A – LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan THTT (tiến hành
tố tụng) được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế trong đó có biện pháp
ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng được quy
định tại Chương VI Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Nhằm tránh việc lợi
dụng của các cơ quan THTT và người THTT khi áp dụng áp dụng những
biện pháp này xâm hại đến quyền con người Luật TTHS quy định chặt chẽ
mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng.
Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất trong hệ thống biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự. Các quy định
về những biện pháp là cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng và người
có thẩm quyền có thế tác động một cách hợp pháp đến một số quyền cơ bản
của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định và bảo hộ nhằm ngăn
chặn tội phạm, ngăn ngừa tội phạm trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây
khó khăn trong tố tụng hình sự cũng còn là một phương tiện góp phần đảm
bảo thực hiện các quyền tự do dân chủ của công dân, hạn chế và ngăn ngừa
sự xâm phạm một cách tùy tiện trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Trong số những biện pháp ngăn chặn mà BLTTHS quy định thì “bắt
người” có một vị trí rất quan trọng, bởi lẽ đây là một biện pháp ngăn chặn có
tính chất cưỡng chế rất nghiêm khắc, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến
quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định.
1
B – NỘI DUNG
I – LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
1.Bắt người trong tố tụng hình sự
1.1. Định nghĩa:
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng
đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình
sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn
tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự.
1.2. Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam
Bắt người là biện pháp thường được áp dụng trong đấu tranh chống tội
phạm. Mục đích là để ngăn chặn hành vi phạm tội và việc lẩn trốn pháp luật
của bị can, bị cáo. Bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Toà
án quyết định đưa ra xét xử để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hình sự. Như vậy, đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can,
bị cáo. Người chưa bị khởi tố với tư cách là bị can, hoặc người không bị Toà
án đưa ra xét xử không thể bị bắt để tạm giam. Nếu người chưa bị khởi tố
với tư cách là bị can, hoặc người không bị Toà án đưa ra xét xử mà vẫn bị
bắt để tạm giam thì có nghĩa các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện
không đúng quy định pháp luật, quyền con người, quyền công dân của người
bị bắt không được đảm bảo. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải là
2
biện pháp duy nhất để ngăn chặn, vì vậy không phải mọi bị can, bị cáo đều
bị bắt để tạm giam. Khi bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải căn cứ vào tính
chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội và thái độ của
họ khi và sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Chỉ được bắt người để tạm
giam khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội
và nếu xét thấy cần phải bắt để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, xử
lý tội phạm. Khi có những điều kiện, dấu hiệu cho thấy người phạm tội
không có ý trốn tránh pháp luật, không gây khó khăn cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án thì không nên bắt (thậm chí không được bắt) mà
có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Chẳng hạn, người phạm tội
lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành
động cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì không cần bắt để tạm
giam.
1.3. Bắt người trong mối quan hệ với các biện pháp ngăn chặn khác
trong tố tụng hình sự.
Bắt người và những biện pháp ngăn chặn khác luôn tồn tại mối quan hệ
tác động lẫn nhau, chúng cùng có chung một bản chất – đều là những biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được thực hiện bằng sức mạnh của quyền
lực Nhà nước, đều luôn gắn liền với sự tác động và hạn chế các quyền tự do
cá nhân của đối tượng áp dụng. Sở dĩ biện pháp bắt người và một số biện
pháp ngăn chặn là vì các biện pháp này khi áp dụng đều có chung mục đích
ngăn chặn, phòng ngừa.
2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự.
2.1. Mục đích:
- Nhằm kịp thời ngăn chặn tội pham.
- Ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho công tác điều tra.
3
- Ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội.
- Ngăn chặn hành vi gây khó khăn, cản trở việc thi hành án.
2.2. Ý nghĩa:
- Thể hiện đường lối, chính sách của Nhà nước ta trong việc xử lý
những hành vi phạm tội.
- Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước bằng pháp luật.
- Là cơ sở pháp lý để co quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền
tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong những
trường hợp cần thiết, nhằm đạt được mục đích của tố tụng hình sự.
- Thể hiện thái độ kiên quyết, triệt để của Nhà nước trong đấu tranh
phòng ngừa tội phạm, tiến tới hạn chế và loại trừ tình trạng phạm tội ra khỏi
đời sống xã hội.
3. Yêu cầu đối với việc áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự.
Yêu cầu về chính trị: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt
người chính là sự cụ thể hóa đường lối, chính sách của Nhà nước trong đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Yêu cầu về pháp luật:
+ Việc bắt người phải đúng đối tượng, có căn cứ.
