Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN
----- -----
LÊ HỮU THỜI
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỆ THỐNG HÓA
KIẾN THỨC VÀ CỦNG CỐ KĨ NĂNG TRONG TIẾT
ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN LỚP 10 (BAN CƠ BẢN)
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ văn
Cán bộ hướng dẫn:
VÕ HUY BÌNH
Cần Thơ, 5-2013
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 1
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
LỜI CẢM ƠN
----- -----
Ai ơi ghi nhớ lời này
Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy chớ quên.
Bốn năm ở giảng đường Đại học là bốn năm tôi phải sống phụ thuộc vào gia
đình, ra sức phấn đấu học tập để tự mình trang bị kiến thức và kĩ năng bước vào đời.
“Công cha”, “nghĩa mẹ”, “ơn thầy” là những nhân tố quan trọng tiếp thêm niềm tin,
nghị lưc giúp tôi vượt qua khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Nó quyết
định đến sự thành công tương lai, sự nghiệp của tôi. Vì thế, là một người con đất Việt,
tôi phải biết sống sao cho phù hợp với những giá trị truyền thống tốt đẹp của người
Việt.
Luận văn tốt nghiệp đánh dấu sự kết thúc quá trình học tập của bốn năm Đại
học, là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa tương lai. Đây là lần đầu tiên tôi nghiên cứu
một vấn đề khoa học, nên không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện
đề tài. Nhưng nhờ sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Võ Huy Bình, sự hỗ trợ của các
bạn, sự động viên của gia đình và nỗ lực tìm tòi của bản thân, những khó khăn đó dần
dần được khắc phục và tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô đã dẫn dắt và truyền đạt những kiến thức, kĩ năng
cho tôi trong suốt quá trình học tập. Tôi xin cảm ơn tất cả các bạn đã giúp đỡ tôi trong
việc tìm tài liệu nghiên cứu. Đặc biệt, tôi kính gởi lời biết ơn chân thành đến thầy Võ
Huy Bình – người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành tốt công trình nghiên cứu.
Cần Thơ, ngày 3 tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Lê Hữu Thời
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 2
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ ngàn đời nay, văn chương đã khẳng định được giá trị của mình đối với xã hội
và trong đời sống chúng ta. Nó luôn được sử dụng như một công cụ đắc lực và không
ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng xã hội và giữ
gìn phẩm chất đạo đức con người. Người giáo viên được mệnh danh là “kĩ sư tâm
hồn”. Họ không chỉ truyền đạt những kiến thức bổ ích làm hành trang tương lai cho
học sinh mà còn đem đến những rung động, cảm xúc thẩm mĩ, tạo nên sự phát triển
cân đối, toàn diện về tâm hồn, trí tuệ và xây dựng nhân cách cho các em. Lênin từng
khẳng định “nếu không tích lũy được kiến thức của nhân loại thì người cộng sản chỉ là
những anh nói khoác. Văn như một môn học phải vũ trang, nhất thiết phải vũ trang
cho học sinh những kiến thức cơ bản, có hệ thống, vững chắc được quy định trong
chương trình” [5; tr.54].
Thực tế những năm gần đây, môn Ngữ văn trong các trường phổ thông đang dần
đánh mất vị thế của một môn học cuốn hút, say mê học trò thuở nào giờ đây chỉ còn là
những tiết học thụ động, khiến học sinh cảm thấy nhàm chán. Cũng chính vì thế, vấn
đề học văn trong nhà trường lại trở thành một đề tài thời sự nóng bỏng thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà báo, nhiều nhà văn, nhà giáo và phụ huynh học sinh. Từ nhiều góc
nhìn và trăn trở khác nhau, dư luận và cả thực tế hướng đến nhiều vấn đề đa dạng,
phong phú: học sinh hiện nay không thích học văn, có sự sa sút về chất lượng học văn
ở học sinh, những điều bất cập trong chương trình và sách giáo khoa, phương pháp dạy
học cũ kĩ, tồn tại một số học sinh học theo kiểu đối phó, học sinh lười đọc, lười suy
nghĩ về tác phẩm văn học, ngại viết, ngại luyện kĩ năng diễn đạt,... Thực trạng trước
mắt đã đặt ra câu hỏi bức thiết phải nâng cao chất lượng học tập của học sinh, phải có
những phương pháp dạy học mới để khôi phục động lực học tập, khơi dậy niềm say
mê, tình yêu văn học của học sinh bằng những giờ học thật sự hấp dẫn, lôi cuốn.
Những tiết ôn tập cuối năm là một phần rất quan trọng, giúp học sinh hệ thống
hóa toàn bộ khối lượng kiến thức được dạy trong nhiều tuần, thậm chí suốt cả học kì.
Thế nhưng nhìn chung ở cấp phổ thông, vấn đề củng cố và rèn luyện kĩ năng cho học
sinh trong tiết ôn tập chưa được quan tâm và hầu như tất cả các giáo viên hơi xem nhẹ
tiết dạy này. Thiết nghĩ, thời gian là điều kiện tốt nhất để nâng cao tri thức, nhưng nó
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 3
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
cũng là “một chất ăn mòn” làm mai một tri thức nếu như ta không biết cách khơi gợi,
nhắc lại và củng cố một cách có hệ thống. Vì thế, phải có biện pháp giúp học sinh hệ
thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong tiết ôn tập để nâng cao chất lượng dạy và
học văn trong nhà trường. Giáo viên phải từng bước chuyển từ phương pháp dạy
truyền thụ kiến thức sang phương pháp dạy học mới. Trong đó, học sinh dưới sự tổ
chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh bài văn, tự rút ra những kết
luận, những bài học cần thiết. Một số giáo viên có quan niệm cho rằng, tiết ôn tập
không thật sự quan trọng vì những kiến thức đó đã được truyền đạt cho học sinh từ
trước, hay họ ngại vì tốn nhiều thời gian và công sức. Trái lại, tổ chức tốt tiết ôn tập sẽ
mang lại nhiều hiệu quả. Những học sinh khá, giỏi sẽ nắm kiến thức vững vàng và đào
sâu tri thức hơn, còn những học sinh trung bình, yếu thì giúp các em hệ thống kiến
thức lại một lần nữa. Từ đó có thể giúp quá trình học tập cũng như con đường tiếp
nhận tri thức của học sinh ngày càng vững chắc, sâu rộng.
