®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
ph¹m v¨n toµn
B¶o vÖ quyÒn së h÷u c«ng nghiÖp
b»ng biÖn ph¸p d©n sù
Chuyªn ngµnh: LuËt Kinh tÕ
M· sè: 60.38.30
Tãm t¾t LuËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
hµ néi - n¨m 2008
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Lời mở đầu
1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
8
CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
1.1.
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
8
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự
Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
8
12
20
1.2.
MỘT SỐ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ LIÊN QUAN VỀ BẢO VỆ QUYỀN
26
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
Công ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
(Công ước Paris)
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs)
Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ về thương mại và sở hữu trí tuệ (Hiệp định BTA)
27
28
31
Chương 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ
34
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
2.1.
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
34
2.2.
CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO
VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
37
2.2.1.
Xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo
quy định của pháp luật
37
2.2.2.
Các hành vi không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
44
1
theo quy định của pháp luật
2.3.
XỬ LÝ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
45
2.3.1.
Các biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp
47
2.3.2
Các quy định về quyền khởi kiện và chứng cứ chứng minh hành
vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
51
2.3.3.
Xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp theo quy định của pháp luật
55
2.3.4.
Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
58
2.3.5.
Trình tự, thủ tục bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện
pháp dân sự
62
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ
67
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
3.1.
THỰC TRẠNG XỬ LÝ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
67
3.2.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
76
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
Nhóm giải pháp hoàn thiện về pháp luật
Nhóm giải pháp hoàn thiện về tổ chức
Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực của Toà án và tuyên truyền
pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự
77
85
89
KẾT LUẬN
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ (QSHTT) và bảo
vệ QSHTT là vấn đề đặc biệt quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của
mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, QSHTT và bảo vệ QSHTT chưa bao giờ được
coi trọng như hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn
cầu với rất nhiều cơ hội và thách thức, đòi hỏi chúng ta một mặt phải có cơ
chế, chính sách thúc đẩy hoạt động sáng tạo, mặt khác cần đề cao việc bảo
vệ QSHTT. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ
(SHTT), trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
QSHTT đầy đủ và hiệu quả là những vấn đề quan trọng, mang tính quyết
định đến sự thành công trong phát triển kinh tế tại Việt Nam, nhất là hiện
nay chúng ta đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO).
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002
của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ
Chính trị “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” thì việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ QSHTT, hình thành và phát triển thị trường khoa
học và công nghệ theo hướng mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ
QSHTT, phù hợp với yêu cầu khi gia nhập WTO và các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên [2] là yêu cầu cấp bách cần sự quan tâm đặc
biệt. Trong Báo cáo ngày 10 tháng 4 năm 2006 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
5 năm từ 2006 đến 2010” đã khẳng định: Một trong những nhiệm vụ quan
trọng của chúng ta là phải thực hiện tốt Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển
giao công nghệ, đổi mới quản lý nhà nước đối với thị trường khoa học,
3
công nghệ theo cơ chế thị trường; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các
công trình khoa học và hoạt động sáng tạo [4]. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương bảy, khóa X về Xây dựng đội ngũ tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã chỉ rõ: “Hoàn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi ích
của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ
trí thức gia tăng sự cống hiến” [5].
Nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc bảo vệ QSHTT, chúng ta đã
ban hành đồng bộ những văn bản luật liên quan đến SHTT như Bộ luật Dân
sự (BLDS), Luật Sở hữu trí tuệ, Luật chuyển giao công nghệ, Luật Khoa
học và Công nghệ, Luật Hải quan, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Bộ
luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS), Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS)…
Đây là nỗ lực của Chính phủ Việt Nam để thực hiện các yêu cầu khi gia
nhập WTO và hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế. Có thể nói rằng, chúng ta
đã ban hành được một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đầy
đủ để điều chỉnh lĩnh vực về SHTT. Các quy định này trong thực tế đã có
tác dụng tích cực, giúp các chủ thể của QSHTT yên tâm hơn khi đã có các
quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Nói đến QSHTT là nói đến sự công nhận từ phía nhà nước đối với
một quyền dân sự (quyền nhân thân, quyền tài sản) của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản sở hữu trí tuệ nhất định và có chế độ bảo vệ tài sản đó như
bất kỳ tài sản nào khác. Do vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì biện pháp dân
sự thường được áp dụng trước tiên để giải quyết. Tuy nhiên, ở nước ta do
nhiều nguyên nhân khác nhau nên các hành vi xâm phạm QSHTT xử lý
bằng biện pháp dân sự chưa nhiều, chưa phát huy được hiệu quả. Theo
thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2000 đến 2005, toàn ngành
Tòa án đã thụ lý để giải quyết theo thủ tục dân sự được 93 vụ tranh chấp về
QSHTT (bao gồm 32 vụ về quyền tác giả, 18 vụ về quyền liên quan đến
4
quyền tác giả, 43 vụ tranh chấp về QSHCN) [33]. Trong khi các tranh chấp,
yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm QSHCN bằng biện pháp hành chính là
phổ biến. Đây là điều bất hợp lý và chứng tỏ pháp luật về bảo vệ QSHTT
nói chung và thực tiễn giải quyết các xâm phạm QSHTT nói riêng bằng
biện pháp dân sự tại Toà án còn ít và có nhiều bất cập.
