hiện các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Do đó thị trường còn được coi là môi
trường của kinh doanh. Thị trường là khách quan, từng cơ sở sản xuất, kinh
doanh không có khả năng làm thay đổi thị trường mà ngược lại họ phải tiếp
cận để thích ứng với thị trường. Thị trường là ‘ tấm gương “ để các cơ sở
kinh doanh nhận biết nhu cầu xã hội để đánh giá hiệu quả kinh doanh của
chính bản thân mình. Thị trường là thước đo khách quan của mọi cơ sở
kinh doanh.
Trong quản lý kinh tế, thị trường có vai trò vô cùng quan trọng. Thị
trường là đối tượng, là căn cứ của kế hoạch hoá. Cơ chế thị trường là cơ
chế quản lý nền kinh tế hàng hoá. Thị trường là công cụ bổ sung cho các
công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Thị trường là môi trường
của kinh doanh, là nơi Nhà nước tác động vào quá trình kinh doanh của cơ
sở, là nơi quan trọng để đánh giá kiểm nghiệm, chứng minh sự đúng đắn
của các chủ trương chính sách và các biện pháp kinh tế của các cơ quan
nhà nước và các doanh nghiệp.
Thị trường là nơi phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh nó cho biết
hiện trạng tình hình sản xuất kinh doanh nhìn vào thị trường sẽ thấy được
tốc độ, trình độ và quy mô sản xuất kinh doanh đồng thời thị trường cũng
phá vỡ gianh giới của nền kinh tế tự nhiên tự cung , tự cấp để trở thành một
thể thống nhất trong toàn nền kinh tế quốc dân biến nền kinh tế tự nhiên
thành nền kinh tế hàng hoá.
2.2 Phân loại thị trường:
Một trong những bí quyết quan trọng nhất để thành công trong kinh
doanh là sự hiểu biết cặn kẽ tính chất của từng thị trường. Nhận biết được
2
đặc điểm và sự hoạt động của từng loại thị trường, các yếu tố tham gia vào
hoạt động của thị trường, từ đó thấy rõ đặc điểm hình thành và vận động
của giá cả thị trường, do đó cần phải nghiên cứu, phân loại các hình thái thị
trường.
2.2.1 Phân theo phạm vi lãnh thổ:
Thị trường dân tộc là hoạt động mua bán của những người cùng một
quốc gia và các quan hệ kinh tế diễn ra trong mua bán, chỉ ảnh hưởng tới
các vấn đề kinh tế chính trị trong phạm vi của nước đó.
Thị trường thế giới là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá
giữa các nước với nhau. Các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế giới
ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của mỗi nước.
Phân biệt thị trường dân tộc và thị trường thế giới không phải ở phạm
vi biên giới của những nước mà chủ yếu ở người mua và người bán, ở các
quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường. Với sự phát triển của kinh tế, của
khoa học kỹ thuật và phân công lao động thế giới, kinh tế mỗi nước trở
thành một mắt xích của hệ thống kinh tế thế giới, do đó, thị trường dân tộc
có quan hệ mật thiết với thị trường thế giới và mỗi thị trường dân tộc là một
bộ phận của thị trường thế giới. Thị trường thế giới ảnh hưởng to lớn tới thị
trường dân tộc. Hàng hoá trên thị trường thế giới, giá cả, tiền tệ trên thị
trường thế giới, các hoạt động thương gia trên thị trường thế giới đều ảnh
hưởng, chi phối tới các hoạt động kinh doanh, quan hệ cung cầu, giá cả trên
thị trường dân tộc. Do vậy, dự báo được sự tác động của thị trường thế giới
tới thị trường dân tộc là sự cần thiết và cũng là những nhân tố tạo ra sự
thành công đối với mỗi nhà kinh doanh trên thị trường dân tộc.
2.2.2 Phân loại theo hàng hoá lưu thông:
Vai trò của tư liệu sản xuất trong tái sản xuất xã hội quyết định vai
trò thị trường tư liệu sản xuất. Trên thị trường tư liệu sản xuất thường có
các nhà kinh doanh lớn. Sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ hơn. Quy mô thị
trường lớn. Khả năng hình thành thị trường thống nhất toàn quốc lớn. Nhu
cầu trên thị trường không phong phú, đa dạng như nhu cầu trên thị trường
tư liệu tiêu dùng. Nhu cầu đó tương đối rõ ràng. Khả năng chuyển đổi, thay
thế của nhu cầu tuy nhiều tuy có diễn ra nhưng thường bị hạn chế hơn so
với tư liệu tiêu dùng. Thị trường tư liệu sản xuất bị phụ thuộc nhiều vào thị
trường tư liệu tiêu dùng. Thị trường tư liệu sản xuất chủ yếu là thị trường
bán buôn.
3
Tính đa dạng, phong phú của nhu cầu người tiêu dùng cuối cùng
quyết định tính đa dạng, phong phú và sôi động của thị trường tiêu dùng.
Trên từng thị trường, số lượng người mua và người bán nhiều. Thị trường
phổ biến là thị trường cạnh tranh nhưng mức độ cạnh tranh không gay gắt
như trên thị trường tư liệu sản xuất. Khả năng hình thành các “ cửa hàng “
“khu phố” siêu thị của thị trường tư liệu tiêu dùng rất lớn. Hình thức mua
bán trên thị trường cũng rất phong phú. Thị trường bán lẻ là thị trường chủ
yếu của thị trường tư liệu tiêu dùng
2.2.3 Phân loại theo thị trường người bán và thị trường người mua:
Trên thị trường người bán, vai trò quyết định thuộc về người bán
hàng. Các quan hệ hình thành trên thị trường ( quan hệ cung - cầu; quan hệ
giá cả - tiền tệ; quan hệ cạnh tranh v.v...) hình thành không khách quan. Giá
cả bị áp đặt, cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện để hoạt động
các kênh phân phối và lưu thông không hợp lý; nhiều mặt hàng , loại hàng
cung ứng ra thị trường không theo yêu cầu của thị trường, vai trò của người
mua bị thủ tiêu.
Sự hình thành thị trường người bán, một mặt do sản xuất hàng hoá
chưa phát triển, mặt khác, quan trọng hơn là do sự tác động chi phối của cả
hệ thống quản lý kinh tế hành chính, bao cấp. Xoá bỏ cơ chế quản lý hành
chính bao cấp là yếu tố cực kỳ quan trọng để chuyển từ thị trường người
bán thành thị trường người mua.