Qua đó, ta thấy được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc giúp học sinh củng
cố kiến thức và rèn luyện kĩ năng trong tiết ôn tập. Vì thế, người viết đã chọn đề tài
Biện pháp giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong tiết ôn tập
môn Ngữ văn lớp 10 (Ban cơ bản) để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mặc dù hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng cho học sinh trong tiết ôn tập
có vai trò quan trọng nhưng qua khảo sát của chúng tôi hiện nay, chưa có nghiên cứu
nào tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ về những biện pháp giúp học sinh hệ
thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong các tiết ôn tập Ngữ văn. Những tài liệu
nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này chỉ dừng lại ở việc trình bày một số ý kiến,
quan điểm riêng lẻ và rời rạc. Người viết đã chọn lọc những tài liệu làm cơ sở cho việc
hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng cho học sinh nhằm để khẳng định, đánh giá
lại đề tài mà người viết đã chọn để tiến hành nghiên cứu.
Trước hết là ý kiến về vấn đề tự ôn tập của bản thân học sinh và suy nghĩ của
giáo viên trong quá trình hệ thống lại kiến thức cho các em. Trong cuốn Phương pháp
dạy học văn, Phan Trọng Luận đã khẳng định: “Học sinh chúng ta chưa có những kĩ
năng và thói quen bền vững: thói quen đọc sách, báo, văn nghệ, kĩ năng nói và viết
trong giao tiếp xã hội, trình bày kiến thức văn học. Trong bài giảng giáo viên chưa
chú ý thích đáng bài tập thực hành trên lớp, bài tập về nhà. Việc kiểm tra động viên
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 4
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
học sinh hoạt động độc lập để thu nhận tri thức, hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ
năng văn học như đọc, kể, thuyết trình, bình luận, làm tóm tắt nội dung tác phẩm, tóm
tắt cốt truyện, lập bảng hệ thống nhân vật, phát hiện hệ thống luận điểm trong văn học
sử, lập dàn ý chặt chẽ trong tập làm văn chưa được coi trọng thường xuyên. Kĩ năng
chưa biến thành hành vi tự động, chưa thành thói quen bền vững thì rất dễ dàng bị xóa
mất” [4; tr.75]. Ý kiến này đã chứng minh được việc bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng chủ
yếu là do học sinh, các em phải có một thái độ đúng đắn, biết lập kế hoạch học tập,
biết cách để nâng cao tri thức rèn luyện kinh nghiệm. Cũng có thể nói rằng, đó là một
phần các em tự ôn tập cho mình, tìm ra phương hướng học tập tốt, biết khái quát lại
kiến thức, nhìn nhận, đánh giá lại vấn đề. Đây cũng là việc làm cần thiết, tự học sinh
ôn tập đối với tất cả các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Bên cạnh việc
các em tự ôn tập cho mình, người giáo viên cũng cần tìm biện pháp giúp các em hệ
thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng, ôn tập lại vấn đề đã học. Vai trò của người
giáo viên là định hướng, tác động để giúp học sinh ôn tập lại kiến thức nhưng một số
giáo viên chưa thể phát huy và thực hiện hết chức năng này. Trong cuốn Phương pháp
dạy học văn, tập 1, Phan Trọng Luận cũng đã đề cập “có giáo viên chỉ làm một cách
vội vàng ít có hiệu quả khâu kết thúc bài giảng. Đây không phải là chuyện lặp lại nội
dung đã phân tích mà là một bước có vị trí riêng của quá trình phân tích tác phẩm.
Trong quá trình phân tích học sinh có khi đã dừng lại lâu ở những chi tiết, những sự
kiện cụ thể của tác phẩm. Cho nên nhất thiết phải có sự tổng kết nội dung phân tích để
tạo được một cái nhìn tổng thể về bài tập, về tác phẩm” [5; tr.273]. Ý kiến này đã
khẳng định được vị trí của việc củng cố bài sau mỗi tiết học, góp phần thành công
trong việc dạy học của người giáo viên. Điều này càng cho thấy việc ôn tập ở những
tiết cuối năm lại hết sức cần thiết. Nó ôn tập lại toàn bộ kiến thức của một phần
chương trình hoặc một năm học, giúp học sinh hệ thống lại kiến thức, lắp đầy lỗ hỏng
và đào sâu tri thức hơn. Đồng thời còn củng cố được kĩ năng, nâng cao chất lượng học
tập của học sinh.
Ôn tập là một phần không thể thiếu đối với học sinh, nó chiếm một vị trí quan
trọng trong một môn học của cả năm học. Nó làm sống lại kiến thức, kĩ năng cho học
sinh, làm cho cách nhìn nhận của các em được sâu rộng hơn. Trong cuốn Phương pháp
dạy học văn, tập 2, Phan Trọng Luận đã nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của tiết ôn
tập văn học sử “ôn tập đó có tác dụng rất lớn đối với việc củng cố, nâng cao cũng như
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 5
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
hệ thống hóa kiến thức văn học sử cho học sinh. Lâu nay, một số giáo viên thường coi
nhẹ các bài ôn tập. Sách giáo khoa cũng hướng dẫn ôn tập một cách sơ sài, thường là
chỉ bằng một số câu hỏi. Cần đánh giá đúng mức tác dụng của ôn tập văn học sử để
tìm kiếm các phương hướng dạy sao cho có hiệu quả” [6; tr.117]. Ông đã nói lên được
sức mạnh, chất lượng của tiết ôn tập mang lại cho học sinh và khẳng định được giá trị
của nó trong chương trình môn học. Giá trị của tiết ôn tập là cần phải có bàn tay của
giáo viên và học sinh thực hiện. Người giáo viên cần phải có cách nhìn xác đáng để
tiến hành ôn tập cho học sinh, người học sinh cũng phải tích cực, chủ động và làm theo
sự hướng dẫn của giáo viên. Từ đó, ta thấy “khâu củng cố kết quả học tập trên lớp
không những thể hiện đúng đắn sự vận dụng quy luật tiếp nhận văn chương vào quá
trình giảng văn mà còn có tác dụng đưa học sinh vào những hoạt động thực hành gắn
người học sinh với đời sống văn học văn hóa của bản thân và của tập thể” [4; tr.209].
Hoạt động học văn phải gắn liền với những yêu cầu, quy luật của nó, phải có những
biện pháp thích hợp. Khâu ôn tập chính là một phần không thể thiếu trong việc học
văn, là một quá trình tiếp nhận tri thức tốt, biết khái quát, đào sâu kiến thức, biết được
những kĩ năng cần thiết trong học tập cũng như trong đời sống xã hội.