+Việc bắt người phải đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục do BLTTHS
quy định.
+ Triệt để tuân thủ các quy định về trình tự thủ tục áp dụng các trường
hợp bắt cụ thể.
Yêu cầu về nghiệp vụ: Kịp thời, nhanh chóng, chính xác, có sự chuẩn bị
chu đáo và áp dụng đúng chiến thuật trong từng trường hợp cụ thể, tránh tư
tưởng vội vàng, nôn nóng dễ dẫn đến chủ quan, sơ hở khi bắt người, dẫn tới
gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe của người áp dụng.
4
II –QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ BẮT NGƯỜI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
1.Quy định của pháp luật hiện hành về bắt người trong tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định 3 trường hợp bắt người sau:
–
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
–
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
–
Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
1.1.Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (điều 80 BLTTHS năm 2003)
Đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng đối tượng áp dụng để tạm
giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình
sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối
tượng bắt để tạm giam. Mục đích của bắt người trong trường hợp này là để
tạm giam, cho nên trước khi quyết định bắt, cơ quan có thẩm quyền cần xác
định có cần thiết bắt bị can, bị cáo đó để tạm giam hay không. Thông
thường, các cơ quan tiến hành tố tụng thường căn cứ vào tính chất của tội
phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các đặc điểm về nhân thân cũng
như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết
vụ án.
–
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam (k1 điều 80
BLTTHS năm 2003)
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can, do thủ trưởng, phó thủ trưởng
cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh bắt
bị can để tạm giam phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành. Những lệnh bắt người không có sự phê chuẩn của viện kiểm sát cùng
cấp sẽ không có giá trị thi hành. Thời hạn xem xét để ra quyết định phê
chuẩn hay không phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam là ba ngày kể từ khi
5
viện kiểm sát nhận được công văn đề nghị xét phê chuẩn cùng các tài liệu có
liên quan đến việc bắt.
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do viện trưởng,
phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và viện kiểm sát quân sự các cấp
quyết định.
Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do chánh
án, phó chánh án tòa án nhân dân và tòa án quân sự các cấp, thẩm phán giữ
chức vụ chánh tòa, phó chánh tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao; Hội
đồng xét xử quyết định.
– Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam (k2 và k3 điều 80 BLTTHS
năm 2003).
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm
quyền, lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra
lệnh. Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích
lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Khi bắt phải lập biên bản
bắt người. khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại diện
chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng
kiến. khi tiến hành bắt người tại nơi làm việc của họ phải có mặt đại diện
của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt làm việc chứng kiến. không bắt người
vào ban đêm trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Việc quy định
nêu trên vừa thể hiện sự nghiêm khắc của nhà nước trong đấu tranh phòng
chống tội phạm vừa là sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, tránh
mọi tác động trái pháp luật tới các quyền nay.
1.2.Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (điều 81 BLTTHS năm 2003)
– Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Đây là trường hợp cơ quan thẩm quyền đã có quá trình theo
6
dõi hoặc kiểm tra, xác minh nguồn tin. Việc bắt người trong trường hợp này
cần phải đảm bảo hai điều kiện sau:
Có căn cứ khẳng định một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm.
Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
– Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi bắt người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm chính mắt trông thấy và xác định đúng là người đã thực hiện tội phạm
mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Đây là trường hợp tội
phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một
thời gian, người bị hại có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy
đã xác nhận đúng là người thực hiện tội phạm. Trong trường hợp này tính
chất của tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện không đóng vai trò quyết
định trong việc xác định lý do bắt khẩn cấp. Lý do phải bắt đối với người
phạm tội ở đây chính là việc có đủ cơ sở để khẳng định người đó đã thực
hiện tội phạm và nếu không bắt ngay họ sẽ trốn. Việc bắt người trong trường
hợp này cần phải đảm bảo hai điều kiện sau:
+Phải có người có mặt nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực
tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm.
Người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể là người bị hại hoặc người
khác đã chính mắt trông thấy người phạm tội và hành vi phạm tội được thực
hiện và trực tiếp xác nhận với cơ quan có thẩm quyền đúng là người đã thực
hiện tội phạm.
+Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Những căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn thường là:
Đang có hành động bỏ trốn, đang chuẩn bị trốn;
Không có nơi cư trú rõ ràng;
7
Có nơi cư trú nhưng ở quá xa;
Là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn
Chưa xác định được nhân thân của người đó (căn cước lý lịch không rõ
ràng).