Không nên hiểu thị trường người mua là đối lập, là ngược lại đối với
thị trường người bán. Trên thị trường người mua, vai trò quyết định trong
quan hệ mua bán thuộc về người mua. Chính vì vậy, thị trường là yếu tố
quyết định cuả quá trình tái sản xuất hàng hoá. Khẩu hiệu “ chỉ bán những
cái thị trường cần “ cũng được khái quát và kết luận từ thị trường này. Các
quan hệ kinh tế trên thị trường ( quan hệ tỷ lệ về sản phẩm, quan hệ cung
cầu, quan hệ giá cả và cung cầu v.v...) giá cả được hình thành một cách
khách quan. Thị trường người mua là môi trường khách quan cho sự hoạt
động của các quy luật kinh tế của thị trường. Với thị trường người mua, vai
trò của các quy luật kinh tế của thị trường được phát huy tác dụng. Thị
trường người mua không phải chỉ là công cụ điều tiết sản xuất xã hội mà nó
còn trở thành “công cụ” để bổ sung cho kế hoạch. Đối với thị trường người
mua, thái độ khôn khéo của nhà kinh doanh để đạt được thành công là nhận
thức, tiếp cận, xâm nhập và khai thác thị trường.
4
2.2.4 Phân loại theo thị trường trung tâm và không trung tâm:
Thị trường trung tâm là thị trường có khối lượng hàng hoá tiêu thụ
trên thị trường này chiếm tuyệt đại bộ phận so với tổng khối lượng hàng
hoá được đưa ra tiêu thụ ở các thị trường không trung tâm. Trên thị trường
trung tâm có các nhà kinh doanh lớn, số lượng các nhà kinh doanh lớn, sự
cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh cũng gay gắt và phức tạp hơn. Số lượng
người mau đông vì người mua thường có tâm lý tin tưởng vào các quan hệ
mua bán và sản phẩm trên thị trường. Trên thị trường trung tâm, sản phẩm
không những có khối lượng lớn mà chất lượng sản phẩm được bảo đảm và
ổn định. Các quan hệ kinh tế, giá cả diễn ra trên thị trường tương đối ổn
định. Giá cả trên thị trường trung tâm có ảnh hưởng rất lớn các quan hệ
kinh tế và giá cả trên các thị trường khác. Các điều kiện dịch vụ cho mua
và bán trên thị trường trung tâm cũng tốt hơn, thuận tiện hơn so với các thị
trường khác. Các cửa hàng siêu thị, khu phố siêu thị v.v...thường xuất hiện
trên thị trường trung tâm. Nhìn chung, khi các nhà kinh doanh đã xâm nhập
được thị trường trung tâm thì quá trình kinh doanh tương đối an toàn.
Do vai trò của thị trường trung tâm trong hệ thống thị trường nên
thông tin lấy từ thị trường trung tâm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
việc ra quyết định trong kinh doanh cũng như trong quản lý kinh tế.
2.2.5 Phân loại theo mức độ cạnh tranh:
Đây là dạng phân loại thị trường gắn liền với phương thức hình thành
và vận động của giá cả thị trường. Tiêu chuẩn cơ bản để phân loại ở đây là
vai trò của các doanh nghiệp ( người bán ) trong tương quan đối với toàn
thể thị trường ( tổng cung ) và vai trò của người mua trong tương quan với
tổng cầu hàng hoá. Theo cách phân loại này, có các dạng thị trường sau:
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường, trong đó không một
người bán hay mua nào có vai trò lớn trong toàn bộ thị trường của một hàng
hoá nhất định, từ đó không thể có ảnh hưởng quyết định đến giá cả thị
trường của hàng hoá đó.
+ Điều kiện cần thiết của sự tồn tại thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
Số người tham gia thị trường phải tương đối nhiều, do đó mọi người
mua, bán chỉ có mối liên hệ,ảnh hưởng rất nhỏ so với toàn thể thị trường.
Tức là, nếu một hoặc một nhóm nhỏ người bán hay người mua rút ra khỏi
thị trường thì tổng số cung hoặc tổng số cầu thay đổi không đáng kể, giá cả
cũng không thay đổi. Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả thị trường
5
hình thành và vận động độc lập với cả người mua và người bán. Họ chỉ
được coi là “những người nhận giá”, cá nhân họ không có vai trò quyết
định giá cả thị trường.
* Hàng hoá mua - bán trên thị trường phải đồng nhất, không có nhiều
sự khác biệt với nhau. Các yếu tố sản xuất cũng có thể di chuyển dễ dàng
từ nghành này sang nghành khác, hàng hoá cũng có thể bán ở bất cứ ở đâu
có giá cao hơn.
* Không có những hạn chế giả tạo được gây ra trên số cầu, số cung
và giá cả của các hàng hoá và tài nguyên. Giá cả tự do thay đổi theo quan
hệ cung - cầu, không bị hạn chế bằng các biện pháp hành chính của nhà
nước, vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả thị trường sẽ tiến
gần đến mức chi phí trung bình.
* Tất cả người mua, người bán đều có sự hiểu biết hoàn toàn và được
thông tin đầy đủ về tình hình cung - cầu, về điều kiện mua - bán về giá cả
của thị trường.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo:
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị trường, trong đó,
khối lượng sản phẩm của người bán có nhiều sự khác nhau, dẫn đến vai trò
của mỗi người bán có ảnh hưởng nhiều đến lượng cung ứng và giá cả trên
thị trường. Trên thực tế, rất ít sản phẩm thuộc loại thị trường cạnh tranh
không hoàn hảo mà phần lớn sản phẩm thuộc loại thị trường cạnh tranh
không hoàn hảo. Trong thị trường này, phần nào các doanh nghiệp có thể
kiểm soát được giá cả. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo thường có tác
dụng sau:
+ Thị trường độc quyền đơn phương:
Thị trường độc quyền đơn phương là thị trường chỉ có một người, nói
đúng hơn là một chủ thể bán ( người sản xuất duy nhất ) không có sản
phẩm khác có thể thay thế. Đó là hình thái thị trường độc quyền của một
người ( một chủ thể ) duy nhất bán hàng hay còn là độc quyền tự nhiên, ở
các nước trên thế giới cũng như ở nước ta, hình thái thị trường này chỉ tồn
tại trong một số ngành sản xuất nhất định như điện, nước, bưu điện...Trong
hình thái thị trường này, nhu cầu về sản phẩm ít co dãn, nên người bán có
thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và tự
quyết định giá, do đó giá cả thường cao hơn chi phí bình quân trong nọi
thời kỳ và doanh nghiệp luôn bảo đảm được lợi nhuận. Tuy nhiên, doanh
6
nghiệp cũng phải lựa chọn cho mình một mức giá bán thích hợp với một sản
lượng nhất định để có thể đạt lợi nhuận tối đa.
