BẢO TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM:
KHÁI NIỆM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Xã hội học số 2 (122), 2013
BẢO TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM:
KHÁI NIỆM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
ĐẶNG NGUYÊN ANH
I. Khái niệm
Có thể thấy tính phổ quát của thuật ngữ “bảo trợ xã hội” (social protection) qua những
tài liệu nghiên cứu và các thảo luận chính sách trong nhiều hội thảo quốc tế gần đây. Tuy nhiên
ở mức độ nào đó, khái niệm này còn chưa rõ ràng, chủ yếu là do có nhiều cách sử dụng khác
nhau và cách đặt vấn đề khác nhau ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, bảo trợ xã hội gần với khái
niệm trợ giúp xã hội, là một trong ba trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh. Với mục đích khắc
phục rủi ro, trợ giúp xã hội cùng với bảo hiểm xã hội có chức năng giảm thiểu rủi ro, và chính
sách thị trường lao động chủ động nhằm phòng ngừa rủi ro cho người dân (Vũ Văn Phúc,
2011).Trợ giúp xã hội còn được xem như “phao cứu sinh” nhằm hỗ trợ cho các thành viên
trong xã hội không bị rơi vào hoàn cảnh bần cùng hóa (Mai Ngọc Cường, 2013). Như vậy ở
Việt Nam bảo trợ xã hội có nội hàm hẹp hơn so với an sinh xã hội và được triển khai dưới hình
thức trợ cấp xã hội trên thực tế. Từ điển thuật ngữ an sinh xã hội của Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội không có thuật ngữ “bảo trợ xã hội” mà chỉ có khái niệm “trợ giúp xã hội”
(social assistance) là “sự trợ giúp bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật của nhà nước (lấy từ nguồn
thuế, không phải đóng góp từ người dân) nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu cho đối tượng được
nhận (Viện Khoa học Lao động và Xã hội, 2011).
Mặc dù các tổ chức phát triển quốc tế đều sử dụng định nghĩa riêng về bảo trợ xã hội
song tất cả đều nhấn mạnh bản chất của bảo trợ xã hội thông qua các can thiệp chính sách cần
thiết của nhà nước và các hoạt động tình nguyện ở cộng đồng. Lấy ví dụ, Ngân hàng Thế giới
(WB) nhấn mạnh vào việc kiềm chế nguy cơ gây tổn thương, làm mất nguồn sinh kế. Trong
khi đó, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) lại hướng vào khả năng duy trì mức sống thông qua
việc làm như một quyền của người lao động, đặc biệt trong khu vực phi chính thức. Ngân hàng
Phát triển Châu Á (ADB) lại chú trọng đến tính dễ tổn thương của người dân khi gặp rủi ro nếu
không có sự bảo trợ xã hội (xem Hộp 1). Nhưng cho dù theo định nghĩa nào, các tổ chức quốc
tế đều thống nhất trong cách tiếp cận coi bảo trợ xã hội như một biện pháp kiềm chế nguy cơ
bị tổn thương, duy trì được thu nhập, sinh kế, tránh rơi vào đói nghèo. Mục đích của bảo trợ
xã hội nhằm đảm bảo thu nhập và các điều kiện sống thiết yếu đối với các trường hợp bất
hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ sức lo liệu được cuộc sống.
Hộp 1. Một số định nghĩa về bảo trợ xã hội
Ngân hàng Thế giới (WB)
Bảo trợ xã hội là những biện pháp công cộng nhằm giúp các cá nhân, hộ gia
đình và cộng đồng ứng phó với và kiềm chế được nguy cơ có tác động đến thu
PGS.TS, Viện Xã hội học.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học
www.ios.org.vn
Xã hội học số 2 (122), 2013
nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh thu nhập.
Nhấn mạnh sự kiềm chế nguy cơ, bảo trợ xã hội vừa là mạng lưới an toàn, vừa
là cơ sở để phát triển vốn con người.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
Bảo trợ xã hội là việc cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông
qua cơ chế nhà nước hoặc tập thể, cộng đồng nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức
sống hoặc cải thiện mức sống thấp.