Để có thể giúp học sinh hệ thống hóa lại kiến thức và củng cố kĩ năng trong tiết
ôn tập thì người giáo viên cần phải có nhiều biện pháp, tạo được một quá trình dạy học
thật lí thú, phù hợp “đó là quá trình hoạt động nhận thức tự giác của học sinh, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn về mặt sư phạm của giáo viên, nhằm mục đích nắm kiến
thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành thế giới quan và phát triển nhân cách cũng như năng
lực riêng về trí tuệ” [2; tr.119]. Thật vậy, người giáo viên cũng đóng vai trò chủ đạo
trong việc giúp học sinh hệ thống lại kiến thức và củng cố kĩ năng trong quá trình học
tập, là người dẫn dắt, tìm hướng đúng cho học sinh tiếp nhận tri thức. Một người giáo
viên giỏi nhất thiết không phải ở chuẩn kiến thức của họ mà còn là con đường, biện
pháp của họ giúp cho học sinh nắm được kiến thức, hình thành nên những kĩ năng
trong học tập và trong cuộc sống. Việc học tập không chỉ thể hiện ở sự truyền đạt kiến
thức của người thầy mà còn thể hiện ở sự tự tìm tòi, nghiên cứu của học sinh. Chúng
phải có sự tác động qua lại lẫn nhau thì kết quả thu nhận được mới thực sự có hiệu
quả. Một quá trình dạy học thì bao giờ cũng cần có sự trao đổi giữa thầy và trò, trao
đổi về kiến thức, về kĩ năng làm bài. Chính từ đó mới có thể để lại dấu ấn sâu, và trở
thành kiến thức của chính bản thân học sinh. Như Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 6
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
trong quyển Lí luận dạy học Địa Lí phần đại cương cũng đề cập “Tác động giữa giáo
viên và học sinh trong quá trình dạy học không phải là tác động đơn giản, mà là tác
động qua lại độc đáo, trong đó giáo viên phải tổ chức hoạt động dạy làm sao để khêu
gợi, phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trang bị cho các em những kĩ
năng độc lập công tác để tự mình nhận thức, lĩnh hội được tri thức chuyển hóa chúng
thành năng lực của bản thân” [2; tr.120]. Đúng vậy, chính sự tác động qua lại đó là
một cơ hội, một phương pháp tốt để cho học sinh tiếp nhận kiến thức, hình thành kĩ
năng cho chính mình. Tiết ôn tập cũng rất cần thiết trong sự tác động qua lại đó, bởi
học sinh có sự tiếp thu và phản hồi kiến thức. Đây cũng là một nguyên tắc chung để áp
dụng ôn tập cho học sinh.
Ôn tập là công việc thực hiện để đáp ứng yêu cầu của việc giảng dạy Ngữ văn
trong nhà trường phổ thông. Nhưng ta cần phải biết ôn tập như thế nào để có thể dễ
dàng cho học sinh tiếp nhận tri thức và hình thành được kĩ năng. Đó là điều băn khoăn
của các giáo viên. Trong cuộc thi Sáng tạo Giáo dục tác giả Hồng Điều cũng đã nhận
xét “nhiều đề tài đặc biệt chú ý tới kĩ năng sống, kĩ năng làm việc theo nhóm – điều
cần thiết của công dân trong một thế giới chuyển động và đòi hỏi sự thích ứng nhanh
nhẹn như thời đại hiện nay” [3; tr.61]. Có thể thấy việc học của học sinh cần chú ý đến
hợp tác nhóm, thông qua đó mà người học có thể nêu lên chính kiến của mình, tiếp
nhận ý kiến của người khác để từ đó rút ra bài học cho bản thân. Đồng thời, làm việc
nhóm cũng góp phần hình thành nên nhiều kĩ năng cho học sinh: kĩ năng giao tiếp,
trình bày một vấn đề,... Ôn tập là tiết có số lượng kiến thức nhiều, nó bao quát và hệ
thống khối lượng kiến thức của cả học kì hoặc cả một năm học nên việc học theo
nhóm là rất cần thiết. Thời gian qua đi có những kiến thức học sinh còn mang đậm dấu
ấn, có kiến thức đã bị mờ nhạt. Thông qua việc học tập này, các em có thể bổ sung
kiến thức lẫn nhau, hoàn thành cho mình một kiến thức chuẩn theo chương trình học.
Và học theo nhóm cũng có thể tiết kiệm được thời gian, làm cho tiết học diễn ra
nhanh, đúng thời gian quy định của chương trình. Bên cạnh đó, trong Tạp chí Giáo
dục số 192 kì 2 năm 2008, tác giả Lê Ngọc sơn cũng đã nêu lên biện pháp giúp hình
thành và phát triển kĩ năng cho học sinh “dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là
quá trình dạy học trong đó giáo viên tạo ra tình huống vấn đề, điều khiển học sinh
phát hiện và giải quyết vấn đề, thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ năng và
đạt được những mục đích học tập khác” [12; tr.23]. Đây được xem là một phương
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 7
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
pháp dạy học hay trong tiết ôn tập, nhưng cần đòi hỏi cao ở người giáo viên là phải
biết cách thiết lập câu hỏi phù hợp, nhất là câu hỏi có vấn đề có vấn đề và học sinh
phải biết tích cực tham gia hoạt động theo yêu cầu của giáo viên. Như thế mới có thể
hoàn thành tiết ôn tập tốt, hoàn thành tốt hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học
của học sinh. Để có được kết quả như vậy, người giáo viên cần phải thiết kế bài dạy
trước ở nhà, chuẩn bị một cách cẩn thận, chi tiết và phù hợp. Cũng như “Thiết kế bài
dạy học là công việc của giáo viên trước khi lên lớp thực hiện bài giảng. Đó là khâu
xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt động học tập để học sinh nhận thức kiến thức, và rèn
luyện kĩ năng, thái độ” [12; tr.23].
Lịch sử nghiên cứu vấn đề đã cho ta thấy rõ được vị trí, vai trò của việc hệ thống
hóa kiến thức và củng cố kĩ năng cho học sinh là hết sức cần thiết. Có một số biện
pháp đề cập đến vấn đề này trong dạy học nói chung và trong dạy Ngữ văn nói riêng.