Để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, Nhà nước phải tham gia quản
lý vĩ mô đối với loại thị trường này bằng những biện pháp chống độc
quyền. Các nước thường sử dụng các biện pháp thuế, kiểm soát giá cả, quy
định luật lệ cấm liên kết để hình thành độc quyền, bảo vệ tự do cạnh tranh.
+ Thị trường độc quyền đa phương:
Thị trường độc quyền đa phương là thị trường, trong đó, số người
bán vừa đủ để cho những hoạt động của một người có ảnh hưởng đến lượng
cung và giá cả của những doanh nghiệp khác. Trên thị trường độc quyền đa
phương, những người bán có quạn hệ phụ thuộc tương hỗ nhau và có thể
chia ra làm hai loại:
* Một số người sản xuất cùng một sản phẩm, nhưng số người bán ít
lên mỗi người đều có thể ảnh hưởng lớn đến giá cả thị trường hoặc người
mua ít nên được quyền lựa chọn người bán hàng.
* Những người bán hàng , bán sản phẩm có thể thay thế cho nhau.
Do trên thị trường độc quyền đa phương còn có cạnh tranh nên giá cả
cũng thường biến đổi; các doanh nghiệp có thể tác động ít nhiều đến cung cầu và giá cả thị trường sản phẩm.
- Thị trường cạnh tranh độc quyền:
Thị trường cạnh tranh độc quyền là thị trường, trong đó, có nhiều
người bán hàng cùng một sản phẩm, nhưng sản phẩm của mỗi người bán ít
nhiều có sự khác nhau. Trong thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều
người bán và nhiều người mua, mỗi người có mối liên hệ rất nhỏ, ở đây họ
bán những sản phẩm khác nhau về chủng loại, quy cách, chất lượng, dịch
vụ cung ứng...Tức là các điều kiện mua - bán hàng rất khác nhau, nên giá
cả cũng khác nhau, mỗi người đều có thể tác động đến giá cả và sản lượng
ở một mức độ nhất định. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi sản phẩm được
bán trên thị trường và thị hiếu của người mua mà giá cả có thể dao động
trong phạm vi mức giá giới hạn, tức là trên thị trường cạnh tranh độc quyền
giá cả luôn biến động nhưng với mức độ nhỏ.
2.2.6 Phân loại theo thị trường khu vực và thị trường toàn quốc:
Thị trường khu vực bị chi phối nhiều của các nhân tố kinh tế - xã hội,
tự nhiên v.v...của các khu vực. Các quan hệ mua bán chủ yếu diễn ra trong
khu vực. Sức hút hàng hoá của thị trườngkhông lớn. Sự can thiệp của Nhà
7
nước trung ương vào thị trườngkhông nhiều. Sức chứa thị trường không
lớn.
Thị trường thống nhất toàn quốc có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế. Các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển nền kinh tế quốc dân. Sức hút hàng hoá cuả thị trường lớn và nó chi
phối sự vận động của các kênh lưu thông trong toàn quốc. Trên thị trường
thống nhất thường có các nhà kinh doanh lớn hoạt động. Sự tác động của
Nhà nước vào thị trường để bảo vệ thị trường, bảo vệ giá cả lớn. Sự ổn
định của các quan hệ kinh tế trên thị trường này không lớn bằng thị trường
khu vực.
II. CÁC CHỨC NĂNG VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI THỊ
TRƯỜNG:
Chức năng của thị trường là những tác động khách quan vốn có bắt
nguồn từ bản chất của thị trường tới quá trình tái sản xuất và đời sống kinh
tế xã hội.
1. Chức năng :
1.1
Chức năng thực hiện:
Hoạt động mua bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm cả thị trường.
Thực hiện hoạt động này là cơ sở quan trọng có tính chất quyết định đối với
việc thực hiện các quan hệ và hoạt động khác.
Thị trường thực hiện: hành vi trao đổi hàng hoá; thực hiện tổng số
cung và cầu trên thị trường; thực hiện cân bằng cung cầu từng thứ hàng
hoá; thực hiện giá trị ( thông qua giá cả ); thực hiện việc trao đổi giá trị
v.v...Thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá hình
thành nên các giá trị trao đổi của mình. Giá trị trao đổi là cơ sở vô cùng
quan trọng để hình thành nên cơ cấu sản phẩm, các quan hệ tỷ lệ về kinh tế
trên thị trường.
1.2 Chức năng thừa nhận:
Hàng hoá được sản xuất ra, người sản xuất phải bán nó. Việc bán
hàng được thực hiện thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Thị
trường thừa nhận chính là người mua chấp nhận thì cũng có nghĩa là về cơ
bản quá trình tái sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn thành. Bởi vì bản
8
thân việc tiêu dùng sản phẩm và các chi phí tiêu dùng cũng đã khẳng định
trên thị trường khi hàng hoá được bán.
Thị trường thừa nhận: tổng khối lượng hàng hoá ( tổng giá trị sử
dụng ) đưa ra thị trường; cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu đối
với từng hàng hoá; thừa nhận giá trị sở dụng và giá trị của hàng hoá,
chuyển giá trị sử dụng và giá trị cá biệt thành giá trị sử dụng và giá trị
xã hội; thừa nhận các hoạt động mua và bán v.v...
Thị trường không phải chỉ thừa nhận thụ động các kết quả của quá
trình tái sản xuất, quá trình mua bán mà thông qua sự hoạt động của các
quy luật kinh tế trên thị trường mà thị trường còn kiểm tra, kiểm nghiệm
quá trình tái sản xuất quá trình mua bán đó.1.3 Chức năng điều tiết, kích
thích:
Nhu cầu thị trường là mục đích của quá trình sản xuất. Thị trường là
tập hợp các hoạt động của các quy luật kinh tế cả thị trường. Do đó, thị
trường vừa là mục tiêu vừa tạo ra động lực để thực hiện các mục tiêu đó.