Đối với trường hợp khác thì vẫn tiến hành việc giải quyết vụ án mà
không cần bắt khẩn cấp.
– Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở
người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ
để xác định người đó thực hiện tội phạm, nhưng qua việc phát hiện thấy có
dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người mà người đó bị nghi
thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn việc người này bỏ trốn hoặc
tiêu huỷ chứng cứ thì bắt khẩn cấp.
Việc bắt người trong trường hợp này cần bảo đảm hai điều kiện sau:
+ Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị
nghi thực hiện tội phạm.
+ Cần ngăn chặn ngay việc người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc
tiêu huỷ chứng cứ.
*Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
Theo Khoản 2 Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định những người sau
đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
+Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
8
+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương
đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân
bay, bến cảng.
*Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Về cơ bản cũng được BLTTHS quy định và áp dụng tương tự như thủ
tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng có một số điểm khác.
Thứ nhất: Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê
chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.
Thứ hai: Sau khi bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho
Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản cùng các tài liệu liên quan để xét và
phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê
chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát
quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho
người bị bắt.
Thứ ba: Trong trường hợp khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào,
không kể ban ngày hay ban đêm.
1.3.Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82
BLTTHS năm 2003)
– Bắt người phạm tội quả tang
9
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện
tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi
bắt.
Những trường hợp phạm tội quả tang bao gồm:
+ Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
+ Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
+ Đang bị đuổi bắt.
– Việc bắt người đang bị truy nã
+ Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã:
Để huy động và phát huy tính tích cực của quần chúng trong cuộc đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội và
trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể
và công dân, BLTTHS năm 2003 quy định bất kỳ người nào có quyền bắt
người phạm tội quả tang hoặc người bị truy nã.
+ Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã không cần lệnh
của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào. Sau khi bắt người phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã, người bắt phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan công
an, VKS hoặc Uỷ ban nhân dân gần nhất.
1.4.Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt (Điều 83, 85
BLTTHS năm 2003).
Cần tiến hành giao nhận người bị bắt để cơ quan có thẩm quyền sớm có
biện pháp điều tra, khám phá tội phạm. Khi giao nhận hai bên giao và nhận
phải lập biên bản.
10
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn
24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận
người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để
đến nhận người bị bắt.
2.Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố tụng hình sự.
2.1.Những điểm đã đạt được.
Như chúng ta đã biết việc bắt người là một biện pháp quan trọng trong
việc phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm. Khác với Điều luật trước kia, việc
bắt người chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.... Quy định
này nhằm góp phần hạn chế tối đa việc lạm dụng chức vụ, quyền hạn làm
ảnh hưởng đến quyền tự do của người dân và thể hiện tư tưởng tiến bộ của
các Nhà làm Luật…
2.2.Những điểm chưa đạt được: Thực tiễn vận dụng các quy định của
pháp luật về bắt người còn có những hạn chế nhất định.
Tình trạng bắt người khẩn cấp vẫn còn cao, bắt hình sự rồi xử lý hành
chính vẫn còn nhiều, cá biệt còn có nơi có lúc bắt người không đúng người
đúng tội. Bên cạnh những vi phạm trong bắt người ở một số địa phương
cũng còn có những trường hợp rụt rè, hữu khuynh, thiếu kiên quyết trong
việc bắt những phần tử tội phạm nguy hiểm cần phải bắt giữ và xử lý, làm
cho quần chúng nhân dân thiếu tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp luật.
Việc bắt người đang bị truy nã còn có nhiều lỗ hổng. Theo quy định
của BLTTHS thì đối tượng bị truy nã chỉ có thể là bị can, bị cáo. Quy định
11
này chưa bao hàm các đối tượng khác như: Người trốn khỏi nơi tạm giữ,
trốn thi hành án….
Bộ Luật tố tụng Hình sự đã qua 3 lần sửa đổi, bổ sung tuy nhiên qua
các lần bổ sung, điều mà mọi người quan tâm là trách nhiệm của những cán
bộ thực thi trong các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra oan sai cho người dân
sẽ bị xử lý như thế nào thì còn chưa được quy định một cách thuyết phục.
Những năm gần đây bắt, giam, giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân.