Trên cơ sở tham khảo những tài liệu đó, người viết sẽ đi sâu tìm hiểu những biện pháp
giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong dạy học Ngữ văn. Từ
đó, vận dụng những biện pháp trên vào việc tiến hành dạy tiết ôn tập cho học sinh sao
phù hợp với yêu cầu, kết quả cần đạt được của chương trình học Ngữ văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Ở đề tài Biện pháp giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng
trong tiết ôn tập môn Ngữ văn lớp 10 (Ban cơ bản) người viết tìm hiểu để có thể đưa
ra một số biện pháp thích hợp nhằm giúp cho học sinh có thể củng cố kiến thức và kĩ
năng trong học tập, thiết kế được các hoạt động dạy và học để tăng cường hiệu quả của
tiết ôn tập, cung cấp và chia sẻ kinh nghiệm để đồng nghiệp tham khảo. Đồng thời đây
còn là bước đầu hình thành kĩ năng cho người nghiên cứu để có thể thiết kế các bài
dạy sau này một cách tốt hơn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do phạm vi đề tài được giới hạn trong tiết ôn tập nên người viết chỉ đi sâu vào
nghiên cứu các biện pháp giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng
trong tiết ôn tập Ngữ văn lớp 10 (Ban cơ bản). Từ đó đề xuất các biện pháp thích hợp
để học sinh có thể nắm vững những kiến thức chính và kĩ năng trong chương trình
Ngữ văn lớp 10.
5. Phương pháp nghiên cứu
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 8
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
Để thực hiện tốt đề tài luận văn này, người viết đã phối hợp một số phương pháp
sau:
- Phương pháp sưu tầm, tổng hợp tài liệu có liên quan đến đề tài thông qua sách
vở, tạp chí, các công trình nghiên cứu để viết về lịch sử vấn đề nghiên cứu và xây
dựng cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu.
- Các phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp để tìm hiểu đưa ra
biện pháp giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong tiết ôn tập.
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 9
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC
VÀ CỦNG CỐ KĨ NĂNG CHO HỌC SINH TRONG CÁC TIẾT
ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN
1. Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn trong trường THPT
1.1. Mục tiêu chung dạy học môn Ngữ văn ở THPT
Môn Ngữ văn là một môn học có vai trò quan trọng trong chương trình đào tạo
từ xưa cho đến nay. Cũng chính vì thế mà mục tiêu được đặt ra cao hơn, đòi hỏi người
giáo viên và học sinh phải nỗ lực, cố gắng trong quá trình dạy và học. Môn Ngữ văn
(bao gồm 3 bộ phận: Đọc văn; Tiếng Việt; Làm văn) là một môn học mang tính tích
hợp, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho học sinh trong việc tiếp thu, trau dồi kiến thức.
Đây còn là một môn học có nền tảng, làm tiền đề cho việc đánh giá trình độ văn hóa
của con người. Dạy và học tốt môn Ngữ văn chẳng những tạo cơ sở cho học sinh học
tốt các môn học khác mà còn phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân
loại, giáo dục tư tưởng, tình cảm cao đẹp cho con người.
Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn cũng được cụ thể hóa ở từng cấp học, lớp học,
phân môn,… Ở THPT môn Ngữ văn là sự tích hợp của ba môn học. Phân môn Đọc
văn có chức năng cung cấp một hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về văn
học Việt Nam và thế giới, thông qua việc phân tích tác phẩm văn chương mà bồi
dưỡng cho học sinh những giá trị Chân – Thiện – Mỹ. Học sinh không chỉ được rèn
luyện năng lực phân tích, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, mà còn biết vận dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống. Phân môn Làm văn có chức năng rèn luyện kĩ năng viết
văn bản. Chức năng của phân môn Tiếng Việt là hình thành và rèn luyện cho học sinh
năng lực sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ với bốn kĩ năng cơ bản: đọc, viết, nghe, nói,
qua đó mà rèn luyện tư duy; giúp các em có những hiểu biết nhất định về hệ thống tri
thức tiếng Việt và ngôn ngữ để sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, có ý thức;
giúp học sinh biết yêu quý tiếng Việt, có ý thức giữ gìn, bảo vệ và phát triển tiếng
Việt, góp phần hình thành nhân cách và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm,… Đồng thời,
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 10
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
môn Ngữ văn còn giúp ta nắm được phương pháp học tập bộ môn, tạo thành tập quán
học tập Ngữ văn, biết tìm tòi, phát hiện, suy nghĩ, giải quyết vấn đề, làm cơ sở cho sự
phát triển trí tuệ và nhân cách suốt đời. Tác giả Phan Trọng Luận cũng đã đề cập “xét
về mục tiêu giáo dục thì môn giảng văn có một ưu thế đặc biệt, đó là sức mạnh riêng
của các tác phẩm văn chương trong việc bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách cho học
sinh. Cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm nhân văn, lòng yêu đất nước nhân dân, khát vọng
sống cao thượng, v.v… được bắt nguồn và hình thành một cách có hệ thống và sâu
sắc, nhất là trong các giờ giảng văn ở nhà trường phổ thông và chính đó cũng là
những hành trang quý báu cho các em đi vào đời sống công dân sau này” [5; tr.163].
Trong quá trình dạy học, với đặc trưng riêng của mình, môn Ngữ văn hướng tới
bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu tiếng Việt, yêu văn hóa, văn học nước nhà. Giáo dục
lòng yêu nước và tự hào dân tộc, tinh thần nhân văn, lí tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo
đức cao thượng, thị hiếu thẩm mĩ tốt, đa dạng. Hướng dẫn học sinh quan tâm, tu dưỡng
phẩm chất văn hóa cá nhân, góp phần hình thành nhân cách người lao động mới trong
xã hội mới và thời đại mới.
1.2. Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn lớp 10
Một trong những nguyên tắc khi biên soạn chương trình Ngữ văn THPT là bám
sát tiến trình phát triển của nền văn học Việt Nam. Do vậy, chương trình Ngữ văn từ
lớp 10 đến lớp 12 thể hiện rõ lịch sử phát triển của văn học. Ngoài những mục tiêu
chung của việc dạy học môn Ngữ văn, ở chương trình dạy học Ngữ văn lớp 10 (Ban cơ
bản), ta sẽ đi tìm hiểu về những thành tựu ban đầu của nền văn học. Đó là thời kì của
văn học dân gian và giai đoạn đầu của thời kì văn học viết (văn học trung đại). Nó đòi
hỏi phải đạt được những mục tiêu riêng về kiến thức, kĩ năng, thái độ để làm tiền đề
cho việc tiếp nhận văn học ở những thế kỉ tiếp sau này.