Đó là cơ sở quan trọng để chức năng điều tiết và kích thích của thị trường
phát huy vai trò của mình.
- Chức năng điều tiết và kích thích thể hiện ở chỗ:
+ Thông qua nhu cầu thị trường, người sản xuất chủ động di chuyển
tư liệu sản xuất, vốn và lao động từ ngành này qua ngành khác từ sản phẩm
này qua sản phẩm khác để có lợi nhuận cao.
+ Thông qua các hoạt động của các quy luật kinh tế của thị trường,
người sản xuất có lợi thế trong cạnh tranh sẽ tận dụng khả năng của mình
để phát triển sản xuất.gược lại những người sản xuất chưa tạo ra được lợi
thế trên thị trường cũng phải vươn lên để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Đó là
những động lực mà thị trường tạo ra đối với sản xuất.
+ Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế trên thị trường
người tiêu dùng buộc phải cân nhắc, tính toán quá trình tiêu dùng của mình.
Do đó thị trường có vai trò to lớn đối với việc hướng dẫn tiêu dùng.
+ Trong quá trình tái sản xuất, không phải người sản xuất, lưu thông
v.v...chỉ ra cách chi phí như thế nào cũng được xã hội thừa nhận. Thị
trường chỉ thừa nhận ở mức thấp hơn hoặc bằng mức xã hội cần thiết
( trung bình ). Do đó thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với kích
thích tiết kiệm chi phí, tiết kiệm lao động
9
1.4 Chức năng thông tin:
Trong tất cả các khâu ( các giai đoạn ) của quá trình tái sản xuất hàng
hoá, chỉ có thị trường mới có thể có chức năng thông tin. Trên thị trường
có nhiều mối quan hệ: kinh tế, chính trị, xã hội, dân tộc, v.v... Song thông
tin kinh tế là quan trọng nhất.
Thị trường thông tin về: tổng số cung và tổng số cầu; cơ cấu của
cung và cầu; quan hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá; giá cả thị
trường; các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường, đến mua và bán, chất lượng
sản phẩm, hướng vận động của hàng hoá; các điều kiện dịch vụ cho mua và
bán, các quan hệ tỷ lệ về sản phẩm v.v...
Thông tin thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với quản lý
kinh tế. Trong quản lý kinh tế, một trong những nội dung quan trọng nhất là
ra quyết định. Ra quyết định cần có thông tin. Các dữ kiện thông tin quan
trọng nhất là thông tin từ thị trường. Bởi vì các dữ kiện thông tin đó khách
quan, được xã hội thừa nhận.
Trong quản lý kinh tế, phủ nhận vai trò của thị trường thì cũng có
nghĩa là phủ nhận vai trò của thông tin đối với việc ra quyết định.
Bốn chức năng của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi
hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện bốn chức năng này.
Vì là những tác dụng vốn có bắt nguồn từ bản chất của thị trường, do đó
không nên đặt vấn đề chức năng nào quan trọng nhất hoặc chức năng nào
quan trọng hơn chức năng nào. Song cũng cần thấy rằng chỉ khi chức năng
thừa nhận được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường
2.1 Nhân tố kinh tế:
Các nhân tố kinh tế có vai trò quyết định. Bởi vì nó tác động trực
tiếp tới cung cầu, giá cả, tiền tệ, quan hệ cung cầu, v.v...Các nhân tố thuộc
về kinh tế rất phong phú.
2.2 Nhân tố chính trị - xã hội:
Các nhân tố thuộc về chính trị - xã hội cũng ảnh hưởng to lớn tới thị
trường. Các nhân tố này thường được thể hiẹn qua chính sách tiêu dùng,
dân tộc, quan hệ quốc tế, chiến tranh và hoà bình v.v...Nhân tố chính trị xã hội tác động trực tiếp tới kinh tế và do đó cũng tác động trực tiếp tới thị
trường.
10
2.3 Nhân tố tâm - sinh lý:
Các nhân tố tâm, sinh lý tác động mạnh mẽ tới người tiêu dùng và do
đó tác dộng mạnh mẽ tới nhu cầu và mong muốn trên thị trường.
2.4 Nhân tố thời tiết:
Cũng như các nhân tố thuộc về tâm - sinh lý, nhân tố thời tiết, khí
hậu cũng ảnh hưởng trực tiếp to lớn tới người tiêu dùng, tới nhu cầu và
mong muốn. Tuy nhiên thời tiết, khí hậu cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới sản
xuất, tới cung của thị trường.
2.5 Nhân tố thuộc quản lý vĩ mô:
Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô là các chủ trương, chính sách, biện
pháp của nhà nước các cấp tác động vào thị trường. Thực chất những nhân
tố này thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với thị trường, sự điều tiết của
nhà nước đối với thị trường.
Tùy theo điều kiện cụ thể của từng nước, từng thị trường, từng thời
kỳ mà các chủ trương, chính sách và biện pháp của Nhà nước tác động vào
thị trường sẽ khác nhau. Song những chính sách, những biện pháp hay được
sử dụng là: thuế, quỹ điều hoà giá cả, bảo hiểm giá cả v.v...Mỗi biện pháp
có vai trò khác nhau tới thị trường. Song nhìn chung, các biện pháp này tác
động trực tiếp vào hoặc cung hoặc cầu và do đó cũng tác động gián tiếp
vào giá cả. Đó là ba yếu tố quan trọng nhất của thị trường. Những nhân tố
này tạo ra môi trường cho kinh doanh. Đó cũng là nhân tố mà các cơ sở
kinh doanh không quản lý được.