Để phù hợp với tính chất và nội dung của quan hệ pháp luật, phù hợp
với thông lệ quốc tế thì chúng ta cần sớm tìm ra nguyên nhân và lý giải
nguyên nhân đó.
Trong thời gian qua, pháp luật về QSHTT đã có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu và đề cập. Tuy nhiên, các công trình đó mới chỉ
nghiên cứu về nội dung của QSHTT, về hoạt động xét xử nói chung của
Tòa án hoặc nghiên cứu về nâng cao năng lực của Tòa án trong thực thi
QSHTT, các công trình nghiên cứu đó chưa đi sâu nghiên cứu việc hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự. Trước tình hình
đó, tác giả đã chọn đề tài: “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện
pháp dân sự” để làm luận văn tốt nghiệp cao học luật, chuyên ngành Luật
dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lĩnh vực sở hữu công nghiệp nói chung và bảo vệ QSHCN nói riêng
đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu và tiếp cận dưới nhiều hình
thức khác nhau. Trong những năm gần đây, liên quan đến QSHTT nói
chung đã có một số công trình tiêu biểu như: “Đổi mới và hoàn thiện pháp
luật về sở hữu trí tuệ” do Tiến sỹ, Luật sư Lê Xuân Thảo biên soạn, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2005; “Quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động
thương mại” do Tiến sỹ Nguyễn Thanh Tâm biên soạn, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2006. Liên quan đến thực thi QSHTT bằng biện pháp tư pháp có đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nâng cao vai trò và năng lực của Toà án
trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của Toà án nhân dân Tối cao (mã số 99-98-098) do PTS.
5
Đinh Ngọc Hiện - Phó Viện trưởng Viện khoa học xét xử TANDTC làm
chủ nhiệm. Tuy nhiên, đề tài này được nghiên cứu khi Luật SHTT chưa
được ban hành và chủ yếu tập trung nghiên cứu về vai trò của TAND và
nâng cao năng lực của Toà án trong việc thực thi QSHTT ở Việt Nam.
Năm 2007 có luận văn tốt nghiệp của cử nhân Luật của Phạm Thị Tình với
đề tài: “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự theo Luật
sở hữu trí tuệ 2005”. Như tên đề tài đã giới hạn, nội dung của đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu các quy định của Luật SHTT về bảo vệ QSHCN.
Tại Việt Nam, vấn đề về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự đã
và đang rất được quan tâm do đây là biện pháp có nhiều ưu điểm mà pháp
luật sở hữu trí tuệ của nhiều nước trên thế giới đề cao, vì vậy cần phải được
nghiên cứu kỹ hơn, đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực này với tư cách là một quyền dân sự cần phải được bảo vệ bằng nhiều biện
pháp trong đó chủ yếu là biện pháp dân sự. Tuy nhiên, số công trình khoa
học và bài nghiên cứu riêng biệt về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng
biện pháp dân sự chưa nhiều, chưa có tài liệu, công trình nào khái quát ở
mức độ tổng thể, cũng như đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả của biện pháp dân sự trong lĩnh vực bảo vệ QSHCN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bảo vệ QSHTT nói chung, bảo vệ QSHTT bằng biện pháp dân sự
nói riêng là những đề tài rộng lớn, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách
tổng quát, khoa học và mang tính đối chiếu so sánh giữa các ngành luật để
tạo ra sự thống nhất. Mặt khác, QSHTT là một nội dung lớn bao gồm:
Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả; quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Trong khuôn khổ luận văn này,
tác giả chỉ tập trung đi sâu tìm hiểu vấn đề: bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
bằng biện pháp dân sự trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Trong đó tập
trung phân tích, đề xuất việc xử lý hành vi xâm phạm QSHCN bằng biện
6
pháp dân sự. Các vấn đề về quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác
giả; quyền đối với giống cây trồng… sẽ không đề cập trong luận văn này.