Nhấn mạnh chiều cạnh bảo hiểm và mở rộng cơ hội việc làm và tạo việc làm
cho những đối tượng có nhu cầu và trong khu vực kinh tế phi chính thức.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
Bảo trợ xã hội đề cập đến một hệ chính sách công nhằm giảm nhẹ tác động bất
lợi của những rủi ro đối với hộ gia đình và cá nhân.
Nhấn mạnh tính dễ bị tổn thương nếu người dân không có bảo trợ xã hội, và
tác hại của việc thiếu bảo trợ xã hội đối với người khác.
Viện nghiên cứu Phát triển Hải ngoại (ODI)
Bảo trợ xã hội là những hành động công ích nhằm giảm thiểu tính tổn thương,
nguy cơ gây sốc và sự bần cùng hóa, là những điều không thể chấp nhận được
về mặt xã hội.
Nhấn mạnh tính dễ bị tổn thương và bần cùng hóa, do vậy bảo trợ xã hội hướng
vào người nghèo hoặc những người khó khăn nhất thuộc tầng lớp không ai
mong muốn trong xã hội.
Nguồn: Norton và Conway (2002)
Đối với Việt Nam, bảo trợ xã hội như một lưới an toàn (safety-net) nhằm bảo đảm sự an
toàn về đời sống của người dân khi họ bị rơi vào hoàn cảnh rủi ro và tự bản thân không khắc
phục được. Các hoạt động cứu trợ xã hội, giảm nghèo nhằm hạn chế nguy cơ dễ bị tổn thương
ở những đối tượng yếu thế, mất nguồn thu nhập và sinh kế, và không có điều kiện tiếp cận được
các dịch vụ xã hội cơ bản.
Quan điểm hiện đại về bảo trợ xã hội xem xét sự trợ giúp dưới ba hình thức: hỗ trợ thu
nhập, trợ cấp xã hội và dịch vụ xã hội. Trong bài viết này, bảo trợ xã hội là những giải pháp,
sáng kiến nhằm đem lại thu nhập và dịch vụ cơ bản cho các cá nhân và nhóm yếu thế, bảo vệ
họ khỏi các nguy cơ đe dọa sinh kế, đói nghèo, giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương, thúc đẩy công
bằng xã hội.
II. Bảo trợ xã hội cho các nhóm yếu thế
Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu
của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 nước ta. Nhà nước xây dựng một
lưới an toàn nhiều tầng, đảm bảo cho mọi người có một cuộc sống với những nhu cầu cơ bản
(Viện Khoa học Lao động và Xã hội, 2010). Chiến lược cũng đảm bảo việc tiếp cận các dịch
vụ xã hội của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, những người đang gặp khó khăn trong cuộc
sống như người nghèo, người già cô đơn, người khuyết tật, trẻ em mồ côi, những người không
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học
www.ios.org.vn
Xã hội học số 2 (122), 2013
may gặp rủi ro vì thiên tai, tai nạn... Các dịch vụ xã hội như khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế
được cấp miễn phí cho trẻ em dưới sáu tuổi, người nghèo, người dân tộc, các đối tượng chính
sách... Sau đây là những hình thức bảo trợ xã hội chủ yếu nhất, gắn với các đối tượng yếu thế
ở Việt Nam.
1. Trợ giúp xã hội cho các đối tượng yếu thế
Bảo trợ xã hội dưới hình thức này bao gồm trợ giúp thường xuyên và trợ giúp không
thường xuyên (đột xuất). Đây là hình thức quan trọng trong việc hỗ trợ thu nhập thường
xuyên và đột xuất cho các đối tượng yếu thế như người khuyết tật, người cao tuổi, người tâm
thần, trẻ em mồ côi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn… nhằm góp phần ổn định cuộc sống,
nâng cao năng lực phòng chống và chống chọi với rủi ro cho các nhóm yếu thế này.
