Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống khảm trai Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - H...

Tài liệu Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống khảm trai Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội

.PDF
43
286
88

Mô tả:

/ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN NGUYỄN THỊ THỦY BẢO TỔN VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỂN THỐNG KHẢM TRAI CHUYÊN MỸ - PHÚ XUYÊN - HÀ NỘI KHOÁ LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI • • • HỌC • Chuyên ngành: Sinh thái - Môi trường HÀ NỘI - 2010 ^Jtợỉỉự//f C7/ttỉự 1 - J?C/<9ĨQÍ /ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip GIỚI THIỆU CHUNG Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam vốn có truyền thống quý báu từ lâu đời. Truyền thống đó gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công truyền thống, với những nét độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm sinh hoạt bình thường hàng ngày, mà một số còn là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của nền văn hóa xã hội, mức độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm nhân văn của dân tộc.. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam có những nét riêng và độc đáo, tên của sản phẩm luôn kèm theo tên của làng làm ra nó; sản phẩm nổi tiếng cũng làm cho làng nghề tạo ra các sản phẩm ấy nổi tiếng. Ví dụ như: lụa Vạn Phúc (Hà Đông), sơn mài Hạ Thái (Thường Tín), tơ sợi Tân Triều (Thanh Trì), gốm sứ Bát Tràng... Khảm trai hay còn gọi là khảm xà cừ hoặc cẩn xà cừ cũng là một nghề thủ công có truyền thống lâu đời của Việt Nam. Do có địa thế thuận lợi, đất nước nằm trải dài theo bờ biển nên nguồn nguyên liệu dồi dào, vì vậy từ xa xưa nghề này đã rất phát triển. Làng nghề xã Chuyên Mỹ ở phía Nam thủ đô Hà Nội là cái nôi của nghề khảm xà cừ Việt Nam. Với lịch sử 1000 năm, trải qua bao sóng gió, thăng trầm, nghề khảm trai Chuyên Mỹ được người dân nơi đây đời này qua đời khác, tiếp tục lưu truyền và phát triển, tạo nên sức sống bền bỉ cho một làng nghề cổ. Trước đây, các sản phẩm khảm trai chủ yếu là sập gụ, tủ chè, bàn ghế hoành phi câu đối... được sử dụng trong triều đình hay phục vụ đời sống của các quan lại, quí tộc. Ngày nay, cùng với sự phát triển xã hội ngày càng cao, sản phẩm của làng nghề cũng ngày càng đa dạng. Nhờ có nghề khảm trai truyền thống mà nhiều gia đình đã thoát nghèo, làm giàu từ nghề, tạo công ăn ^Jtợỉỉự//f C7/ttỉự 2 - J?C/<9ÍQÍ /ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip việc làm cho nhiều lao động tại địa phương cũng như ở nhiều nơi, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, do sự xuất hiện của hàng loạt các sản phẩm nội thất mới nên nhu cầu của người tiêu dùng đối với các mặt hàng khảm trai ngày càng giảm dẫn tới thiếu thị trường. Thêm vào đó là việc thiếu thợ lành nghề, thiếu cải tiến kĩ thuật, thiếu quan tâm tới việc đổi mới mẫu mã, chưa thực sự nhạy bén trước những biến động của thị trường ... VI vậy, nghề Khảm trai truyền thống xã Chuyên Mỹ đang đứng trước nguy cơ mai một, thậm chí biến mất như nghề tranh Đông Hồ (Thuận Thành - Bắc Ninh), tranh Hàng Trống (Hà Nội)... Trước những khó khăn mà nghề khảm trai truyền thống ở xã Chuyên Mỹ đang gặp phải thì việc nghiên cứu các giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề theo hướng quảng bá thương hiệu, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm, gắn với du lịch làng nghề là một vấn đề cần thiết. ^Jtợỉỉự//f C7/ttỉự 3 /ưíĩrt ff)/ /ỉợ/ĩỉip MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kinh tế làng nghề đang đóng góp gì cho nền kinh tế Việt Nam? Tại sao cùng một môi trường kinh tế xã hội, nhưng có những làng nghề phát triển mạnh, lại có những làng nghề mai một, thậm chí có nguy cơ biến mất? Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta đã tập trung toàn bộ sức người, sức của mà chưa chú ý đầy đủ đến các giá trị văn hóa của dân tộc dẫn đến các giá trị đó đang dần bị đi vào quên lãng. Để bảo tồn và duy trì các giá trị văn hóa dân tộc, nhiều làng nghề truyền thống đã ra đời. Làng nghề là cả một môi trường văn hóa - kinh tế - xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, đúc kết ở những thế hệ nghệ nhân tài năng, với những sản phẩm có bản sắc riêng của mình, nhưng lại tiêu biểu và đặc trưng cho cả dân tộc Việt Nam. Môi trường văn hóa làng nghề là khung cảnh làng quê, với cây đa, bến nước, đình chùa, đền m iếu..., các hoạt động lễ hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Làng nghề truyền thống từ lâu đã làm phong phú thêm truyền thống văn hóa Việt Nam. Làng nghề phát triển còn tạo ra bộ mặt đô thị hóa cho nông thôn để nông dân ly nông nhưng không ly hương và làm giàu trên quê hương mình. Nó làm giảm bớt căn bệnh “to đầu” vì làn sóng nông dân nhập cư về các thành phố lớn kéo theo hàng loạt hệ quả xã hội nặng nề. Nó không chỉ đem lại nhiều lợi ích mà còn đảm bảo cho việc lưu giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc. Khảm trai ở xã Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội là một làng nghề như thế. Làng nghề này đã tận dụng nguồn lao động nông nhàn tại chỗ, với quy mô đơn giản, phù hợp, vốn đầu tư vừa phải tạo nguồn thu nhập đáng QíựMựếít Ç7A/ ^7/ĩỉíí/ 4 /ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip kể cho gia đình và xã hội, góp phần giải quyết sự dư dôi lao động trong những ngày nông nhàn. Tuy nhiên hiện nay, do xu thế phát triển của thời đại, quá trình đô thị hóa ngày càng nhiều; cộng thêm việc các nghệ nhân (bàn tay vàng) ngày một thưa dần, bí quyết làm nghề dần bị thất truyền, mẫu mã sản phẩm chưa thay đổi kịp với thị hiếu người tiêu dùng, công nghệ sản xuất còn thô sơ, quy mô nhỏ lẻ, các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường chưa triệt để, cơ sở vật chất hạ tầng thiếu đồng bộ... đã khiến cho làng nghề đứng trước nguy cơ dần bị mai một. Để khắc phục những khó khăn còn tồn tại của làng nghề, thực hiện nghị quyết của tỉnh (thành phố), đảm bảo phát triển bền vững làng nghề nên tôi đã chọn đề tài: “Bảo tồn và phát triển làng nghê truyền thống Khảm trai Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội”. 2. Mục tiêu - Tìm hiểu quy mô sản xuất của làng nghề khảm trai ở xã Chuyên Mỹ huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội. - Tìm hiểu các nguyên nhân làm làng nghề bị suy giảm và mai một, từ đó đề ra các giải pháp khắc phục nhằm bảo tồn và phát triển nó. 3. Ý nghĩa Đề tài này có nhiều ý nghĩa thiết thực: 1) Bảo tồn làng nghề hiện có, gìn giữ những nét giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc của địa phương. 