Về thời gian tham khảo số liệu thực tiễn, luận văn chủ yếu sử dụng
số liệu và tư liệu trong khoảng từ 2005 (năm Luật Sở hữu trí tuệ được
thông qua) đến 2007.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích của luận văn
Bảo vệ QSHCN có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, với
nhiều mục đích nhằm giải quyết các vấn đề trong mối liên hệ pháp luật
giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp, giữa chủ thể
QSHCN đối với các đối tượng xâm phạm quyền…Tuy nhiên, bằng việc đề
xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ QSHCN bằng biện
pháp dân sự, tác giả luận văn mong muốn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự tại
Việt Nam hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ các quy định của pháp luật về QSHCN và bảo vệ QSHCN
bằng biện pháp dân sự,
- Phân tích thực trạng pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp
dân sự,
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
QSHCN bằng biện pháp dân sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trên cơ
sở của khoa học chuyên ngành về SHTT, đồng thời, tác giả cũng vận dụng
những quan điểm về phát triển khoa học công nghệ và SHTT của Đảng và
nhà nước được đề cập trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
7
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: phương pháp lịch sử cụ thể,
phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích,
tổng hợp và sử dụng số liệu thống kê, phương pháp so sánh luật, ngoài ra,
tác giả cũng xem xét tính phổ biến của pháp luật trong khu vực và thế giới
về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự.
6. Những đóng góp của luận văn
Trong lĩnh vực bảo hộ QSHCN, việc bảo vệ QSHCN bằng biện
pháp dân sự chưa được đề cập nhiều và chưa có các công trình nghiên cứu
cụ thể về lý luận và thực tiễn. Vấn đề hoàn thiện pháp luật liên quan đến
bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự ở nước ta trong tình hình hiện nay là
hết sức cấp bách. Luận văn này sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về bảo
vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự; phân tích thực trạng pháp luật về trình
tự, thủ tục tố tụng và phân tích thực trạng giải quyết các vụ án về QSHCN
bằng biện pháp dân sự tại Tòa án, nêu ra những ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân của chúng, qua đó sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về lý luận và
thực tiễn bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự tại Việt Nam. Luận văn có
ý nghĩa góp phần tăng cường việc giải quyết tranh chấp QSHCN bằng biện
pháp dân sự, đổi mới và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN tại Việt
Nam hiện nay. Đây là tài liệu có thể dùng cho những người quan tâm
nghiên cứu, trong đó có đối tượng là các chủ thể của QSHCN. Những đề
xuất của luận văn có thể tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật, hướng
dẫn thi hành pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ QSHCN tại TAND
bằng biện pháp dân sự.
8
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo , luận
văn được kết cấu bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp bằng biện pháp dân sự
Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền
sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
1.1. QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người và thực tiễn cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày, để tồn tại và phát triển thì đòi hỏi con người phải
không ngừng sáng tạo. Những thành quả do trí tuệ con người làm ra thông
qua hoạt động sáng tạo được thừa nhận là tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ
được tồn tại dưới dạng những thông tin kết hợp chặt chẽ với nhau, được thể
hiện trong những vật thể hữu hình và bản thân vật mang thông tin đó có
khả năng xuất hiện trong cùng một thời điểm với số lượng bản sao không
giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong
trường hợp này không phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao hữu hình
mà chính là quyền sở hữu hình thức thể hiện những thông tin chứa đựng
trong các bản sao đó [29].