2.6 Nhân tố thuộc vi mô:
Những nhân tố thuộc quản lý vi mô là những chiến lược, chính sách
và biện pháp của các cơ sở kinh doanh sử dụng trong kinh doanh. Những
nhân tố này rất phong phú và phức tạp. Những nhân tố này thường là các
chính sách làm sản phẩm thích ứng với thị trường, phân phối hàng hoá, giá
cả quảng cáo, các bí quyết cạnh tranh v.v...Đó cũng là những chiến lược,
chính sách, biện pháp để các cơ sở kinh doanh tiếp cận và thích ứng với thị
trường, v.v...Các cơ sở kinh doanh quản lý được các nhân tố này
11
III. CÁC QUY LUẬT CỦA THỊ TRƯỜNG:
Sản xuất hàng hoá được biểu hiện tập trung và đầy đủ nhất trên thị
trừơng. Trên thị trường, có rất nhiều quy luật kinh tế hoạt động. Do đó, cần
có sự phân loại và giới hạn khi nghiên cứu quy luật kinh tế của thị trường.
Trên các loại thị trường đều có sự hoạt động của ba quy luật kinh tế phổ
biến của thị trường là :
1. Quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Quy luật này yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên
cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Trong
sản xuất, lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí
lao động xã hội cần thiết. Trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang
giá.
Giá cả hàng hoá phụ thuộc vào giá trị và các nhân tố khác như quan
hệ cung cầu, tình trạng độc quyền trên thị trường. Giá cả hàng hoá trên thị
trường xoay xunh quanh trục giá trị. Tổng giá cả hàng hoá luôn bằng tổng
giá trị của chúng.
Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá;
kích thích lực lượng sản xuất phát triển; thực hiện sự bình tuyển tự nhiên,
phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo.
2.
Quy luật cung cầu:
Cung, cầu là hai phạm trù kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị
trường. Cung cầu không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường xuyên tác động
qua lại nhau, có quan hệ biện chứng với nhau. Quan hệ cung cầu là quan hệ
bản chất, thường xuyên lặp đi lặp lại của kinh tế thị trường. Nó trở thành
quy luật của kinh tế thị trường.
Sự tương tác giữa cung và cầu hàng hoá và dịch vụ tạo nên giá cả
bình quân. Gọi là giá cả bình quân nhưng nó lại luôn luôn giao động trứơc
tác động trước sự tác động của nhiều lực. Cung cầu do tác động của nhiều
yếu tố nên thường xuyên biến động, sự biến động này lại làm thay đổi giá
cả bình quân. Khi giá cả bình quân của một loại hàng hoá nào đó giao
12
động, lai tác động đến giá cả của các loại hàng hoá khác, vì khả năng thay
thế và bổ sung lẫn nhau của chúng.
Có nhiều trường hợp giá cả không bao giờ ổn định mà chỉ xoay
quanh một mức giá bình quân. Hiện tượng này do sự dự đoán số lượng
cung cầu không sát thực. Một yếu tố khác là kỳ vọng của nhà sản xuất, thu
hẹp hoặc mở rộng sản xuất, bao gồm kỳ vọng cả sản lượng lẫn giá cả.
Người mua cũng có những kỳ vọng riêng của mình. Điều đáng quan tâm là
sự thay đổi về những kỳ vọng của người mua hay người bán lại trở
thànhđộng cơ quyền lợi riêng tư, đẩy họ vào trạng thái cạnh tranh.
Cung cầu cân đối là tạm thời. Do đó, các thị trường luôn biến động.
Sự biến động đó thể hiện qua thước đo giá cả thị trường. Mức cung lớn hơn
mức cầu thì giá giảm, mức cung bằng mức cầu thì ta có giá cả bình quân,
mức cung nhỏ hơn mức cầu thì giá cả tăng lên.
3. Quy luật cạnh tranh:
Sự tự do trong sản xuất kinh doanh với nhiều thành phần kinh tế
tham gia là nguồn gốc của sự cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật trong nền
kinh tế thị trường. Cạnh tranh về mặt kinh tế khác hẳn sự cạnh tranh để
đoạt một giải thưởng. Nó là một cuộc chạy đua không phải một lần rồi thôi
mà là một quá trình liên tục. Đó là một cuộc chạy ‘ maratông kinh tế “
không có đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy đích, người đó trở thành nhịp
cầu cho các đối thủ vượt lên phía trước. Chạy đua kinh tế phải luôn ở phía
trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau. Đó là sự cạnh tranh
về chất lượng, hiệu quả, về giá cả, về dịch vụ phục vụ khách hàng giữa
người mua và người bán, giữa những người mua và những người bán với
nhau. Không thể lẩn trách cạnh tranh, vì như vậy cầm chắc phá sản, phải
chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng, linh hoạt sử dụng
vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh thực hiện
bốn chức năng cơ bản: Cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá , dịch vụ giảm
xuống; Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu
vào của sản xuất, kinh doanh; Cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải
không ngừng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; Cạnh tranh là công cụ
tước quyền thống trị, độc quyền về kinh tế trong lịch sử.
13
4.
Quy luật lưu thông tiền tệ:
Quy luật này chỉ ra rằng số lượng ( hay khối lượng ) tiền lưu thông
phải phù hợp với tổng giá trị hàng hoá lưu thông trên thị trường. Số lượng
ấy được tính như sau:
Số lượng ( khối lượng )
Tiền cho lưu thông
Tổng giá trị hàng hoá lưu thông
Tốc độ quay vòng của tiền
Tiền tệ là phương tiện của trao đổi ( lưu thông ), là thứ dấu mỡ bôi
trơn cho quá trình trao đổi. Nếu vi phạm quy luật này sẽ dẫn tới ách tắc
trong lưu thông hoặc lạm phát, gây khó khăn, dẫn đến mất ổn định nền kinh
tế.
IV. CÁC CHÍNH SÁCH NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG
TIÊU THỤ CỦA DOANH NGHIỆP.
1.
Chính sách sản phẩm.
Theo quan điểm cổ điển, sản phẩm là tổng hợp các đặc tính vật lý,
hoá học, có thể quan sát, được tập hợp trong một hình thức đồng nhất là vật
mang giá trị sử dụng. Trong nền sản xuất hàng hoá, sản phẩm chứa đựng
các thuộc tính của hàng hoá. Nó là sự thống nhất của hai thuộc tính: Giá trị
sử dụng và giá trị . Nói cách khác đi sản phẩm - với tư cách là một hàng
hoá, nó không chỉ là sự tổng hợp các đặc tính hoá học, vật lý, các đặc tính
sử dụng mà còn là vật mang giá trị trao đổi hay giá trị.
