Máy nghiền bột thạch anh
• Thạch anh (silic điôxít, SiO2) là một trong số
những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất. Thạch
anh được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ
diện silic–oxy SiO4, trong đó mỗi ôxy chia sẻ giữa
hai tứ diện nên nó có công thức chung là SiO2.
• Thạch anh là khoáng vật rất phổ biến trong tự
nhiên và là thành phần của rất nhiều loại đá và
khoáng sản quặng. Thạch anh thường gặp ở
dạng thành phần chính của nhiều loại đá magma
axit xâm nhập và phun trào ở dạng hạnh nhân
như mã não và onix, môt số đá trầm tích cơ học
như cát kết thạch anh, đá biến chất từ các loại đá
trên như quartzit.
Bột cát thạch
anh
màu trắng, hàm
lượng silic
98%.
Máy
nghiền bột
barit
• Barite là bari vật liệu khoáng sản phổ biến nhất
và nó là thành phần của bari sulfat.
• Barit (baryt), công thức (BaSO4), là một
khoáng vật chứa bari sunfat. Nhóm barit bao
gồm barit, celestin, anglesit và anhydrit. Barit
nhìn chung có màu trắng hoặc không màu, và
là nguồn chủ yếu cung cấp chủ yếu của bari.
Barit và celestin tạo thành hỗn hợp rắn
(Ba,Sr)SO4.
Bột barit
Bột cao
lanh
• Cao lanh là sản phẩm phong hóa tàn dư
của các loại đá gốc chứa trường thạch
như pegmatite, granit, gabro, banzan,
ryolit hoặc các cuộn sỏi thềm biển đệ tứ
hay đá phun trào axit như keratophyr,
felsit.
• Trong công nghiệp, cao lanh được sử
dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
chẳng hạn như sản xuất đồ gốm sứ, vật
liệu chịu lửa, vật liệu mài, sản xuất nhôm,
phèn nhôm, đúc, chất độn sơn, cao su,
giấy, xi măng trắng v.v.
• Nhóm CAOLINIT: Phần lớn các mỏ cao lanh chứa
khoáng chủ yếu là caolinit. Khoáng caolinit có công
thức là: Al2O3.2SiO2.2H2O thành phần hóa của
khoáng này là: Al2O3: 39,48%; SiO2 : 46,60%;
H2O : 13,92%.. Nếu mỏ cao lanh nào chứa chủ
yếu là khoáng caolinit thì chất lượng nó rất cao.
• - Nhóm MONMORILONIT : Công thức hoá học là:
Al2O3.4SiO2. H2O + nH2O. Mạng lưới tinh thể
khoáng này gồm 3 lớp (hai tứ diện SiO4 và một
bát diện AlO6). So với caolinit thì khoáng này có
lực liên kết yếu hơn, ở đây các lớp OH nằm bên
trong, 3 lớp trên tạo thành gói kiểu kín
-
• - Nhóm khoáng chứa ALKALI: Công thức
hóa học: K2O.3AL2O3.6SiO2.2H2O Về mặt
cấu trúc các khoáng này có mạng lưới tinh
thể tương tự như các silicat 3 lớp nên các
tính chất của chúng rất giống nhau: độ phân
tán cao, độ trương nở trong nước lớn, khả
năng hấp thụ trao đổi ion cũng lớn. Trong
nhóm này có một số khoáng khác có cấu
trúc và tính chất tương tự illit đó là khoáng
hyddrophylit, vermiculite và các dạng thủy
mica khác.
• Sự có mặt của chất độn làm tăng lượng
dùng keo chống thấm và làm giảm hiệu
quả gia keo vì chất độn hấp thụ keo chống
thấm.