Trợ giúp xã hội thường xuyên
Điều kiện để được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên từng bước được cải tiến
theo hướng mở rộng đối tượng được hưởng nên số đối tượng gia tăng nhanh, từ 416 nghìn đối tượng
vào năm 2005 đã tăng lên trên 1,25 triệu đối tượng vào năm 2009 và 1,6 triệu năm 2011. Kinh phí
này được ngân sách nhà nước đảm bảo. Theo ước tính con số được trợ giúp thường xuyên sẽ tăng
lên 2 triệu người vào cuối năm 2013. Trong đó, nhóm người từ 85 tuổi trở lên chiếm 43,1%, nhóm
người khuyết tật chiếm 24,5%, người già cô đơn 9,6%, người tâm thần 8,6%, người đơn thân nuôi
con nhỏ 7,6%, trẻ em mồ côi 5% (Bộ LĐTB&XH, 2011).
Chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội đã mở rộng tới tất cả các đối tượng
không chỉ các hộ nghèo. Chiến lược an sinh xã hội đã mở rộng sự trợ giúp thường xuyên đến
10 nhóm yếu thế có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Nhiều mô hình trợ giúp xã hội được xây
dựng phù hợp với nhu cầu của các nhóm đối tượng, vốn đa dạng trên thực tế và khác nhau giữa
các địa phương. Chương trình trợ giúp xã hội đã đáp ứng được nhu cầu bức xúc, góp phần giảm
bớt khó khăn thúc bách và sự mặc cảm của các đối tượng xã hội (Nguyễn Hải Hữu, 2006).
Bên cạnh những ưu điểm đã được, hoạt động trợ giúp xã hội còn có những hạn chế thách
thức sau đây:
Trước hết, số người được hưởng trợ giúp thường xuyên hiện còn ít, chỉ chiếm khoảng
1,8% dân số (tỷ lệ này ở nhiều nước trong khu vực từ 2,5-3,0%). Những qui định về tiêu chí
và điều kiện được hưởng còn quá chặt chẽ, cứng nhắc nên người dân ít được tiếp cận. Mức
chuẩn để tính mức trợ cấp còn thấp, chỉ bằng 1/3 so với chuẩn nghèo và chưa bảo đảm nhu cầu
trợ cấp của đối tượng. Mặc dù mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng bảo trợ đã được điều chỉnh
nhiều lần song ở mức độ quá thấp so với nhu cầu. Với tốc độ lạm phát như thời gian qua, mức
trợ cấp xã hội quá thấp, do vậy trợ giúp chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Các đối tượng
bảo trợ khó có thể đảm bảo được cuộc sống ở mức tối thiểu, và rất cần sự trợ giúp của người
thân, gia đình và cộng đồng.
Công tác trợ giúp thường xuyên ở nhiều địa phương tuy gắn với mục tiêu giảm nghèo
nhưng lại thường trùng lặp với hộ nghèo gây nên sự chồng chéo nguồn lực trợ giúp. Do vậy,
việc xác định đối tượng cũng như chi trả cũng còn nhiều bất cập. Chưa tách bạch rõ việc xác
định đối tượng và chi trả, dẫn đến sự thiếu minh bạch trên thực tế. Hình thức trợ giúp thường
xuyên chưa được lượng hóa, do đó khó có thể đánh giá đúng hiệu quả của chương trình. Hoạt
động trợ cấp còn chưa kịp thời đối với một số đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, khu vực miền
núi. Nhiều đối tượng vẫn chưa được biết thông tin về chính sách này. Các mô hình chăm sóc
đối tượng dựa vào cộng đồng chưa phát triển.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học
www.ios.org.vn
Xã hội học số 2 (122), 2013
Trợ giúp xã hội đột xuất (không thường xuyên)
Đây là loại hình bảo trợ khi xảy ra những rủi ro bất thường đang có xu hướng ngày càng
nhiều và trên diện rộng. Hầu hết người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai đều ít nhiều được hỗ trợ,
khắc phục hậu quả, khôi phục sản xuất và ổn định đời sống. Hoạt động này được triển khai
rộng rãi ở cộng đồng, trong nhiều năm qua đã trợ cấp hàng nghìn tỉ đồng và hàng chục nghìn
tấn lương thực, thuốc men, chủ yếu nhằm trợ giúp khắc phục hậu quả thiên tai. Công tác cứu