Sản phẩm theo quan điểm của Marketing là sản phẩm cho người
mua, người sử dụng. Sự mở rộng, chuyển hoá, thay thế phát triển của nhu
cầu ở người tiêu dùng là rất đa dạng và phong phú, nó mở ra một phạm vi
khai thác rộng lớn của Marketing sản phẩm. Chính sách sản phẩm trong
Marketing có nội dung rất rộng nó bao gồm một số hướng chủ yếu sau đây:
- Chính sách chủng loại:
Trong kinh doanh hiện nay, rất hiếm có doanh nghiệp nào chỉ có một sản
phẩm duy nhất. Điều đó rất nguy hiểm cho doanh nghiệp trong điều kiện thị
trường luôn luôn thay đổi theo không gian, thời gian giới tính tuổi tác, nghề
nghiệp, thu nhập v.v ... Với độc nhất một loại sản phẩm doanh nghiệp khó
tránh khỏi rủi ro và không thể nào thực hiện được mục tiêu an toàn. Vì thế
14
họ phải quan tâm đến việc soạn thảo một chính sách chủng loại thích hợp
bao gồm:
+ Chính sách thiết lập chủng loại:
Là tiếp tục bảo đảm giữ gìn vị trí đã chiếm được trên thị trường.
Bằng những loại sản phẩm có thành tích kỹ thuật cao chiếm được cảm tình
và tín nhiệm của khách hàng doanh nghiệp cần phải có những biện pháp
củng cố uy tín của sản phẩm đồng thời cũng là uy tín của doanh nghiệp đối
với khách hàng. Doanh nghiệp có thể duy trì phần thị trường đã chiếm lĩnh
được, củng cố lòng tin của khách hàng thông qua những loại sản phẩm đã
và còn tiếp tục cung cấp cho họ trong một cấp hạng chủng loại không lớn
lắm, đặc biệt là những máy móc trong ngành cơ khí chính xác như máy
tính, máy đo, máy kiểm tra, thiết bị chỉnh lý v.v ...Những sản phẩm mà
doanh nghiệp thường có địa chỉ tiêu thụ rõ ràng, người sản xuất có ưu thế
về kỹ thuật, còn người tiêu dùng khi đã quen và tín nhiệm nhãn hiệu sản
phẩm của doanh nghiệp cũng sẽ ít chịu tác động của yếu tố thị trường.
+ Chính sách hạn chế chủng loại
Sau một thời gian tung một loại sản phẩm ra thị trường có tính chất thử
nghiệm và cũng sau một thời gian nghiên cứu hiệu chỉnh cá thông số của
sản phẩm doanh nghiệp nhận được luồng thông tin phản hồi từ thị trường
giúp cho doanh nghiệp nhận biết được sản phẩm nào được người tiêu dùng
ưa chụng nhất, doanh nghiệp có thể khẳng định được một chủng loại hạn
chế những sản phẩm cung cấp cho thị trường với những ưu thế chẳng hạn
như giảm mức tiêu hao nhiên liệu trong chế tạo, giảm trọng lượng, tăng độ
an toàn và khả năng thích dụng, việc hạn chế chủng loại sản phẩm cho phép
doanh nghiệp chuyên môn hoá sâu giảm chi phí mà vẫn bán được sản
phẩm.
+ Chính sách biến đổi chủng loại tiếp tục
Là chính sách thay đổi thể thức thoả mãn nhu cầu, nhờ đó doanh
nghiệp có thể nâng cao số lượng người tiêu thụ. Sự biến đổi chủng loại
không nhất thiết đòi hỏi doanh nghiệp phải có những sản phẩm hoàn toàn
mới. Doanh nghiệp có thể tạo ra những sản phẩm mới trên một số kích
thước, hình thức, mầu sắc, mùi vị của sản phẩm gốc đang được tiêu thụ
rộng rãi trên thị trường bằng cách làm khác đi ít nhiều so với cái đã có. Giá
cả của những sản phẩm mới này có thể giữ như giá sản phẩm gốc hoặc có
thể nâng lên chút ít để tạo ra sự hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Chính
sách biến đổi chủng loại còn bao gồm cả việc cải tiến về hình dáng, vật liệu
15
và cách trang trí bao bì. Trong nhiều trường hợp, các đặc tính kỹ thuật và
sử dụng của bản thân sản phẩm vẫn giữ nguyên như cũ song chỉ có thay đổi
về bao bì cũng có thể mang lại cho doanh nghiệp những cơ hội tiêu thụ lớn
như một số sản phẩm đồ hộp.
- Chính sách hoàn thiện và nâng cao các đặc tính sử dụng của
các sản phẩm trong thích ứng với nhu cầu của người tiêu dùng.
Một sản phẩm với tư cách một hàng có nhiều công dụng. Công dụng
của hàng hoá làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng, song sở dĩ hàng hoá đó
có được những công dụng khác nhau vì nó có được những đặc tính sử dụng
khác nhau.
Các đặc tính này sẽ thoả mãn những nhu cầu khác nhau trong việc
tiêu dùng chúng. Tổng hợp tất cả các đặc tính đó lại, tức là tổng hợp tất cả
những năng lực nhiều mặt vốn có của sản phẩm cho ta một năng lực chung,
tổng quát thoả mãn được nhu cầu nhiều mặt của người tiêu dùng. Năng lực
đó gọi là chất lượng sản phẩm. Có rất nhiều lĩnh vực quan tâm nghiên cứu
chất lượng sản phẩm. Người sản xuất đôi khi chỉ thiên về khía cạnh kỹ
thuật của chất lượng sản phẩm, nghĩa là quan tâm đến những tham số chất
lượng sản phẩm, có thể đo lường được bằng các công cụ đo lường vật lý,
hoá học song ít khi người ta đặt ra câu hỏi để hoàn thiện hay nâng cao một
tham số chất lượng sản phẩm ( các đặc tính sử dụng ) sẽ phải tốn kém ra
sao và mức chất lượng đã đạt được phù hợp và thoả mãn tới mức độ nào
nhu cầu người tiêu dùng, liệu có mang lại lợi lộc gì trong hoạt động cải tiến
và nâng cao chất lượng sản phẩm. Marketing sản phẩm nghiên cứu các đặc
tính sử dụng và chất lượng sản phẩm trong mối quan hệ biện chứng giữa hai
quá trình: Kỹ thuật và kinh tế, đó là: Sản phẩm hoàn thiện về các thông số
kỹ thuật, các đặc tính sử dụng phải phù hợp với yêu cầu của người tiêu
dùng thông qua việc họ chấp nhận mua nó và như vậy mà người sản xuất,
người bán thu được lợi nhuận. Quan điểm Marketing ở đây luôn là: “ Các
đặc tính sử dụng và chất lượng sản phẩm “ cho người tiêu dùng và người
tiêu dùng sẽ hoàn trả laị sự cố gắng của doanh nghiệp trong việc nâng cao
các đặc tính sử dụng và chất lượng sản phẩm. Nếu điều đó không xảy ra thì
chính sách sản phẩm đã đi lệch hướng. Chính sách hoàn thiện và nâng cao
các đặc tính sử dụng của sản phẩm được triển khai theo các hướng sau:
+ Hoàn thiện về cấu trúc kỹ thuật của sản phẩm.