Về kiến thức, người giáo viên cần phải quan tâm sâu sắc đến việc truyền đạt kiến
thức cho học sinh. Không chỉ dạy tác phẩm văn học mà còn hướng các em liên hệ đến
đời sống thực tế. Dạy cho các em hiểu rõ đâu là giá trị truyền thống, đâu là các chuẩn
mực đạo đức xã hội để hình thành nhân cách cho học sinh, giúp các em trở thành
người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời cũng cần tạo cho các em có cách nhìn
nhận và thiết lập một quan điểm đúng đắn khi đánh giá một vấn đề. Hơn nữa, môn
Ngữ văn lớp 10 cũng cho ta biết được sự bắt đầu hình thành và dần dần phát triển của
văn học nước nhà, dạy cho ta biết cách sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt ở những hoàn
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 11
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
cảnh cụ thể và bước đầu hình thành việc viết văn cho học sinh. Ngoài việc chú trọng
giáo dục, phát triển tình cảm thẩm mĩ, nhân văn cho học sinh thì người giáo viên cũng
cần phải quan tâm đến việc phát triển tư duy lôgic, tư duy khoa học và những vấn đề
của cuộc sống mà hằng ngày và sau này học sinh sẽ đối mặt.
Về kĩ năng, chú trọng về định hướng nghiên cứu trong đọc văn, bao quát các
hiện tượng tác phẩm, tác giả, thể loại, gợi năng lực phát hiện sáng tạo cho học sinh.
Chương trình Ngữ văn 10 (Ban cơ bản) giúp rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc hiểu
các loại văn bản, tiến đến hiểu đúng về nội dung, tư tưởng tác phẩm, rèn luyện năng
lực phân tích tổng hợp, đánh giá vấn đề, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời
sống,… Các kĩ năng mà học sinh có được ở môn học này không chỉ giúp học tốt
những môn học khác mà còn cần thiết cho cuộc sống của các em trong tương lai.
Về thái độ, các bài học trong các phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn đều
được thiết kế giảng dạy với mục tiêu bồi dưỡng thái độ quan niệm sống tích cực cho
học sinh. Giúp các em biết trân trọng, gìn giữ những giá trị truyền thống văn hóa dân
tộc, biết yêu cái đẹp, biết nhìn nhận cuộc sống với cái nhìn đa chiều, biết yêu mến và
học tập tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ đó giúp học sinh hình thành nhân cách tốt của
con người hiện đại.
Tóm lại, những mục tiêu kể trên đều hướng đến giáo dục học sinh một cách toàn
diện. Bởi đây là năm học đầu tiên của bậc THPT nên cần tạo một cở sở để cho các em
tiếp nhận tri thức, hình thành kĩ năng trong những năm học tiếp theo và trong hành
trình cuộc sống sau này.
2. Quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm
Quá trình dạy học gồm hai mặt quan hệ hữu cơ: hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của học sinh. Trong lí luận dạy học có những quan niệm khác nhau về
vai trò của giáo viên và vai trò của học sinh nhưng tựu chung lại có hai hướng: hoặc
tập trung vào vai trò hoạt động của giáo viên (lấy giáo viên làm trung tâm) hoặc tập
trung vào vai trò hoạt động của học sinh (lấy học sinh làm trung tâm). Những năm gần
đây các tài liệu giáo dục và dạy học ở nước ngoài và trong nước thường nói tới việc
cần thiết phải chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh
làm trung tâm. Đây là một xu hướng tất yếu và phù hợp với thời đại.
Theo bài giảng lý luận dạy học Ngữ văn của nhóm tác giả Nguyễn Minh Chính,
Nguyễn Thị Hồng Nam, Trần Đình Thích, Hà Hồng Vân trường Đại học Cần Thơ,
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 12
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
2002, quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm đặc biệt được xem trọng “Học
sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy học”. Trong quá trình giáo dục – dạy học,
người học vừa là đối tượng vừa là chủ thể. Thông qua sự chỉ đạo của giáo viên, người
học phải chủ động cải biến bản thân, không ai làm thay cho mình được. Trò học tích
cực bằng các hành động của chính mình, tự tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá, tự
tìm ra kiến thức, chân lí. Điều đó sẽ giúp các em nhớ được kiến thức lâu hơn và vận
dụng nó một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong phương pháp dạy học này, toàn bộ quá
trình dạy học đều hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của học sinh. Mục đích là phát
triển ở học sinh những kĩ năng và năng lực độc lập học tập giải quyết các vấn đề,…
Còn lớp học là cộng đồng các chủ thể, là thực tiễn xã hội hiện tại và cả tương lai của
người học trong nhà trường. Lớp học được tổ chức nhằm mục đích giáo dục, là môi
trường xã hội trung gian giữa thầy – trò. Trong lớp học mức độ khả năng học tập của
mỗi học sinh sẽ có sự chênh lệch. Vì thế, nếu những thành viên trong lớp học có sự
chủ động, tích cực, hợp tác sẽ tạo cơ hội để các em tiếp nhận, trao đổi kiến thức và dễ
dàng tiến bộ trong học tập. Trong quá trình dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người
dạy cũng đóng vai trò quan trọng. Muốn thực hiện dạy học theo hướng đó, người thầy
vừa phải chú ý đến người học vừa phải chú ý đến điều để học. Giáo viên là người
hướng dẫn vì vậy phải không ngừng vươn lên học tập suốt đời để làm gương tốt cho
học sinh. Người thầy phải là người có khả năng tổ chức, điều khiển mọi hoạt động của
học sinh, giúp học sinh học tập tốt. Vai trò của giáo viên là tạo ra những tình huống để
phát triển vấn đề, giúp học sinh nhận biết vấn đề, lập giả thuyết, làm sáng tỏ và thử
nghiệm các giả thuyết để rút ra kết luận. Ở đây, các nhà nghiên cứu cũng coi trọng
việc tổ chức cho học sinh hoạt động độc lập hoặc theo nhóm. Học sinh vừa tự mình
nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự học, được