trợ đột xuất cũng đã huy động được phong trào tương thân, tương ái của mọi tầng lớp nhân
dân, của các tổ chức quần chúng, các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài, nhờ đó đã đóng góp được một phần đáng kể cho những thiếu hụt nguồn
lực từ ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên do diện che phủ thấp, lại không kịp thời nên phạm vi trợ giúp còn hẹp, tập
trung chủ yếu cho đối tượng bị rủi ro thiên tai, chưa bao gồm các đối tượng chịu những rủi ro
kinh tế và xã hội. Mức trợ cấp đột xuất còn quá thấp, chưa bù đắp được quá 1/5 thiệt hại của
hộ gia đình. Công tác quản lý hoạt động trợ giúp từ cộng đồng xã hội còn nhiều bất cập, khó
kiểm soát và điều phối được các nguồn hỗ trợ từ các nguồn. Khó khăn hiện nay là cơ sở dữ liệu
quản lý thiên tai không đầy đủ, thiếu tin cậy do không xác định được chính xác đối tượng và
tiêu chí được hưởng trợ cấp. Vấn đề này làm hạn chế tính khách quan và công bằng cho việc
xây dựng các phương án trợ giúp qua các cấp.
Có thể nói, khung pháp lý cho công tác bảo trợ xã hội còn nhiều bất cập và chưa được
thể chế hóa ở mức cao (ví dụ ban hành Luật); chưa có chính sách khuyến khích chăm sóc đối
tượng dựa vào cộng đồng; cơ chế tài chính chưa rõ ràng; mức trợ cấp xã hội của Nhà nước còn
thấp, chưa đáp ứng được mức sống tối thiểu của người dân. Các loại hình trợ giúp xã hội và
cứu trợ xã hội tự nguyện chưa đa dạng, chưa chuyển được từ hoạt động cứu trợ và trợ giúp xã
hội sang cung cấp dịch vụ xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận và chăm sóc đối tượng dựa vào
cộng đồng.
Cùng với xu thế phát triển của xã hội và quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường diễn
ra ngày càng nhanh và hội nhập quốc tế càng sâu rộng, thì các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội
ngày càng có xu hướng tăng, như khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu. Là nước đang phát triển với điều kiện địa lý, tự nhiên đặc thù, sản xuất phụ
thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên nước ta luôn gặp phải rủi ro thiên tai, ảnh hưởng đến
sinh kế và thu nhập của người dân. Trong khi đó Việt Nam lại chưa có nhiều kinh nghiệm
phòng, chống rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa, nguồn lực bị hạn chế, thậm chí “lực bất tòng
tâm” trong việc ứng phó với thiên tai. Năng lực ứng phó với các rủi ro của người dân và cộng
đồng chưa cao, hiệu quả chưa kịp thời.
2. Trợ giúp người nghèo
Xóa đói - giảm nghèo là một hoạt động bảo trợ quan trọng ở Việt Nam. Các chính sách,
chương trình giảm nghèo trong thời gian qua đã bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng nghèo,
bao gồm các hộ nghèo và địa bàn nghèo ở nước ta. Hệ thống chính sách giảm nghèo đến nay
được xây dựng tương đối toàn diện. Các chương trình giảm nghèo tập trung vào vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc, miền núi. Chương trình xóa đói - giảm nghèo được thực hiện đồng
thời trên cả ba phương diện: (i) Tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ
giúp pháp lý, nhà ở và nước sinh hoạt; (ii) hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách
tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, khuyến nông-lâm-ngư, phát
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học
www.ios.org.vn
Xã hội học số 2 (122), 2013
triển ngành nghề, xuất khẩu lao động; và (iii) phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho
các xã đặc biệt khó khăn.