2) Mở rộng quy mô phát triển của làng nghề, góp phần phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người lao động. 3) Xây dựng giải pháp, quy hoạch tổng thể, chính sách quản lý phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu quy hoạch kinh tế xã hội của vùng. ^Jtợỉỉự//f C7/ttỉự 5 /ưíĩrt //>//ỉợ/ĩỉip 4) Từ đó có thể góp phần vào việc bảo tồn và phát triển các làng nghề khác của Hà Nội mở rộng và ở các địa phương khác có cùng hoàn cảnh như xã Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội. ^Jtợỉỉự//f Ç 7/it Q/ítỉự 6 - JÇÇ/VÎVÎ /ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip CHƯƠNG 1: PHƯƠNG PHÁP, THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐlỂM n g h iê n c ứ u 1.1 Phương pháp nghiên cứu 1- Điều tra khảo sát thực địa - Điều kiện tự nhiên của xã. - Đời sống của nhân dân trong xã. - Khảo sát tình hình sức khỏe của nhân dân địa phương qua quan sát, phỏng vấn và qua số liệu của trạm y tế xã. - Các số liệu được ghi chép qua báo cáo của ủy ban nhân dân xã Chuyên Mỹ. - Phỏng vấn các chủ cơ sơ sản xuất trong xã. 2. Nghiên cứu, thu thập tài liệu. 3- Phân tích số liệu để tìm hiểu tình hình phát triển của ỉànq nọhề. 1.2 Thời gian nghiên cứu Đề tài tiến hành từ tháng 7/2008 đến tháng 8/2009. 1.3 Địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu tại xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. ^Jtợỉỉự//f C7/ttỉự 1 /ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN ĐỂ TÀI NGHIÊN cứu Mặc dù vãn tồn tại và phát triển, thu hút nhiều lao động, sản phẩm có đầu ra và ngày càng góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, cũng như khôi phục những di sản văn hóa, nhưng các làng nghề truyền thống ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Đó là làm sao để phát triển làng nghề bền vững, hài hòa giữa lợi ích kinh tế và an ninh xã hội, gìn giữ môi trường, bảo tồn văn hóa. (Theo TS Nguyễn Xuân Chính, giám đốc sở Công nghiệp Hà Tây (cũ)) [10] Vấn đề phát triển làng nghề hiện nay đang được Nhà nước và các cơ quan tổ chức hết sức quan tâm. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, các buổi hội thảo nhằm tìm ra các biện pháp hữu hiệu giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trong các làng nghề nhằm gìn giữ và phát triển làng nghề [4]. Làng nghề Khảm trai Chuyên Mỹ cũng đã nằm trong nhiều dự án bảo tồn của tỉnh Hà Tây (cũ) như dự án “Xây dựng mô hlnh Bảo tàng di sản văn hóa làng và Hành trình văn hóa du lịch làng nghề” do TS Đặng Văn Bài, Cục trưởng Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa - Thông tin) đưa ra năm 2006. Dự án này nằm trong hội thảo “Phát triển bền vững làng nghề Hà Tây. Thực trạng và giải pháp” [10]. Tuy nhiên, các giải pháp được đưa ra cho những vấn đề này cũng chỉ mới là những gợi ý chung chung như đề nghị Nhà nước, các bộ, ngành liên quan đầu tư kinh phí, có chương trình, dự án quy hoạch bảo tồn, phát triển làng nghề...m à chưa có một giải pháp cụ thể. Hơn nữa đây là một dự án đòi hỏi nguồn kinh phí lớn. Việc khai thác du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hóa chất lượng cao, kén khách, cho nên đòi hỏi phải được tiến hành hết sức chu đáo, khoa học, cần có quy hoạch cụ thể. VI vậy, dự án chưa thực sự đem lại hiệu quả. QíựMựếít ^7/ĩỉ' ^77ĩỉíí/ 8 /ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip Điểm mới trong công trình tôi nghiên cứu: đây là công trình đầu tiên đề cập riêng đến việc sản xuất khảm trai tại làng nghề xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Công trình đề cập đến các khâu của quá trình sản xuất, thực trạng và xu hướng hoạt động của làng nghề. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những bất lợi để bảo tồn, duy trì và phát triển làng nghề bền vững. ^Jtợỉỉự//f Q/ítỉự 9 - J?C/<ỌÍQÍ /ưíĩrt ff)/ /ỉợ/ĩỉip CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Sơ lược về điều kiện tự nhiên và xã hội xã Chuyên Mỹ - Phú Xuyên Hà Nội 3.1.1 Vị trí địa lý [10] Xã Chuyên Mỹ nằm ở phía cực tây vùng chiêm trũng huyện Phú Xuyên, cách đường quốc lộ 1A gần 10 km. Xã có các mặt [10]: - Phía Đông: giáp xã Tân Dân - Phía Tây: giáp xã Trung Tú - úng Hoà - Phía Nam: giáp xã Minh Đức - úng Hoà - Phía Bắc: giáp xã Hoàng Long , 3.1.2 Điều kiện khí hậu thủy văn [5, 6] Xã Chuyên Mỹ nằm trong vùng châu thổ sông Hồng nên điều kiện khí hậu nơi đây mang đậm nét của khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ, đó là kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. 3.1.2.1 C hế độ nhiệt Nhiệt độ của vùng tương đối điều hòa, nhiệt độ cao nhất trong năm là 38°c và nhiệt độ thấp nhất trong năm 9°c. Sự chênh lệch về nhiệt độ lên tới 29°c trong năm. 3.1.2.2 C hế độ mưa Do nằm trong khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng nên đặc điểm chế độ mưa của vùng này cũng là những nét đặc trưng về chế độ mưa của xã Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội. 3.1.2.3 Hệ thống kênh mương Khu vực Chuyên Mỹ có duy nhất một con sông Nhuệ chảy qua. Nhân dân trong xã sống dọc hai bên sông. Do có nghề trồng lúa từ lâu đời, lại là ^Jtợỉỉự//f Ç7/it ^7/ĩỉíí/ 10 - JÇÇ/VÎVÎ /ư íĩrt //>/ /ỉự /ĩ/ip vùng chiêm trũng nên có mạng lưới kênh mương khá dày đặc, có vai trò quan trọng trong công tác tưới tiêu phục vụ mùa màng cũng như đời sống của nhân dân. 3.1.3 Điều kiện xã hội [3] 3.1.3.1 Dân cư Xã Chuyên Mỹ nằm ờ phía Tây huyện Phủ Xuyên. Đây là một xã thuộc huyện ngoại thành thành phố Hà Nội. Do có tuyến đường quốc lộ 1A cũ và đường cao tốc chạy qua nên Phú Xuyên là huyện cửa ngõ nằm trên trục giao thông quan trọng nối liền Hà Tây cũ với các tỉnh phía Nam. Theo thống kê, xã Chuyên Mỹ có tổng diện tích đất tự nhiên là 792 ha, trong đó có 506 ha đất canh tác (có 124,2 ha được chuyển đổi cơ cấu kinh tế trang trại). Dân số trong xã gồm 9150 khẩu thuộc 2137 hộ. Số người trong độ tuổi lao động là 5450 lao động. Xã có một đền thờ cụ tổ làng nghề Trương Công Thành ở thôn Chuôn Ngọ được Bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa. 7/7 thôn của xã đều được tỉnh công nhận là làng nghề. 3.1.3.2 Tình hình sản xuất nông nẹhiệp, ngành nqhề Phát triển kinh tế của xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp . Trong đó phát triển tiểu thủ công nghiệp là chủ yếu với các nghề truyền thống như: sơn mài, khảm trai và chế biến nguyên liệu khảm. Hiện nay, nghề mộc cũng khá phát triển với số hộ làm ngày càng tăng. Xã có 1 hợp tác xã nông nghiệp và 2 doanh nghiệp tập thể là Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và Quỹ tín dụng nhân dân. Số lượng lao động khá lớn: có 1450 cơ sơ sản xuất kinh doanh hàng tiểu thủ công nghiệp với 4490 lao động, tạo công ăn việc làm cho 100% số người trong độ tuổi lao động của xã và 600 - 800 lao động mỗi năm ở các xã lân cận. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung chủ yếu là nghề khảm trai sơn mài. Sản phẩm hàng hóa sơn khảm và nguyên liệu khảm chủ yếu tiêu thụ ^Jtợỉỉự//f C7/ttỉự 11 /ưíĩrt ff)/ /ỉợ/ĩỉip trong nước, tỷ lệ xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 10% và đều thông qua khâu trung gian. Ngoài phát triển làng nghề tại địa phương, xã có 250 - 300 hộ đứng chủ thuê mướn lao động ở các nơi đi làm nghề khảm trai sơn mài khắp tỉnh thành trong cả nước như: thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Hà Nam, Đồng Nai, H uế... nhìn chung các cơ sở này làm ăn có hiệu quả, cho thu nhập cao. Hợp tác xã sơn khảm Ngọ Hạ của xã đảm bảo công ăn việc làm thường xuyên cho 50 xã viên và hàng trăm lao động nhận làm, đào tạo nghề cho 90 - 100 lao động thuộc các đối tượng trẻ em tàn tật mỗi năm. Hàng năm, hợp tác xã đều mở các lớp đào tạo nghề cho những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, con em các đối tượng chính sách có nhu cầu học tập. Những đối tượng ở xa được bố trí nơi ăn chốn nghỉ, các em gặp khó khăn về kinh tế được hỗ trợ kinh phí giúp các em có điều kiện vào học. Hợp tác xã còn là nơi quảng bá sản phẩm cho khách du lịch về thăm quan và đặt hàng. Hiện xã có 3 công ty tư nhân với số lao động thường xuyên từ 50 - 70 người, các công ty này đều làm ăn có hiệu quả. 3.2 Lịch sử hình thành làng nghề Khảm trai xã Chuyên Mỹ - Phú Xuyên -H à Nội [2,3, 10] Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước đây, nghiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam. Việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải mùa vụ chính. Nghề khảm trai ra đời vào thời nhà Lý từ thế kỷ XI do cụ Trương Công Thành phát minh ra. Cụ Trương Công Thành là phó tướng của nhà vua, cụ là người thông thạo văn võ và đã từng tham gia trong quân đội của Lý Thường Kiệt. Cụ có công phạt Tống bình Chiêm, bảo vệ đất nước. QíựMựếít Ç7A/ ^7/ĩỉíí/ 12 X yzW J/tt/t - X&VÍQÍ /ưíĩrt //>//ỉự/ĩ/ip Sau khi tham gia nhiều cuộc chinh chiến bảo vệ đất nước, ông không ở lại triều đình làm quan mà đi ngao du khắp nơi. Khi đến bãi sông, bãi biển thấy vỏ trai, vỏ ốc bị mưa gió xô đẩy làm mòn lớp vỏ bên ngoài, lộ ra nhiều màu sắc óng ánh trong sáng trông rất đẹp. Sau mấy ngày ngắm nhìn, suy nghĩ, vốn sẫn có hoa tay, ông ghè ra mài, gọt theo ý muốn rồi xếp đi xếp lại vào các nét chữ ở hoành phi câu đối. Ong nghĩ: “Nét mực nho cũng đẹp nhưng thay thế bằng chất liệu vỏ trai chắc và đẹp hơn nhiều”. Thế là ông tiến hành thể hiện, trước hỏng sau được và ông lại ngồi dũa, mài những mảnh trai đó thành hình hoa lá được nhiều người khen ngợi. Khi về thăm quê hương, ông cho mọi người xem và dạy cho dân làng phường Ngọ (thôn Chuôn Ngọ ngày nay). Sự ra đời của nghề khảm bắt nguồn từ đó. Cụ Trương Công Thành chính là ông tổ nghề khảm của xã Chuyên Mỹ. Để tưởng nhớ công lao của cụ, dân làng đã lập miếu thờ, đồng thời lấy ngày mồng 9 tháng Giêng âm lịch là ngày sinh và mồng 9 tháng Tám là ngày mất của cụ làm ngày giỗ tổ. Hàng năm cứ vào ngày ấy dân làng tế rước linh đình và gọi là ngày việc làng. Từ đó đất Chuyên Mỹ đã kế thừa, duy trì và phát triển làng nghề khảm trai truyền thống ngày càng phong phú và đa dạng. Năm 1996, miếu thờ được Bộ văn hóa xếp hạng di tích lịch sử. Năm 2002, nhân dân trong xã đã xây mới lại một đền thờ khang trang tại thôn Chuôn Ngọ. Nơi đây trang trí