Khác với những tài sản thông thường khác, đối tượng của quyền sở
hữu trí tuệ là tài sản vô hình. Nếu như sở hữu tài sản thông thường vật sở
hữu là những vật con người có thể nhận biết, cảm nhận được bằng trực
quan, thì tài sản vô hình không thể nắm bắt được, sự tồn tại của chúng bắt
nguồn từ sự sáng tạo tinh thần trí tuệ của con người. Mặt khác, một nét đặc
thù của quyền sở hữu trí tuệ so với quyền sở hữu thông thường đó là không
tồn tại quyền chiếm hữu trong nội dung quyền sở hữu trí tuệ. Đối với tài
sản trong quyền sở hữu thông thường, người ta chỉ có thể khai thác được
lợi ích kinh tế khi chiếm hữu được tài sản đó. Trong khi đó đối với các tài
sản là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, các lợi ích vật chất này vẫn có
thể khai thác mặc dù không có sự chiếm hữu. Nếu như quyền sở hữu tài sản
10
bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt của chủ sở hữu
thì QSHTT có nội hàm rộng hơn. Theo khái niệm chung nhất, trong Công
ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ký tại Stockholm
ngày 14 tháng 7 năm 1967 thì:
“Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền đối với các tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học, các sáng chế trong các lĩnh vực hoạt động của
con người, các khám phá khoa học, các kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên và chỉ dẫn thương mại, bảo hộ chống cạnh
tranh không lành mạnh cũng như tất cả các quyền khác bắt nguồn từ các
hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học nghệ
thuật” [22].
Như vậy, trong Công ước trên, người ta người ta phân biệt đối tượng
QSHTT gồm hai lĩnh vực: quyền tác giả và các quyền liên quan; quyền sở
hữu công nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật
thì các quyền mới như thiết kế, bố trí mạch tích hợp bán dẫn, các quyền về
giống cây trồng mới cũng được pháp luật bảo hộ và được coi là đối tượng
quyền sở hữu công nghiệp.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ thì QSHTT được định nghĩa như sau:
“Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ,
bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” (khoản 1 Điều 4), [17].
Theo pháp luật Việt nam, QSHTT là chế định trong pháp luật dân sự,
là lĩnh vực thuộc quan hệ pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành
bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung. QSHTT là một phạm trù pháp lý
trong quyền sở hữu nói chung, do vậy, giống như các quyền dân sự khác,
QSHTT cũng bao gồm các nhóm quy phạm liên quan đến các hình thức sở
hữu, căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu, cách thức, biện pháp chuyển
quyền sở hữu, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu. Như trên đã đề cập, do
QSHTT là quyền sở hữu đối với tài sản vô hình, là các sản phẩm sáng tạo
11
của trí tuệ con người, do đó nội dung của QSHTT không hoàn toàn giống
quyền sở hữu tài sản hữu hình khác. Vì vậy, quyền năng quan trọng nhất
của nội dung QSHTT là quyền sử dụng các đối tượng SHTT.
Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển làm thay đổi cơ bản nền
sản xuất và thương mại của hầu hết các nước, các đối tượng của QSHTT sẽ
là cơ sở để đánh giá một nước ở trình độ phát triển hay đang phát triển. Khi
nhận định về tầm quan trọng của QSHTT, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia
Bảo đã nhận định: kinh tế coi SHTT là khả năng cạnh tranh, nhà khoa học
coi SHTT là sức sáng tạo, xã hội coi SHTT là sức sống. Cạnh tranh trong
thế giới hôm nay và tương lai là cạnh tranh về SHTT [45].
Trong QSHTT thì quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN) là quyền sở
hữu các tác phẩm sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại. Theo
quan niệm của pháp luật dân sự truyền thống ở Việt Nam, khi nói tới
QSHCN người ta thường đề cập đến những vấn đề như: sử dụng các đối
tượng SHCN, hoặc là chuyển giao QSHCN, yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bảo hộ QSHCN. Đây là quyền của chủ thể chủ yếu là dưới góc
độ quyền dân sự. Trước thực tế phát triển sôi động của hoạt động thương
mại, QSHCN còn được nhìn nhận dưới góc độ thương mại đó là những
quyền: quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến QSHCN,
quyền kiểm soát độc quyền liên quan đến QSHCN, quyền được thực thi
QSHCN nhằm bảo hộ quyền lợi thương mại [32].
Theo quy định tại khoản 4, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì:
"Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn
hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh" [17].
Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau: Quyền sở hữu công
nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của
12
cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định trong Luật
Sở hữu trí tuệ hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với
nhãn hiệu quốc tế, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không
phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Đối với tên thương mại, QSHCN được xác
lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó. Đối với bí mật kinh
doanh, QSHCN được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật
kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Đối với quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh thì được xác lập trên cơ sở hoạt động
cạnh tranh trong kinh doanh. (khoản 3, Điều 6, Luật SHTT) [17].