tập dượt phương pháp nghiên cứu. Giáo viên quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kinh
nghiệm của từng cá nhân và của tập thể học sinh để xây dựng bài học. Giáo án được
thiết kế theo kiểu phân nhánh. Những dự kiến của giáo viên phải được tập trung chủ
yếu vào các hoạt động của học sinh và cách tổ chức các hoạt động đó, cùng với khả
năng diễn biến các hoạt động của học sinh để khi lên lớp có thể linh hoạt điều chỉnh
theo diễn tiến của tiết học, thực hiện giờ học phân hóa theo trình độ và năng lực của
học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi em. Để
phát huy tính chủ động của học sinh trong học tập việc đánh giá kết quả đạt được cũng
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 13
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
có sự thay đổi. Nếu như trước đây giáo viên là người trực tiếp đánh giá khả năng, kết
quả học tập của học sinh thì hiện nay học sinh cũng có quyền tham gia vào hoạt động
đó. Học sinh tự đánh giá kết quả học tập của chính bản thân mình và đánh giá kết quả
học tập của bạn học. Từ đó, học sinh có thể nhận ra những sai lầm, thiếu sót của bản
thân, của người khác và tự rút ra kinh nghiệm cho mình. Học sinh cũng nhận ra những
cách suy nghĩ, ý kiến hay, sáng tạo của bạn học và đúc kết điều đó thành bài học, kiến
thức cho bản thân. Trong việc đánh giá có hai kết quả cần đánh giá: tính chính xác của
kiến thức và nguyên nhân những lỗi lầm trong nhận thức. Đồng thời cũng có ba biện
pháp đánh giá: thầy đánh giá, trò tự đánh giá, học sinh đánh giá lẫn nhau. Những điều
nói trên cũng rất phù hợp với một phương châm giáo dục nổi tiếng của UNICEF: “Dạy
học không phải là ban bố những gì mà ta có, mà là giúp người học phát hiện sự phong
phú của chính mình” [13; tr.115]. Đây cũng là một phương châm dạy học theo quan
điểm lấy học sinh làm trung tâm.
Vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một cách dạy học mới, có nhiều
hiệu quả và là nguyên tắc xuyên suốt để học sinh thật sự tham gia vào hoạt động học
tập.
Để chứng minh cho việc dạy học theo quan điểm lấy học sinh làm trung tâm là
một phương pháp dạy học tốt và đạt hiệu quả cao, bảng dưới đây sẽ so sánh quan điểm
trên với quan điểm truyền thống dạy học lấy giáo viên làm trung tâm. Từ đây, ta có thể
thấy rõ được vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc dạy học “lấy học sinh làm trung
tâm”.
Dạy học lấy giáo viên làm trung
Dạy học lấy học sinh làm trung
tâm
tâm
Học là quá trình tiếp thu và lĩnh Học là quá trình kiến tạo, học sinh
Quan niệm
hội. Qua đó hình thành kiến thức, tìm tòi, khám phá, xử lí thông tin,
tư tưởng.
tự hình thành hiểu biết, năng lực,
phẩm chất.
Truyền thụ tri thức, chứng minh Tổ chức hoạt động nhận thức cho
Bản chất
học sinh. Dạy học sinh cách tìm ra
chân lí.
chân lí.
Mục tiêu
Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ Chú trọng hình thành các năng
năng. Học để đối phó với thi cử. lực: sáng tạo, hợp tác,… Dạy
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 14
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
Sau khi thi những điều đã học phương pháp, dạy cách học cho
thường bị quên hoặc ít dùng đến.
học sinh. Những điều đã học giúp
ích cho học sinh trong cuộc sống,
cho sự phát triển xã hội.
Từ sách giáo khoa, từ giáo viên.
Từ nhiều nguồn: sách giáo khoa,
giáo viên, thực tế, các tài liệu
Nội dung
khoa học phù hợp gắn với vốn
hiểu biết, kinh nghiệm thực tế
cuộc sống của học sinh.
Phương
pháp
Hình thức tổ
chức
Phương tiện
Các phương pháp truyền thụ kiến Các phương pháp giải quyết vấn
thức một chiều.
đề. Có sự trao đổi kiến thức.
Cố định, cứng nhắc. Giáo viên đối Cơ động, linh hoạt: học cá nhân,
diện với cả lớp.
học đôi bạn, học sinh với giáo
viên, học sinh với học sinh.
Chưa được quan tâm đúng mức.
Các thiết bị hiện đại, đặc biệt là
ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học
giảng dạy.
Giáo viên là người độc quyền Học sinh tự chịu trách nhiệm về
Kiểm tra
đánh giá
đánh giá kết quả học tập của học kết quả học tập của mình. Được
sinh, chú ý khả năng ghi nhớ và tham gia đánh giá lẫn nhau.
tái hiện các thông tin giáo viên đã
cung cấp.
Dạy học theo truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm là cách truyền thụ một
chiều từ thầy đến trò. Việc đánh giá chủ yếu nhằm xem trò nắm được bao nhiêu thông
tin, chính xác ở mức độ nào, điều đó quan trọng hơn là xem trò hiểu như thế nào. Còn
dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm là mối quan hệ hai chiều giữa thầy và
trò. Thầy huy động vốn kiến thức đã có ở trò để giúp trò xây dựng kiến thức mới. Việc
đánh giá chủ yếu là xem sự hứng thú, lợi ích của trò, xem trò hiểu đến đâu và hiểu như
thế nào. Mục đích của việc dạy học này là làm cho trò biết cách học và học phải hiểu.
Tóm lại, trong quá trình chuyển từ kiểu dạy học truyền thống sang kiểu dạy học
mới có sự thay đổi về tỉ trọng, nội dung vai trò của người dạy và người học. Dạy học
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 15
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
lấy học sinh làm trung tâm phát huy được vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của
học sinh, đồng thời đề cao hơn vai trò của người thầy. Ở đây, giáo viên phải có trình
độ chuyên môn sâu, có trình độ sư phạm lành nghề, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm
mới có thể đóng vai trò là người gợi mở, xúc tác, trợ giúp, hướng dẫn, động viên, cố
vấn trong các hoạt động của học sinh, đánh thức năng lực tiềm tàng trong mỗi em,
chuẩn bị cho học sinh tham gia tích cực vào phát triển cộng đồng.