những bức hoành phi, câu đối do các bàn tay tinh xảo nhất của làng thể hiện. Nổi bật là bức Đại tự có ghi bốn chữ “Công cái hoàn vũ” (Tạm dịch: công đầu là gìn giữ bờ cõi). Có thể nói đây là bức Đại tự khảm lớn nhất Việt Nam hiện nay. Trước kia người thợ Chuyên Mỹ chủ yếu làm hoành phi, câu đối và trang trí một số đồ gỗ sang trọng như: sập gụ, tủ chè... Ngày nay, theo nhu cầu thị trường, các sản phẩm Chuyên Mỹ ngày càng đa dạng với chất lượng cao, thỏa mãn nhu cầu thị trường trong nước cũng như quốc tế đó là: khảm đồ QíựMựếít Ç7A/ ^7/ĩỉíí/ 13 X yzW 'fo t/t - JÇÇ/VÎVÎ /ư íĩrt //>/ /ỉự /ĩ/ip thờ cúng, giường chiếu, bàn ghế, tráp, đồ lưu niệm, tặng phẩm hay cả những thứ đơn giản như bàn cờ, khuy áo... Khảm trai thường kết hợp với đồ gỗ đánh bóng, sơn mài mỹ nghệ. Các họa tiết ở đồ khảm xà cừ có thể là về hoa lá, chim bướm, các danh lam thắng cảnh ở Việt Nam hay từ một truyện cổ tích nào đó trong dân gian như: Tam Quốc, “Tam Cố Thảo Lư”, văn chương cầu hiền... hay theo mẫu ước lệ: tùng, cúc, trúc, mai, tứ dân cảnh (bốn cảnh của người Việt xưa là: Ngư - Tiều Nông - M ục)... Ngày nay, đề tài được khảm thường là các di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng: chùa Một Cột, vịnh Hạ Long, Huế... Sản phẩm của Chuyên Mỹ đã từng tham gia các cuộc triển lãm thành tựu kinh tế toàn quốc tại Hà Nội, có mặt ở các điểm du lịch, các thị trường lớn trong nước như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí M inh... 3.3 Quy trình sản xuất hàng Khảm trai Chất liệu chủ yếu là xà cừ. Xà cừ thông thường được lấy từ trai, ốc nên khảm xà cừ còn được gọi là khảm trai hay khảm ốc.. Vỏ trai sau khi trải qua các công đoạn: ép, mài, lau...trở thành nguyên liệu chính cho nghề khảm. Trong cơ chế thị trường hiện nay, nguồn nguyên liệu dùng cho nghề khảm trai ở Chuyên Mỹ gồm đủ loại, ngoài nguồn nguyên liệu trong nước thì người thợ Chuyên Mỹ còn phải mua nguyên liệu của các nước: Hồng Kông, Inđônêxia, Trung Q uốc..., nguyên liệu quí như ốc phải mua từ Singapo. Trong đó, loại vỏ trai được ưa chuộng là vỏ của trai ngọc môi vàng (người dân thường gọi là trai nứa, trai đen). Người thợ còn sử dụng một loại nguyên liệu đặc biệt là bào ngư Cửu Khổng (có 9 lỗ vỏ ở phía mép vỏ) có vân màu sắc phong phú hơn màu cầu vồng dùng để khảm các mặt hàng nổi như: núi non, cánh phượng, cánh công... Vỏ trai có kích thước lớn, mặt trong có lớp xà cừ dày màu óng ánh. Người thợ khảm trai dùng những mảnh vỏ trai để khảm lên các đồ vật. QíựMựếít ^7/ĩỉ' ^77ĩỉíí/ 14 /ưíĩrt //>//ỉự/ĩ/ip Để làm ra một sản phẩm khảm trai phải mất khá nhiều thời gian và công sức, bắt buộc phải qua 5 - 6 công đoạn. Công đoạn nào cũng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ của người thợ. Có hai loại khảm: + Khảm chìm + Khảm nổi Các công đoạn cơ bản của nghề khảm chìm [2] : Bước đầu là chẻ vỏ thành mảnh theo chiều dọc con trai (theo thớ), bỏ phần xương. Mài sạch vỏ đen bằng máy, đem ngâm nước rồi ép phẳng. Trước đây, người thợ đem mảnh trai hơ trên đèn nóng để uốn phẳng miếng ốc. Hiện nay công đoạn này đã được thay thế bằng máy ép, vừa tiết kiệm thời gian và công sức, miếng trai lại được ép phẳng hơn, giữ được màu sắc cũng như tính chất. Sau đó vẽ mẫu cho bức tranh, các họa tiết thường là hoa lá, cây cành, chim thú hoặc các cảnh sinh hoạt thường ngày, các lễ hội hay các điển tích điển