Các chương trình giảm nghèo đã hướng đến các địa bàn nghèo nhất. Người nghèo được
tiếp cận với tín dụng ưu đãi, thủ tục vay được đơn giản hóa. Các hoạt động hỗ trợ y tế và miễn
giảm học phí cho trẻ em nghèo đã đem lại lợi ích thực sự đối với giảm nghèo truyền kiếp qua
các thế hệ. Chính sách hỗ trợ nhà ở đã góp phần quan trọng ổn định cuộc sống các hộ nghèo
dân tộc thiểu số.
Mặc dù theo chuẩn nghèo hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam chỉ xấp xỉ 10%, song kết
quả xóa đói giảm nghèo chưa bền vững. Tỷ lệ hộ dân dù đã thoát nghèo nhưng nằm sát chuẩn
nghèo rất lớn (70-80%), tỷ lệ tái nghèo cao (7-10%); phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng.
Nhận thức về giảm nghèo bền vững còn chưa sâu rộng nên việc gắn kết chặt chẽ giữa tăng
trưởng kinh tế với giảm nghèo còn hạn chế. Hình thức trợ giúp giảm nghèo thiên về hỗ trợ
trực tiếp bằng tiền mặt hoặc hiện vật hơn là tạo cơ hội và điều kiện để người nghèo tự vươn lên
thoát nghèo bền vững. Mặc dù chính sách hỗ trợ giáo dục miễn giảm học phí, hỗ trợ đồ dùng
học tập, chi phí ăn, ở cho học sinh, sinh viên nghèo, nhưng những phần chi phí và đóng góp
khác của hộ gia đình cho giáo dục còn cao so với khả năng chi trả của hộ nghèo. Một bộ phận
con em hộ nghèo vẫn chưa hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục.
Việc triển khai thực hiện, chương trình giảm nghèo còn nhiều bất cập do nhiều cơ quan,
tổ chức cùng tiến hành dẫn đến chồng chéo về đối tượng, nguồn lực phân tán, lãng phí. Hiện
chưa có hệ thống chính sách khuyến khích hộ nghèo thoát nghèo, vươn lên mà chính sách hiện
hành có xu hướng bao cấp trở lại, nặng về cơ chế xin - cho, tạo tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào
cấp trên, bệnh thành tích còn khá phổ biến trong quá trình triển khai thực hiện, báo cáo, kiểm
tra, đánh giá.
Việc nâng cao năng lực thị trường cho người nghèo, biến họ thành chủ thể chủ động và
tích cực trong phát triển kinh tế là rất cần thiết. Để phát huy hiệu quả nguồn lực, chương trình
giảm nghèo chưa được lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia. Cần tạo cơ hội cho
người nghèo tiếp cận thuận lợi và với chi phí thấp các dịch vụ xã hội có chất lượng nhằm giảm
nguy cơ cho người nghèo khi gặp rủi ro do thiên tai, do sự tác động của các cú sốc khủng
hoảng, suy thoái kinh tế, lạm phát, tăng giá, cũng như những bất trắc trong cuộc sống (đau ốm,
bệnh tật, tai nạn...). Tạo cơ hội ưu tiên cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận
các dịch vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm, khám chữa bệnh, nhà ở, nước sạch, văn
hóa, thông tin... thông qua thực hiện lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia.
3. Trợ cấp ưu đãi người có công
Với một đất nước có ngót 1/2 thế kỷ chiến tranh chống xâm lược, ưu đãi xã hội chiếm
một vị trí đặc biệt trong hoạt động bảo trợ xã hội ở Việt Nam. Đây là một hình thái đặc thù, thể
hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” đối với những người đã hy sinh, cống
hiến một phần xương máu cho Tổ quốc. Chế độ trợ cấp người có công được thực hiện từ năm
1995 theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với Cách mạng và một số văn bản pháp quy khác
của Chính phủ có ý nghĩa kinh tế, xã hội, nhân văn sâu sắc. Thành công nhất là chế độ trợ cấp
này đã góp phần ổn định, từng bước nâng cao đời sống đối tượng chính sách, hợp với lòng dân.