Việc bắt người tuỳ tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam
người không có Lệnh đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có trường hợp cơ quan cấp dưới
giữ người nhưng không báo cáo cơ quan có thẩm quyền, xử lý vụ việc tùy
tiện, xâm hại nghiêm trọng đến quyền tự do, quyền được bảo hộ về danh dự,
nhân phẩm của con người. Trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch
Tuyết và cô Hắc Thị Bạch Thủy tại tỉnh Bình Thuận mà báo chí đã phản ánh
là một trong những ví dụ vi phạm pháp luật không đáng xảy ra nếu người thi
hành công vụ có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Thật khó tin khi chỉ mới
nghi ngờ cô Hắc Thị Bạch Tuyết và em gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng
giả mà chủ tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ
Lầu; và tại đây, được công an thị trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện
“giữ” chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày 21/1 đến 2 giờ ngày 22/1/2006, thậm
chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám xét [1].
III – MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT
NGƯỜI TRONG LUẬT TTHS
Thứ nhất, hoàn thiện một số quy định của Luật Tố tụng Hình sự, Luật
cần quy định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá
12
nhân của người ra lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt để bắt đúng người phạm
tội tránh oan sai, bên cạnh đó cũng cần tôn trọng và bảo đảm những quyền
và lợi ích chính đáng của người bị bắt. Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cũng
cần quy định rõ hơn về các điều:
+ BLTTHS 2003 chưa có điều luật nào quy định việc bắt người là đại
biểu dân cử; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân; người có chức
sắc trong các tôn giáo; người có danh tiếng, có uy tín lớn trong các dân tộc ít
người; tri thức, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ý
tới và người nước ngoài. Trong khi đó việc bắt những “đối tượng đặc biệt”
này được quy định trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước, văn bản
của Đảng và Bộ Công an, như: Luật Tổ chức Quốc hội, luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Công văn số 318/CV-BNV(V11) ngày
29/3/1992 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc xin ý kiến trước khi
bắt, giam, giữ một số đối tượng đặc biệt… Vì vậy thiết nghĩ cần phải ban
hành văn bản hướng dẫn thống nhất, chi tiết việc bắt các đối tượng nêu trên
cho phù hợp.
+ Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80
BLTTHS, với tên gọi của chế định này là: “Bắt bị can, bị cáo để tạm
giam”nên đã dẫn đến cách hiểu: “Bắt người là một biện pháp để thực hiện
lệnh tạm giam”. Theo chúng tôi, cách hiểu như vậy là không đúng bởi lẽ nếu
coi “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm
giam thì việc cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên căn
cứ pháp lý nào? Vì vậy xác định tên gọi của chế định này là “bắt tạm giam
bị can, bị cáo”.
- Thực tế cho thấy việc bắt người bị kết án để thi hành bản án mà
trước đó họ chưa bị tạm giam cũng gặp nhiều bất cập. Vì vậy cần ban
hành mẫu lệnh bắt thống nhất “Lệnh bắt người bị kết án để thi hành án”
13
theo thẩm quyền của Tòa án, giao cho lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư
pháp thực thi theo thủ tục chung.
- Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS
quy định hình phạt tù dưới 2 năm thì không bị bắt để tạm giam; nhưng
đối với các trường hợp bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc
có nơi cư trú nhưng ở cách xa Cơ quan điều tra hoặc có tiền án tiền sự
hoặc là lưu manh chuyên nghiệp có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bắt tạm giam.
- Khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định “Không được bắt người
vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt
người đang bị truy nã quy định tại các Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật
này” thuật ngữ này chưa chính xác, không thống nhất mà phải quy định
rõ “không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm”.
+ Về khoản 4 Điều 81 BLTTHS có quy định về thẩm quyền xét phê
chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện Kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối
với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy
đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn
biên phòng ở hải đảo và biên giới” và “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi
tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” quy định tại điểm b, c khoản
2 Điều 81 của Bộ luật này” thì rất khó xác định được Viện Kiểm sát cùng
cấp như khi tàu bay đang bay trên bầu trời, tàu biển đang ở ngoài biển... Do
đó, cần quy định bổ sung trong khoản 4 Điều 81 với nội dung “đối với
trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền để xét
phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là Viện Kiểm sát nơi có sân bay hoặc bến cảng
trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký” .
+ BLTTHS 2003 quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã trong cùng một điều luật tại Điều 82 BLTTHS. Việc bắt người
14
trong hai trường hợp này quy định: “ Đối với người đang thực hiện tội phạm
hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng
như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải
ngay đến Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần
nhất”. Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định này cho
thấy: Quy định chung việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
vào cùng một điều luật là không phù hợp, vì đối tượng và thủ tục áp dụng,
những việc cần làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong hai trường hợp này
không giống nhau.