QSHCN của chủ văn bằng bảo hộ thể hiện trên các nội dung sau:
Độc quyền sử dụng đối tượng SHCN thông qua các hành vi sử dụng tương
ứng với đối tượng được bảo hộ như: sản xuất; gắn nhãn hiệu lên hàng hoá
và các phương tiện trong hoạt động kinh doanh; áp dụng quy trình được
bảo hộ; khai thác sản phẩm được bảo hộ; đưa vào lưu thông, quảng cáo
nhằm để bán, chào bán, tàng trữ để bán; nhập khẩu; chuyển giao một phần
hoặc toàn bộ quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp cho cá nhân,
pháp nhân hoặc chủ thể khác thông qua hợp đồng bằng văn bản (hợp đồng
li xăng) đối với các đối tượng theo nguyên tắc cấp văn bằng bảo hộ (cho
phép người khác được sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp của mình);
chuyển giao quyền sở hữu, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu công nghiệp khi
đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật như: người được chuyển
giao, nhận thừa kế thoả mãn yêu cầu của chủ thể quyền; yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
của mình phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại do hành
vi xâm phạm gây ra.
Trong quan hệ thương mại, các đối tượng của QSHCN được coi là tài
sản (tài sản vô hình) có giá trị ngang bằng với tài sản vật chất và có thể
được coi là nguồn vốn đầu tư có giá trị [25]. Do vậy, việc bảo hộ quyền sở
13
hữu công nghiệp đã trở thành một chính sách mang tính toàn cầu, là yêu
cầu bắt buộc đối các quốc gia trong việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
1.1.2. Khái niệm về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện
pháp dân sự
1.1.2.1. Khái niệm về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHCN, trước hết chúng ta cần làm rõ
khái niệm về bảo hộ, thực thi QSHCN và mối liên hệ giữa chúng.
Trong Công ước Paris, bảo hộ QSHCN bao gồm các đối tượng là
sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn
hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn xuất xứ hoặc tên gọi xuất xứ hàng
hóa, cũng như việc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh [23].
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “bảo hộ” được hiểu theo nghĩa
thông thường là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất” [39]. Việc bảo hộ
luôn được gắn với sự quản lý của nhà nước thông qua các giải pháp để bảo
vệ, giúp đỡ, hỗ trợ bằng chính sách, pháp luật mà mỗi quốc gia dành cho
công dân hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động, cư trú ở nước đó.
Theo TS. Nguyễn Thanh Tâm: bảo hộ QSHCN được hiểu là việc nhà
nước, bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định những
hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý
những hành vi vi phạm đó [32]. Trong Luật SHTT, nội dung nhà nước bảo
hộ đối với QSHCN là các quy định về việc bảo hộ QSHCN tại các cơ quan
quản lý nhà nước như: các điều kiện bảo hộ, nội dung quyền SHCN, giới
hạn QSHCN, thời hạn bảo hộ QSHCN, chuyển giao QSHCN, chứng nhận
QSHCN…qua đó nhà nước đảm bảo quyền sở hữu với các đối tượng của
QSHCN cho các cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đã được cơ quan có
thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ hoặc được thừa nhận. Hoạt động bảo hộ
dưới góc độ của quản lý nhà nước đó chính là việc xác lập quyền cho các
chủ sở hữu QSHCN theo quy định của pháp luật. QSHCN được nhà nước
bảo hộ bằng các chính sách và hệ thống pháp luật về QSHCN.
14
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật
Hà Nội thì: bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ sản phẩm trí tuệ,
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể QSHCN như tác giả, chủ văn
bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng QSHCN [34].
Do vậy, bảo hộ QSHCN được hiểu là nhà nước, bằng những quy
định của pháp luật xác lập QSHCN (cấp văn bằng bảo hộ), xác định những
hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý
những hành vi vi phạm đó.
Một khái niệm khác có liên quan đến SHCN đó là thực thi QSHCN.
Trong hoạt động SHCN, việc bảo đảm các điều kiện cần thiết để các chủ
thể của QSHCN thực hiện các quyền của mình trong phạm vi và thời hạn
được pháp luật thừa nhận được gọi là hoạt động thực thi QSHCN
(Industrial Property Enforcement).
Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp luật về SHCN, thông qua sự
bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn
hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là nói tới trình tự, thủ tục mà các
chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ
quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm.
Xét về bản chất, nội dung quan trọng nhất của QSHCN là độc quyền
sử dụng, khai thác đối tượng thuộc quyền. Vì vậy, thực thi QSHCN cũng
có nghĩa là đảm bảo quyền khai thác, sử dụng đối tượng QSHCN của chủ
thể nắm giữ quyền đó sao cho khi tiến hành việc khai thác sử dụng, người
nắm giữ quyền không gặp phải sự cản trở từ phía người thứ ba. Nói cách
khác, bản chất của việc bảo đảm điều kiện cần thiết để các chủ thể QSHCN
thực hiện các quyền của mình là ngăn chặn mọi hành vi cản trở việc sử
dụng, khai thác đối tượng QSHCN của chủ thể quyền.
Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn thi
hành, vấn đề thực thi QSHCN được tiếp cận và giải quyết theo hướng bảo
đảm các điều kiện ngăn ngừa và ngăn chặn việc người thứ ba (người không
15
nắm giữ quyền) khai thác, sử dụng các đối tượng QSHCN đang trong thời
hạn bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh mà không được phép của người
nắm giữ quyền và không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép sử dụng.
Như vậy, mục đích của thực thi QSHCN là ngăn ngừa và xử lý các hành vi
bị coi là xâm phạm QSHCN, tạo ra sức sống trên thực tế cho các quy phạm
pháp luật về SHCN.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và thực thi QSHCN là hai khâu có
liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình bảo vệ QSHCN. Tuy nhiên đây
là hai khái niệm có nội hàm khác nhau. Bảo hộ QSHCN được hiểu là việc
nhà nước bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định
những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp
xử lý những hành vi vi phạm đó. Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp
luật về SHCN thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ,
chấp hành pháp luật dù muốn hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là
nói đến trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện
pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành
vi vi phạm.
Trước đây, trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh
vực QSHCN, cũng như trong các điều ước quốc tế đều sử dụng thuật ngữ
“bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến trong
mọi hoạt động của lĩnh vực sở hữu trí tuệ, từ hoạt động xây dựng pháp luật,
hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ đến các hoạt
động thực thi QSHCN. Tuy nhiên, trong Luật SHTT, bên cạnh việc quy
định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại các phần từ Phần thứ nhất đến Phần
thứ tư, thì tại Phần thứ năm của Luật SHTT còn quy định về “bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo vệ” là “chống lại mọi sự xâm phạm để
giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn” [39]. Trong Luật SHTT, các quy định
về bảo vệ quyền SHTT bao gồm các nội dung như: quy định chung về bảo
16
vệ QSHTT; xử lý xâm phạm QSHTT bằng các biện pháp dân sự; xử lý xâm
phạm QSHTT bằng các biện pháp hành chính và hình sự; kiểm soát hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT. Từ các nội dung trên, có thể
hiểu bảo vệ QSHTT nói chung và bảo vệ QSHCN nói riêng là việc các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, thông qua hệ thống chính sách và pháp luật,
bảo vệ các quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHCN
nhằm chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của phía thứ ba.
Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là bằng những
quy định của pháp luật, Nhà nước xác định những hành vi bị coi là xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những
hành vi vi phạm đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
pháp nhân hoặc chủ thể khác trong hoạt động sở hữu công nghiệp.
Bảo vệ QSHCN hiện nay là đòi hỏi khách quan, không chỉ nhằm bảo
vệ quyền của người sáng tạo, mà còn là cơ chế bảm bảo sự công bằng, thúc
đẩy hoạt động sáng tạo tìm tòi của con người, góp phần bảo đảm một nền
thương mại bình đẳng, dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh; góp phần
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công
nghệ hợp pháp, qua đó nâng cao sự phát triển của toàn xã hội [32].
1.1.2.2. Khái niệm bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự và ý
nghĩa của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự
Bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự thực chất là thông qua các quy
định của pháp luật dân sự để xử lý các hành vi xâm phạm QSHCN của cá
nhân, tổ chức đối với các chủ thể QSHCN. Bản chất của biện pháp dân sự
là thông qua việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến QSHCN tại Tòa
án nhân dân, các chủ sở hữu QSHCN không chỉ được quyền yêu cầu Tòa
án áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHCN một cách
có hiệu quả mà còn buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại do hành vi đó
gây ra đối với thiệt hại về vật chất và tinh thần.