Những ý kiến trên đã chứng minh cho việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm là
một quan điểm dạy học hiện đại, đạt nhiều hiệu quả và được nhiều giáo viên áp dụng
hiện nay. Đối với các tiết ôn tập, vấn đề trung tâm của học sinh lại càng quan trọng
hơn nữa. Giáo viên không nên chỉ nêu ra, nhắc lại, liệt kê các bài, các kiến thức đã học
mà cần phải thiết kế các hoạt động các phương tiện hỗ trợ để học sinh tự mình hệ
thống kiến thức, củng cố kĩ năng trên lớp, tiếp tục ôn tập, nâng cao kĩ năng ở nhà để
chuẩn bị cho các kì thi, kiểm tra và cho cấp lớp cao hơn. Như thế, đã khẳng định được
dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong tiết ôn tập là một việc làm cần thiết. Giáo
viên chủ yếu chỉ đóng vai trò là người chỉ đạo, người hướng dẫn để cho học sinh tự
thực hiện, đúc kết kiến thức và kĩ năng cho bản thân mình trong học tập cũng như
trong cuộc sống.
3. Các bậc nhận thức của Bloom
Theo Bloom, nhận thức của học sinh được xét theo mức độ từ dễ đến khó, từ cao
đến thấp, từ đơn giản đến phức tạp. Nhận thức của học sinh được chia thành 6 bậc
đánh giá sau đây:
3.1. Biết (nhớ)
Đây được xem là bậc thấp nhất trong các bậc nhận thức của Bloom. Nó yêu cầu
học sinh nhớ, tái hiện lại kiến thức mà chưa cần phải hiểu một cách cặn kẽ và thấu
đáo. Các câu hỏi được đặt ra với yêu cầu tái hiện kiến thức chính là những câu hỏi
thuộc bậc nhận thức này.
Ví dụ:
- Đọc thuộc lòng bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ.
- Nêu khái niệm của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
3.2. Hiểu
Bậc nhận thức này đòi hỏi người học không những nhớ được kiến thức mà còn
phải lí giải được những kiến thức đã học, biết diễn giải nội dung đã học theo một cách
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 16
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
khác. Đối với môn Ngữ văn, mức độ nhận thức này được thể hiện trong những câu hỏi
yêu cầu học sinh lí giải ý nghĩa của chi tiết, sự kiện hoặc một nhận định nào đó xung
quanh tác phẩm đã học.
Ví dụ:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.”
Hãy nêu nội dung và biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở hai câu thơ trên?
3.3. Vận dụng
Đây là bậc nhận thức cao đòi hỏi người học phải nhớ, hiểu có khả năng áp dụng
các vấn đề đặt ra, có khả năng trình bày các vấn đề đã học bằng ngôn ngữ của mình,
giải quyết những vấn đề trong học tập và trong cuộc sống. Ở mức độ này, người học
phải vận dụng các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, nhận xét, đánh giá, vận dụng
các kiến thức đã học, đã nhớ. Trong giảng dạy môn Ngữ văn, chúng ta thường kiểm tra
mức độ nhận thức học sinh ở mức độ vận dụng.
Ví dụ:
Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn Nguyễn Trãi qua
bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới – bài 43).
3.4. Phân tích
Mức độ này yêu cầu học sinh phải làm chủ được tri thức của mình, đồng thời
phải nhanh nhẹn trong các thao tác tư duy. Thao tác phân tích rèn luyện cho học sinh
khả năng chia nhỏ vấn đề để so sánh, đối chiếu nhằm tìm hiểu một cách chi tiết toàn
bộ đối tượng.
Ví dụ:
Phân tích những điểm khác nhau về tính cách giữa Trương Phi và Quan Công.
3.5. Tổng hợp
Là nhìn bao quát lên một chỉnh thể gồm nhiều bộ phận (sau khi đã phân tích),
mô tả được bức tranh toàn cảnh của chỉnh thể, các mối quan hệ giữa các bộ phận của
chỉnh thể với nhau và quan hệ của chỉnh thể với môi trường xung quanh. Bậc nhận
thức này có yêu cầu cao đối với người học. Muốn đạt được yêu cầu thì người học phải
hiểu được thấu đáo đối tượng, biết phân tích nó rồi sau đó mới có thể mô tả toàn cảnh
đối tượng đó bằng ngôn ngữ của mình, chú ý sắp xếp các bộ phận cấu thành (đã phân
tích) theo một trật tự hợp lí để có thể xếp nó vào một loại đối tượng mới, từ đó tìm ra
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 17
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
hướng giải quyết đối tượng theo nhiệm vụ đã đặt ra hoặc tìm theo hướng phân tích tiếp
theo.
Ví dụ:
Phân tích bi kịch của Thúy kiều qua đoạn trích Nỗi thương mình (Trích Truyện
Kiều của Nguyễn Du) để thấy được thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân
vật của tác giả.
3.6. Đánh giá
Đánh giá là khả năng đưa ra nhận định, phán xét về đối tượng nào đó đã được
phân tích, tổng hợp: đúng hay sai, hay hay dở, chính xác hay không chính xác, có giá
trị hay không có giá trị,… Để đạt được yêu cầu này, học sinh không những phải thực
hiện tốt những thao tác phân tích, tổng hợp mà còn phải có trình độ và kinh nghiệm
sống nhất định.
Ví dụ:
Đánh giá vai trò, vị trí của tác gia Nguyễn Trãi đối với nền văn học Việt Nam.
Kết luận: qua việc tìm hiểu các bậc nhận thức của Bloom để có thể xác định
được kiến thức, kĩ năng cần hệ thống hóa cho học sinh trong tiết ôn tập. Tiết ôn tập
không thể chỉ tập trung tái hiện, nhắc lại những gì học sinh đã học, đã biết mà còn coi
trọng phát triển những kĩ năng, năng lực bậc cao trong nhận thức của học sinh theo
thang nhận thức của Bloom: biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Từ đó,
ta có thể xây dựng tốt hoạt động dạy và học, xây dựng tốt các biện pháp giúp học sinh
hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong các tiết ôn tập Ngữ văn lớp 10 (Ban
cơ bản).
4. Tiêu chí lựa chọn các phương pháp giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức
và củng cố kĩ năng trong các tiết ôn tập môn Ngữ văn
Trước hết, ta tìm hiểu thế nào là phương pháp. “Theo nghĩa chung nhất, phương
pháp là con đường, là cách thức mà chủ thể sử dụng để tác động nhằm chiếm lĩnh
hoặc biến đổi đối tượng theo mục đích đã định” [15; tr.91]. Theo nhóm tác giả Nguyễn
Minh Chính, Nguyễn Thị Hồng Nam, Trần Đình Thích, Hà Thị Hồng Vân thì có
những phương pháp dạy học sau:
- Phương pháp diễn giảng.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp trực quan.