+ Nâng cao các thông số về độ bền vận hành, độ an toàn, khả năng
chống thấm nước, chống ẩm v.v...
16
+ Thay đổi kiểu dáng, kích thước cỡ sản phẩm.
+ Quan tâm đặc biệt đến màu sắc, mùi vị sản phẩm.
+ Thay đổi các vật liệu chế tạo.
+ Hạn chế hoặc vứt bỏ những chi tiết hay hỏng, ít phù hợp với công
chúng, thay vào đó những bộ phận, chi tiết phù hợp với đòi hỏi của khách
hàng.
- Chính sách đổi mới chủng loại
Chính sách đổi mới chủng loại hướng vào việc phát triển một số sản
phẩm mới cho thị trường hiện nay hay phát triển một số sản phẩm mới cho
khu vực mới của khách hàng. Chính sách này mang lại kết quả khá cao.
Nhìn chung trong giai đoạn trưởng thành của các sản phẩm ghi trong danh
mục chế tạo của doanh nghiệp, việc đổi mới các chủng loại làm cho khối
lượng tiêu thụ tăng lên, giúp cho doanh nghiệp chẳng những củng cố được
khu vực thị trường hiện tại mà còn có khả năng tấn công vào những đoạn
mới của thị trường hoặc vươn ra các khu vực thị trường mới vì nó mở rộng
khả năng thoả mãn nhu cầu bằng những sản phẩm mới, những sản phẩm
được hoàn thiện về các thông số kỹ thuật và các đặc tính sử dụng; tăng
cường khả năng trao đổi các khu vực tiêu dùng, hạn chế sự suy thoái nhanh
của sản phẩm.
2.
Chính sách giá
Chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh
doanh là việc qui định mức giá bán hoặc trong một số trường hợp là những
mức giá bán ( khi doanh nghiệp quyết định thay đổi giá cả sản phẩm này
theo loại khách hàng, theo các thời kỳ trong năm, theo số lượng mua...)
mức giá cần qui định có thể là mức giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng
hoặc cho các khâu trung gian. Vì vậy, việc xác lập một chính sách giá đúng
đắn là điều kiện cực kỳ quan trọng đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh
nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, có hiệu quả và chiếm
lĩnh thị trường. Tuy nhiên giá cả chịu tác động của rất nhiều nhân tố. Sự
hình thành và vận động của nó rất phức tạp. Việc xác lập một chính sách
giá hợp lý đòi hỏi phải giải quyết tổng thể nhiều vấn đề.
- Luật pháp và chính sách chế độ quản lý giá cả của Nhà nước
17
Các đơn vị kinh tế cơ sở khi xác lập chính sách giá cho sản phẩm
riêng của mình phải tuân theo các chính sách, chế độ, các qui định trong
lĩnh vực hình thành giá của Nhà nước. Đó là các nguyên tắc và phương
pháp hình thành giá chung; điều lệ hạch toán giá thành và chi phí lưu thông,
là chính sách thuế và các biểu thuế.
Căn cứ vào vị trí của hàng hoá trong nền kinh tế Nhà nước có thể can
thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc định giá. Trừ một số ít mặt hàng độc
quyền quản lý của Nhà nước, giá cả do Nhà nước trực tiếp qui định còn đa
số mặt hàng nhà nước chỉ quản lý gián tiếp bằng các luật pháp qui định ở
trên.Trong đó những mặt hàng mà nhà nước qui định khung giá chuẩn, các
cơ sở sản xuất lưu thông có quyền quyết định mọi giá bán cuối cùng trên
tinh thần thoả thuận và gắn với các điều kiện mua bán nằm trong phạm vi
khung giá đó. Còn đối với các mặt hàng khác, Nhà nước không qui định giá
chuẩn hay khung giá thì đơn vị kinh tế cơ sở có toàn quyền quyết định hoặc
thoả thuận giá trong hợp đồng kinh tế theo luật định.
- Những yêu cầu bắt buộc về phía thị trường
Mức độ cạnh tranh trên thị trường là một yếu tố khách quan tác động
trực tiếp đến giá cả. Cùng với quan hệ cung cầu trên thị trường, mức độ
cạnh tranh tạo nên mức giá thống trị trên thị trường.Cường độ cạnh tranh và
sự thay đổi cung cầu sẽ làm cho mức giá trên thị trường thay đổi. Phần lớn
những thay đổi này là chịu sự tác động trực tiếp chủ quan của các đơn vị
kinh tế cơ sở. Thông thường cạnh tranh càng khốc liệt thì giá càng giảm và
các chi phí cho các hoạt động xúc tiến, yểm trợ càng tăng.
Vì vậy, trên thực tế, các đơn vị kinh tế cơ sở phải tự thích nghi với
giá đang thống trị trên thị trường, tức là ít có ảnh hưởng đến giá cạnh
tranh.Mặc dù khi qui định giá sản phẩm của mình doanh nghiệp không có
quan hệ gì với giá thực tế của những người cạnh tranh nhưng doanh nghiệp
không thể không xét đến những giá cạnh tranh.Bởi vì quyết định giá của
doanh nghiệp chịu tác động vật chất của hoạt động của những người cạnh
tranh.
Gía của doanh nghiệp có khả năng tách rời ít nhiều so với giá của
cạnh tranh nhưng khả năng này thay đổi theo từng loại sản phẩm. Thông
thường những sản phẩm càng”thông thường”(tức là ít khả năng phân biệt
với sản phẩm canh tranh) thì ít có khả năng tách rời với giá cạnh tranh.
Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp kiểm soát được một bộ phận quan trọng
hàng hoá cung ứng ra thị trường và áp dụng các biện pháp khác thì doanh
18
nghiệp có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường.Điều đó có nghĩa là
doanh nghiệp đã có vị trí dẫn đầu về giá và có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến
mức giá cạnh tranh.
Điều quan trọng nữa khi xác lập chính sách giá để tung sản phẩm ra
thị trường là doanh nghiệp phải hiểu biết, phân tích và dự đoán được tiềm
năng của thị trường. Tiềm năng của thị trường là khả năng thị trường hấp
thụ một loạt hàng hoá nào đó theo một mốc giá nào đó và trong một khoảng
thời gian nhất định. Khi nói đến tiềm năng thị trường tức là nói đến nhu cầu
có khả năng thanh toán về một loại hàng hoá nào đó, quan hệ giữa nhu cầu
và giá cả, sự đàn hồi của cầu dưới ảnh hưởng của các yếu tố khác v v...
Tiềm năng thị trường về hàng hoá hình thành khách quan với doanh
nghiệp.
Khi qui định giá bán, doanh nghiệp phải ước đoán được dung lượng
thị trường, xác định được tỷ lệ khối lượng sản phẩm do mình cung ứng ra
thị trường sẽ chiếm là bao nhiêu để thoả mãn tổng số nhu cầu có khả năng
thanh toán về hàng hoá đó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải xác định
phần thị trường của mình hay mức độ thoả mãn nhu cầu của thị trường.
+ Những yêu cầu bắt buộc về phía xí nghiệp
Trong những chừng mực nhất định, đây là những yếu tố có thể chi
phối được.
* Cơ cấu chi phí sản xuất sản phẩm
Giá bán có mối quan hệ hữu cơ với chi phí sản xuất. Tuy nhiên mối
quan hệ này không đơn giản. Trước tiên giá bán phải được hình thành trên
cơ sở cơ cấu chi phí sản xuất sản phẩm. Đối với doanh nghiệp, giá bán phải
bù đắp đủ chi phí đã bỏ ra và có lãi. Các chi phí này bao gồm chi phí phát
sinh trong sản xuất sản phẩm, bao bì, đóng gói, các chi phí bán hàng, phân
phối, chi phí hỗ trợ Marketing như chi quảng cáo, xúc tiến bán hàng.
Những chi phí này thuộc quyền kiểm soát của doanh nghiệp nhưng chỉ có
giơí hạn. Họ cần biết rõ chi phí là bao nhiêu. Mặt khác chi phí sản xuất
không phải là con số độc lập với giá bán mà phụ thuộc một phần vào giá
bán bởi vì giá bán có ảnh hưởng đến khối lượng bán và đến lượt mình, khối
lượng bán lại có ảnh hưởng đến chi phí sản xuất đơn vị sản phẩm. Do đó,
quan hệ “ chi phí sản xuất - gía bán” không phải chỉ là một chiều mà là
quan hệ biện chứng. Khi qui định giá bán, các đơn vị kinh tế cơ sở phải tính
đến cơ cấu chi phí sản xuất tức là quan hệ giữa tổng chi phí và các bộ phận
của nó với khối lượng sản xuất cũng như chi phí sản xuất đơn vị sản phẩm.
19
- Chất lượng và uy tín của sản phẩm
Đây cũng là một yêu cầu phải tính đến khi xác định giá bán bởi vì
nếu sản phẩm có chất lượng cao, độc đáo thường cho phép định giá bán
cao hơn những sản phẩm cùng loại. Trong nhiều trường hợp sự chênh lệch
về gía bán do chất lượng sản xuất ra những sản phẩm có nhiều sự chênh
lệch về chi phí để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng khác nhau đó.
Uy tín sản phẩm cũng có tác động đến giá tương tự như vậy. Người tiêu
dùng sẵn sàng trả giá cao hơn nhiều cho những sản phẩm mà họ tín nhiệm
trên thị trường.
- Đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa chính sách giá cả và các chính
sách khác của doanh nghiệp.
Chính sách giá cả là một bộ phận của Marketing hỗn hợp, nó nằm
trong tổng thể các chính sách khác của doanh nghiệp. Vì vậy luôn luôn phải
gắn chính sách giá với chính sách khác một cách chặt chẽ nhằm thực hiện
mục tiêu của chiến lược chung Marketing. Chính sách giá phải hướng vào
việc phục vụ mục tiêu của chiến lược tài chính bởi vì hiệu quả kinh tế cuối
cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận chỉ có thể được thực hiện thông qua
giá bán hàng hoá. Nhiều chính sách khác của doanh nghiệp như phân phối,
quảng cáo, giao lưu truyền cảm sản phẩm đều nhằm tăng sức mạnh, uy tín
của sản phẩm và qua đó tăng giá bán sản phẩm trên thị trường. Biểu hiện
cụ thể của những yêu cầu bắt buộc đối với chính sách giá của doanh nghiệp
là gía mỗi hàng hoá thường nằm trong một vùng giá nhất định. Nghĩa là đối
với mỗi hàng hóa trên thị trường nào đó thường có giá giới hạn cao và giới
hạn thấp. Việc xác định giới hạn cao và giới hạn thấp của giá dựa trên cơ
sở phân tích tình hình chi phí sản xuất, dự đoán khối lượng bán và nghiên
cứu tình hình thị trường cũng như những qui định của Nhà nước. Cụ thể
giới hạn giá được hình thành dưạ vào các yếu tố sau:
-Quy chế quản lý giá của Nhà nước(khung giá, mức giá chuẩn do
Nhà nước khống chế)
-Mức giá thống trị trên thị trường cạnh tranh
-Cơ cấu chi phí sản xuất. Trong nhiều trường hợp chi phí sản xuất
sản phẩm được coi là giới hạn thấp của giá bán(giá bán hoàn vốn)
- Yêu cầu mục đích thâm nhập thị trường của doanh nghiệp.
Như vậy hầu như tất cả các loại sản phẩm đều có một vùng giá nhất
định mà trong đó có sự cạnh tranh về giá cả của những người sản xuất cùng
loại hàng hoá đó và cung ứng ra thị trường. Tất nhiên, trong những trường
20
- Xem thêm -