17
Thông qua việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN, Tòa án sẽ bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật
về SHCN. Việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN tại Tòa án là cơ chế
bảo hộ hữu hiệu nhất hiện nay, bởi QSHCN với bản chất là quyền dân sự,
do vậy tranh chấp phát sinh từ QSHCN là các tranh chấp dân sự. Bảo vệ
QSHCN không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền với việc bảo vệ
quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHCN. Trong đó quyền nhân thân là
quyền thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với các đối tượng
của QSHCN, còn quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất
từ việc cho phép sử dụng các đối tượng QSHCN thuộc sở hữu của mình.
Như trên đã đề cập, nói đến QSHCN là nói đến sự công nhận từ phía
nhà nước đối với một quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức. Bởi vậy,
QSHCN trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự, pháp luật về bảo vệ
QSHCN cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo
nguyên tắc này, người chiếm giữ QSHCN có quyền yêu cầu các cơ quan có
thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi có sự xâm phạm.
Thông thường tại nhiều quốc gia trên thế giới, QSHCN được bảo vệ
bằng biện pháp tư pháp, trong đó thủ tục tố tụng dân sự đóng vai trò chủ
đạo, thủ tục tố tụng hình sự chỉ áp dụng ở những hành vi cố ý, xâm phạm
với quy mô thương mại và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực nhãn hiệu
hàng hóa. QSHCN cần được bảo vệ bằng biện pháp tư pháp và áp dụng thủ
tục tố tụng dân sự bởi bản chất QSHCN là một quyền dân sự, do chủ thể
quyền và người liên quan có yêu cầu và được giải quyết theo trình tự, thủ
tục nhất định, luôn tuân thủ các nguyên tắc của Luật Dân sự và Tố tụng
Dân sự và luôn thể hiện sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ tranh
chấp, qua đó giúp các bên có được thái độ mềm dẻo, linh hoạt khi qiải
quyết, khắc phục những hạn chế mà biện pháp khác không giải quyết được.
Như vậy, bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự được hiểu là việc các
đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến các đối
18
tượng của QSHCN để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự.
So với bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính, chúng ta thấy: đặc
điểm quan trọng của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính chính
là ý nghĩa trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền. Mọi hành vi xâm
phạm, người thực hiện hành vi xâm phạm mà có gây tổn hại cho xã hội thì
đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý hành chính. Bên cạnh đó, biện
pháp hành chính có tính tới đến tăng nặng mức phạt đối với các tình tiết
tăng nặng như: vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm, tiếp
tục thực hiện hành vi vi phạm khi người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm
dứt hành vi đó, sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che dấu vi phạm...
Tuy nhiên, biện pháp hành chính không thể buộc người vi phạm bồi thường
thiệt hại cho chủ thể quyền. Đây là hạn chế của việc thực thi quyền sở hữu
công nghiệp bằng biện pháp hành chính. Trong quá trình thụ lý và xử lý
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính,
cơ quan hành chính có thẩm quyền thường chỉ xử phạt hành vi xâm phạm
quyền, còn phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chủ thể quyền đề nghị
tách riêng và thực hiện theo trình tự dân sự.
Ngược lại, cơ chế dân sự điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu quyền và
người xâm phạm quyền. Chẳng hạn, việc đền bù thiệt hại đã khắc phục tác
hại của hành vi xâm phạm quyền gây ra cho người nắm giữ quyền, mà
không đền bù thiệt hại cho người thứ ba và xã hội. Các biện pháp xử lý do
biện pháp dân sự đưa ra về căn bản, giúp lặp lại thế cân bằng lợi ích cho
người có quyền bị xâm phạm. Đối với người thực hiện hành vi xâm phạm,
sau khi bị xử lý bằng biện pháp dân sự sẽ trở về trạng thái ban đầu trước
khi thực hiện hành vi xâm phạm và không phải chịu trách nhiệm nặng hơn
khi tiếp tục có hành vi xâm phạm. Chính vì vậy, việc thực hiện bảo vệ
quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự sẽ đạt được mục tiêu là
ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể quyền.
19
- Xem thêm -