Chế độ trợ cấp người có công hiện bao gồm: Trợ cấp hàng tháng cho Bà Mẹ Việt Nam
anh hùng, trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng cho đối tượng chính sách (thân nhân liệt sỹ, người có
công đối với cách mạng, cô đơn không nơi nương tựa, trợ cấp hàng tháng đối với con liệt sĩ,
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học
www.ios.org.vn
Xã hội học số 2 (122), 2013
con thương bệnh binh mất sức lao động đang học tại các trường cao đẳng, đại học công lập.
Hiện cả nước có hơn 8 triệu người được hưởng chế độ ưu đãi một lần và ưu đãi hàng tháng
(khoảng 1,5 triệu người hưởng trợ cấp hàng tháng). Trong số này, hơn 1,1 triệu được cấp thẻ
bảo hiểm y tế miễn phí. Hàng chục nghìn con thương binh, con liệt sĩ được hưởng chế độ ưu
đãi về giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế. Gần 15.000 cán bộ lão thành cách mạng được hỗ trợ cải
thiện nhà ở… Hàng vạn đối tượng bị nhiễm chất độc da cam được hưởng trợ cấp xã hội. Đến
nay 90% người có công với cách mạng đã có mức sống bằng hoặc cao hơn so với mặt bằng
mức sống nơi cư trú (Bộ LĐTB&XH, 2011).
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách ưu đãi với người có công
còn có những bất cập và tồn tại nhất định, cần được nhanh chóng xem xét giải quyết. Trước
hết, chế độ trợ cấp ưu đãi chưa tương ứng với mức sống bình quân của xã hội. So với mức sống
tối thiểu trong xã hội, mức trợ cấp ưu đãi quá thấp, không đảm bảo ý nghĩa xã hội của chương
trình. Việc thực hiện các chính sách đối với một số đối tượng thụ hưởng nhìn chung còn chậm,
mức hỗ trợ còn quá thấp so với nhu cầu.
Phong trào đền ơn đáp nghĩa ở một số địa phương chưa gắn với việc giáo dục truyền
thống, tuyên truyền ý nghĩa của phong trào. Một số địa phương còn nặng về hoạt động quyên
góp, giúp đỡ vật chất, thiếu sự động viên tinh thần. Các việc làm tình nghĩa và phong trào chăm
sóc người có công chưa được thực hiện thường xuyên, chưa phát triển đồng đều ở các địa
phương. Nhiều nơi phong trào này chỉ còn tập trung vào dịp kỷ niệm ngày Thương bình - Liệt
sỹ (27/7).
III. Nhận xét kết luận
Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển bền vững
của đất nước. Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh xây dựng một hệ thống an sinh xã hội với các
chức năng phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục được các rủi ro, đảm bảo cuộc sống tối thiểu
cho mọi người trong mọi hoàn cảnh.
Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020 nhằm đảm bảo mọi người dân
có mức sống trung bình, không rơi vào tình trạng bần cùng hóa khi phải đối mặt với các rủi ro,
bất trắc. Với mục tiêu đến năm 2020, hệ thống an sinh xã hội sẽ che phủ khắp toàn dân, hướng
vào mục tiêu quyền con người, đặc biệt là quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, và bảo
vệ các nhóm yếu thế trong xã hội (Vũ Văn Phúc, 2012).
Trong điều kiện đó, bảo trợ xã hội ở Việt Nam đứng trước một đòi hỏi cấp bách là phải
nhanh chóng hoàn thiện các chế độ (số lượng, nội dung đảm bảo, nguồn huy động,…) nhằm
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong điều kiện phát triển mới (kinh tế thị trường, kinh
tế tư nhân, hội nhập quốc tế).
Thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, tăng
trưởng bền vững không phải là mục tiêu dễ dàng thực hiện. Nguy cơ kinh tế giảm phát, lạm
phát và bất ổn kinh tế vĩ mô thường xuyên xảy ra rất khó đoán định dẫn đến tình trạng mất việc
làm và thu nhập bất ổn định. Giá cả và lạm phát tăng cao đồng nghĩa với việc người dân mất
đi thu nhập thực tế (theo tỷ lệ lạm phát). Biến đổi khí hậu bất thường theo hướng cực đoan,
thiên tai, bệnh dịch luôn rình rập làm cho sản xuất và đời sống dân cư càng gặp nhiều khó khăn.