• Tuy nhiên sử dụng chất độn sẽ làm đồng
đều lượng keo sử dụng trong bê tông
làm tăng cường độ của betong polime
• Yếu tố quan trọng của chất độn ảnh hưởng
đến CKD sử dụng là độ mịn
• Chất độn có độ mịn càng cao,cường độ sẽ
càng cao,tỉ diện tích bề mặt trong BP
lớn,khả năng lèn chặt cao
• Giảm lượng dùng CKD -> giảm giá thành
sản xuất
• Thành phần
• Hình chụp dưới kính hiển vi điện tử các
hạt cát
• Thành phần phổ biến nhất của cát tại các
môi trường đất liền trong lục địa và các
môi trường không phải duyên hải khu vực
nhiệt đới là silica (điôxít silic hay SiO2),
thường ở dạng thạch anh, là chất với độ
trơ về mặt hóa học cũng như do có độ
cứng đáng kể, nên có khả năng chống
phong hóa khá tốt.
• Tuy nhiên, thành phần hợp thành của cát có sự
biến động lớn, phụ thuộc vào các nguồn đá và các
điều kiện khác tại khu vực. Các loại cát trắng tìm
thấy ở các vùng duyên hải nhiệt đới và cận nhiệt
đới là đá vôi bị xói mòn và có thể chứa các mảnh
vụn từ san hô hay mai (vỏ) của động vật cùng các
vật liệu hữu cơ hay có nguồn gốc hữu cơ khác.
Acco (arkose) là cát hay sa thạch với hàm lượng
fenspat đáng kể, có nguồn gốc từ quá trình phong
hóa và xói mòn của đá granit (thường là cận kề).
Một vài loại cát còn chứa manhêtit, chlorit,
glauconit hay thạch cao. Cát giàu manhêtit có màu
từ sẫm tới đen, giống như cát có nguồn gốc từ đá
• Tuy nhiên, thành phần hợp thành của cát có
sự biến động lớn, phụ thuộc vào các nguồn
đá và các điều kiện khác tại khu vực. Các
loại cát trắng tìm thấy ở các vùng duyên hải
nhiệt đới và cận nhiệt đới là đá vôi bị xói mòn
và có thể chứa các mảnh vụn từ san hô hay
mai (vỏ) của động vật cùng các vật liệu hữu
cơ hay có nguồn gốc hữu cơ khác. Acco
(arkose) là cát hay sa thạch với hàm lượng
fenspat đáng kể, có nguồn gốc từ quá trình
phong hóa và xói mòn của đá granit (thường
là cận kề). Một vài loại cát còn chứa
manhêtit, chlorit, glauconit hay thạch cao. Cát
giàu manhêtit có màu từ sẫm tới đen, giống
như cát có nguồn gốc từ đá
đôlômit
• Đôlômit
• Dolomit là tên một loại đá trầm tích cacbonat
và là một khoáng vật, công thức hóa học của
tinh thể là CaMg(CO3)2.
• Khoáng vật dolomite kết tinh ở hệ tinh thể
ba phương. Nó tạo thành tinh thể trắng,
xám đến hồng, thường có hình cong mặc
dù nó thường ở dạng khối. Nó có tính
chất vật lí tương tự như tinh thể canxit,
nhưng không hòa tan nhanh chóng trong
• dung dich HCl loãng trừ trường hợp ở dạng
bột. Độ cứng là 3,5 đến 4 và tỉ trọng là 2,85.
Chiết suất nω = 1,679 – 1,681 và nε = 1,500.
Song tinh khá phổ biến. Hỗn hợp rắn trong tự
nhiên giữa dolomit và ankerit giàu sắt. Một
lượng nhỏ sắt trong cấu trúc khiến cho tinh
thể có màu vàng đến nâu. Mangan có thể
thay thế trong cấu trúc tinh thể, có thể đến 3
phần trăm MnO. Hàm lượng mangan cao
khiến cho tinh thể có màu hồng. Có thể hình
thành một dải khoáng vật với kutnohorit giàu
mangan. Chì và kẽm cũng có thể thay thế
magie trong cấu trúc tinh thể.
grabo
- Xem thêm -