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 18
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
- Phương pháp thảo luận nhóm.
Chúng ta có thể thấy mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu thế và hạn chế
nhất định, bởi lẽ không có phương thuốc nào có thể chữa được bách bệnh, không có
phương pháp dạy học nào là chìa khóa vạn năng, là tối ưu cho mọi trường hợp. Chính
vì thế việc nghiên cứu kĩ nội dung bài giảng, đặc điểm riêng của từng môn học và đối
tượng người học góp phần thành công trong tiết dạy nói chung và trong dạy học Ngữ
văn nói riêng. Thêm vào đó, việc sử dụng có hiệu quả mỗi cách dạy luôn đòi hỏi người
dạy và người học phải có những phẩm chất, kĩ năng nhất định và những điều kiện cần
thiết để đảm bảo thực hiện. Vì vậy, vấn đề không phải là cách dạy nào tốt hơn, mà là
cách dạy nào phù hợp hơn. Cho nên việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, hiệu
quả cần dựa trên các tiêu chí sau:
Thứ nhất, là việc lựa chọn những phương pháp dạy học có khả năng cao nhất đối
với việc thực hiện mục tiêu dạy học. Như trên đã trình bày, mỗi phương pháp dạy học
đều có những điểm mạnh, điểm hạn chế nhất định. Nhưng khi xem xét việc thực hiện
một mục tiêu dạy học nhất định thì có một số phương pháp dạy học có khả năng cao
hơn các phương pháp dạy học khác. Tùy thuộc vào mục tiêu yêu cầu cần đạt được của
quá trình dạy học mà lựa chọn phương pháp nào cho thích hợp.
Thứ hai, lựa chọn các phương pháp dạy học phải phù hợp với nội dung bài dạy.
Giữa nội dung và phương pháp dạy học có mối quan hệ tác động lẫn nhau, trong nhiều
trường hợp quy định lẫn nhau. Ở bình diện kĩ thuật dạy học, phương pháp dạy học cần
tương thích với nội dung dạy học. Mỗi nội dung dạy học phải lựa chọn những phương
pháp dạy học phù hợp với nội dung dạy học đó.
Thứ ba, lựa chọn phương pháp dạy học cần chú ý đến đối tượng học sinh và kinh
nghiệm sư phạm của giáo viên. Ở đây, khi lựa chọn phương pháp dạy học người giáo
viên cần quan tâm tìm hiểu nhu cầu, hứng thú, thói quen của học sinh. Đối với những
trường hợp cần trình bày thông tin thì giáo viên nên ưu tiên lựa chọn các phương pháp
sử dụng phương tiện nghe, nhìn. Đối với các hoạt động khám phá thông tin thì cần tổ
chức các hoạt động để học sinh tự phát hiện, phối hợp với làm việc theo nhóm, phát
huy càng tối đa tính tích cực, sáng tạo của học sinh càng tốt. Mặt khác, trong quá trình
giảng dạy, giáo viên cần chú ý thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
tránh nhàm chán, từ đó gây hứng thú cho người học. Kinh nghiệm cho thấy trong một
tiết dạy, người giáo viên cần thay đổi, sử dụng ít nhất là hai phương pháp, hình thức
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 19
SVTH: Lê Hữu Thời
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành: Sư phạm Ngữ văn
dạy học để đạt hiệu quả. Bên cạnh đó, giáo viên cũng phải quan tâm ưu tiên lựa chọn
các phương pháp dạy học mà học sinh và giáo viên đã thành thạo. Quán triệt vấn đề
này sẽ đảm bảo cho giáo viên và học sinh tích cực, chủ động trong việc truyền đạt
cũng như tiếp nhận kiến thức của bài học. Tuy nhiên, không vì vấn đề này mà ta quay
trở lại với phương pháp truyền thụ một chiều. Ngược lại, giáo viên cần tạo cơ hội để
học sinh trao đổi và tự rút ra bài học cho bản thân.
Thứ tư, việc lựa chọn phương pháp dạy học phải phù hợp với điều kiện dạy học
hiện có. Yêu cầu này đặt ra vấn đề việc lựa chọn phương pháp dạy học nào cũng cần
phải đặt nó trong mối quan hệ với các điều kiện vật chất, đặc biệt là thiết bị dạy học:
điều kiện của nhà trường, phòng học, quy mô lớp học và thời gian cũng là một vấn đề
không thể thiếu trong việc lựa chọn phương pháp dạy học.
Qua những tiêu chí trên, ta cần phải biết chọn lựa cho mình một phương pháp
dạy đúng đắn, phù hợp và đạt hiệu quả cao trong việc dạy học nói chung và trong việc
giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong tiết ôn tập Ngữ văn 10
(Ban cơ bản) nói riêng. Phương pháp dạy học nào được sử dụng cũng cần phù hợp với
thực tế, đem lại hiệu quả thiết thực.
5. Một số phương pháp giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ
năng trong các tiết ôn tập môn Ngữ văn
Trong các phương pháp dạy học trên, phương pháp quan trọng và cần tăng
cường sử dụng để hệ thống hóa kiến thức và củng cố kĩ năng trong các tiết ôn tập môn
Ngữ văn là phương pháp trực quan và phương pháp thảo luận nhóm. Hai phương pháp
này có thể giúp người giáo viên và học sinh thực hiện tốt mục tiêu dạy – học tiết ôn
tập.
5.1. Phương pháp trực quan
5.1.1. Khái niệm
Theo triết học duy vật biện chứng và các thành tựu tâm lí học cho rằng “trực
quan theo nghĩa đúng của nó không đơn giản chỉ là quan sát sự vật bằng các giác
quan, mà là hành động, tác động lên sự vật, làm biến đổi các dấu hiệu bề ngoài của
chúng, làm cho các bản chất, các mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của chúng
được bộc lộ, được phơi bày một cách cảm tính, mà nếu không có sự tác động đó thì
chúng mãi còn là bí ẩn đối với nhận thức của con người” [8; tr.342].
CBHD: Võ Huy Bình
Trang 20
SVTH: Lê Hữu Thời
- Xem thêm -