Mất sinh kế, thu nhập giảm sút, thiên tai thường xuyên đe dọa làm tăng tính dễ bị tổn
thương đối với nhiều gia đình và cá nhân. Việc thương mại hóa các dịch vụ xã hội càng làm
tăng sự tổn thương của các nhóm dân cư đang cần được bảo trợ. Bất bình đẳng xã hội luôn là
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học
www.ios.org.vn
Xã hội học số 2 (122), 2013
yếu tố thách thức mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo an sinh xã hội ở nước ta. Thách thức
là ở chỗ còn có nhiều đối tượng yếu thế khác cần được trợ giúp như người nhiễm HIV/AIDS,
lao động di cư, phụ nữ trẻ em bị bạo lực, nạn nhân của bom mìn sau chiến tranh, của tệ nạn
mua bán người,… Ngay cả với các hộ dù đã thoát nghèo nhưng số nằm sát chuẩn nghèo rất lớn
(70-80% số hộ), đồng thời tỷ lệ tái nghèo cao (ở mức 7-10%) và có thể tăng lên bất cứ lúc nào
nếu thiên tai xảy ra.
Mặc dù tình trạng “nghèo”, “thu nhập thấp”, “bị gạt ra ngoài lề xã hội” hoặc bị “bỏ quên”
không phải lúc nào cũng tập trung rơi vào một nhóm đối tượng giống nhau, song tất cả đều
tăng tính dễ bị tổn thương, đặc biệt khi bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng như hiện
nay. Sự phân hóa nhanh về mức sống trong nền kinh tế thị trường, đã làm cho các nhóm xã hội
yếu thế ngày càng trở nên yếu thế hơn và dễ bị tổn thương hơn trước những cú sốc. Các nguy
cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có xu hướng tăng như khủng hoảng kinh tế - tài chính
toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,… Bên cạnh đó, xu hướng già hóa dân số là hiện
hữu ở Việt Nam tiếp tục đặt ra nhiều khó khăn thách thức, tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí, và các dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi. Điều này
đòi hỏi phải có một hệ thống bảo trợ hiệu quả hơn, phù hợp hơn với nhu cầu và đặc điểm của
xã hội.
Để phát huy và huy động tốt các nguồn lực thực hiện an sinh và bảo trợ xã hội, không thể
trông mong vào nguồn lực bao cấp của Nhà nước, vốn dĩ có hạn. Cần phát huy những nguồn lực
tiềm tàng trong xã hội, đẩy mạnh công tác xã hội hóa nhằm thu hút rộng rãi các nguồn lực trong và
ngoài nước từ cá nhân, các tổ chức xã hội. Nhà nước cần khuyến khích tư nhân, cá nhân, chủ sử
dụng lao động, doanh nghiệp, tổ chức cộng đồng cùng tham gia, phát triển các hình thức tự nguyện,
cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội bền vững không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo cuộc sống an toàn
cho mọi người dân Việt Nam.
Tài liệu trích dẫn
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. 2011. Trợ cấp ưu đãi xã hội trong hệ thống an sinh xã
hội Việt Nam.
Mai Ngọc Cường. 2013. Về an sinh xã hội ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật. Hà
Nội.
Nguyễn Hải Hữu. 2006. Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo đánh giá Đổi mới. Viện Khoa học xã
hội Việt Nam. Hà Nội.
Norton, A., T. Conway and M. Foster. 2002. "Social Protection: Defining the field of action
and policy". Development Policy Review 20(5).
Viện Khoa học Lao động và Xã hội. 2009. “Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 20112020”. Tạp chí Lao động và Xã hội. Số 19.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội. 2011. Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam. GIZ, ILSSA.
Vũ Văn Phúc. 2012. An sinh xã hội ở nước ta: một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Tham luận
Hội thảo của Hội đồng Lý luận Trung ương về An sinh xã hội. Hà Nội.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học
www.ios.org.vn
- Xem thêm -