Điều 82 BLTTHS hiện hành chỉ quy định thủ tục bắt người phạm tội
quả tang hoặc đang bị truy nã mà thiếu các quy định về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với người bị bắt, các vấn đề cần phải giải quyết sau
khi tiếp nhận người bị bắt. Những nội dung này lại được quy định trong
Điều 83 BLTTHS: Khoản 1 quy định những vấn đề cần phải làm sau khi tiếp
nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; khoản 2 quy định
những việc cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp
đang bị truy nã. Vì thế nên quy định các nội dung này trong một điều luật
cho rõ căn cứ bắt, thẩm quyền, thủ tục bắt trong từng trường hợp và những
việc cần làm sau khi bắt. Việc làm này bảo đảm tính khoa học về mặt kỹ
thuật lập pháp, góp phần hạn chế được những thiếu sót khi xây dựng pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Thứ hai, về cơ chế thực hiện Quốc hội cần bám sát thực tiễn cuộc sống,
nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối,
chính sách của Đảng thành pháp luật . Tiếp nhận sự phản hồi từ các cơ quan
thực thi pháp luật, các nhà nghiên cứu, ý kiến đóng góp của nhân dân để sửa
đổi, bổ sung cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện đảm bảo tốt các
quyền con người, quyền công dân. Tăng cường công tác giám sát đối với các
15
cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng. HĐND cần thực
hiện tốt chức năng giám sát và hoạt động chất vấn đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng tại địa phương để đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động có
hiệu quả, đúng pháp luật.
Thứ ba, đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói
riêng, cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. nắm chắc các quy định
của pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam; hiểu rõ tính chất, mục đích của các
biện pháp tạm giữ tạm giam; đảm bảo khi thực hiện bắt người phải có lệnh
và có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, hạn chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu”
khi bắt người; tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam; phối hợp và tạo điều kiện thuận
lợi cho luật sư tham gia quá trình bắt, tạm giữ, tạm giam khi giải quyết vụ
án.
Thứ tư, đối với Viện kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi đã xác định rõ
căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Viện
kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, nghiên cứu kỹ tài liệu
vụ án, gặp trực tiếp hỏi kỹ càng điều tra viên, những người có liên quan đến
vụ án, và cả người bị bắt về các tình tiết của vụ án để quyết định phê chuẩn
hay không phê chuẩn lệnh bắt. Trong trường hợp bắt người không có căn cứ
thì Viện kiểm sát kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt. Mỗi kiểm sát viên
cần phải luôn đề cao trách nhiệm, ý thức pháp luật, ý thức chính trị trong
quá trình thực thi công vụ của mình.
16
C – KẾT LUẬN
Bắt người là biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công
dân, quyền con người của người bị bắt. Mục đích của các biện pháp này là
để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm,
đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo
vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng khi
áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bởi vì, một số hoạt động tố
tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền được thông tin... của người bị bắt. Nắm vững nội dung, thẩm
quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các
quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân khi thực
thi công vụ.
Vì vậy cần phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định việc
bắt. Việc bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc
17
đấu tranh, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng
như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của
người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
được thuận lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trường đại học luật Hà Nội
Nhà xuất bản: CAND. Năm 2006.
Bộ luật TTHS năm 2003. NXB: CTQG năm 2004.
Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam. Vũ Gia Lâm Luận văn thạc
sỹ luật học. Hà Nội năm 2000
Tạp chí nhà nước và pháp luật số 06/134 năm 1999.
Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam – Nguyễn
Tiến Đạt – Đại học An ninh nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
[1] Theo http//www2.thanhnien.com.vn/phapluat/2006/3/15/142136.tno
18
MỤC LỤC
Tra
ng
A – LỜI NÓI ĐẦU.........................................................................................1
B – NỘI DUNG..............................................................................................2
I – Lý luận chung về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự................2
1.Bắt người trong tố tụng hình sự...........................................................2
2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự......3
3. Yêu cầu đối với việc áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình
sự.............................................................................................................4
II – Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về bắt người
và thực tiễn áp dụng....................................................................................4
1.Quy định của pháp luật hiện hành về bắt người trong tố tụng hình sự.
.................................................................................................................4
2.Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố tụng hình
sự...........................................................................................................10
III – Một số vấn đề hoàn thiện biện pháp ngăn chặn bắt người trong Luật
Tố tụng hình sự VN...................................................................................12
C – KẾT LUẬN............................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................17
19
20
- Xem thêm -