cố. Tiếp theo là cưa trai theo nét vẽ. Bước kế tiếp là đục gỗ (mặt vật dụng muốn khảm thường là mặt gỗ, người thợ phải khoét lõm trên mặt để nhận lấy miếng vỏ ốc). Sau đó, gắn trai vào gỗ, người thợ thường dùng sơn ta để gắn rồi thể hiện đường nét. Tiếp đến, dùng bột đen sơn để làm rõ các chi tiết của bức tranh và đem mài lớp sơn phủ đi để lộ ra các họa tiết. Công đoạn mài cũng khá phức tạp, trước mài bằng giấy ráp cát to, tiếp theo là cát mịn rồi lại đánh bằng vôi bột, đánh một lần nữa bằng lá ngái rồi xoa bột gạo lên. Cuối cùng, toàn bộ sản phẩm được đánh vécni cho bóng lên để họa tiết nổi lên sống động như một bức tranh. Lúc này, một sản phẩm khảm trai mới được hoàn thành . Khảm trai thường được kết hợp với đồ gỗ đánh bóng sơn mài mỹ nghệ. Các công đoạn cơ bản của nghề khảm nổi [2]: Về cơ bản, khảm nổi cũng gồm các bước như khảm chìm: chẻ vỏ thành mảnh, mài sạch vỏ đen, ép phẳng, cưa trai để tạo họa tiết cho bức tranh. Tuy nhiên, không có bước đục gỗ tạo chỗ lõm để nhận lấy miếng trai mà các họa ^Jtợỉỉự//f Ç7/it ^7/ĩỉíí/ 15 - JÇÇ/VÎVÎ /ưíĩrt ff)/ /ỉợ/ĩỉip tiết được xếp ngay trên bề mặt vật khảm, sau đó dùng keo cố định họa tiết. Vì vậy, không có công đoạn dùng bột đen sơn và mài. Loại hình khảm này thường được dùng để tạo những bức tranh với kích thước lớn hay những bức đại tự...(Ảnh 1). Hiện nay, công đoạn khắc thủ công có thể thay thế bằng máy khắc laser và các loại máy móc hỗ trợ khác, song việc cẩn các mảnh xà cừ và hoàn thiện sản phẩm vẫn không thể thiếu được đôi bàn tay của các nghệ nhân. Các chủ sơn khảm thường không sản xuất gỗ trực tiếp mà mua ở nơi khác cách nhà không xa. Điều này làm giảm bót chi phí vận chuyển. Những mảnh trai không dính trực tiếp mà dùng keo gắn. Sơn chủ yếu được dùng là sơn ta, đại kiều, sơn bóng. Khảm xà cừ có ở đồ trang sức, khuy áo, đũa, đồ gỗ như bàn ghế, giường, sập, tủ, tranh treo tường... Đặc điểm của sản phẩm khảm trai xã Chuyên M ỹ là những mảnh trai gắn vào gỗ rất khít, có độ bền cao, sắc nét, chi tiết trang trí rất sinh động, đặc sắc (Ánh 2). Tuy nhiên, nền các bức khảm thường có màu tối của lớp sơn đen chứ không có nhiều màu sắc như các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác do bản thân chất liệu xà cừ tạo nên nhiều màu sắc óng ánh cho chi tiết trang trí (Ảnh За và 3b). Những mảnh trai vô tri, vô giác qua bàn tay khéo léo, óc sáng tạo phong phũ được gắn vào gỗ để trở thành sản phẩm có giá trị văn hóa, nghệ thuật cao. Sản phẩm khảm trai của Chuyên Mỹ hơn hẳn các sản phẩm khảm trai ở các nơi khác, kể cả Đồng Kỵ nhờ đường nét tinh xảo, có hồn. Chính vì thế, giá trị của một sản phẩm không hề rẻ. Đối với những hàng đặt như tủ chè, sập gụ khảm ốc giá tới 15 - 100 triệu đồng, tùy theo chất liệu khảm, tủ chè gỗ trắc khảm ốc đỏ giá có thể tới 80 - 200 triệu đồng. ^Jtợỉỉự//f Ç7/it ^7/ĩỉíí/ 16 X yzW J/tt/t - JÇÇ/VÎVÎ /ư íĩrt //>/ /ỉợ /ĩỉip 3.4 Thực trạng làng nghề Khảm trai - Sơn mài xã Chuyên Mỹ 3.4.1 Giai đoạn trước 1945 Nghề khảm trai Chuyên Mỹ ra đời cách đây gần 1000 năm do cụ Trương Công Thành sáng tạo ra. Ông là một vị tướng giỏi dưới triều Lý. Bước đầu nghề còn mang tính chất thô sơ, nhỏ lẻ, chỉ dùng đôi bàn tay khéo léo để tạo nên các sản phẩm. Hầu hết những sản phẩm của làng là khảm trai trên những khay trà trong triều đình và khảm trên những bàn tiệc của vua chúa. Chiếc khay khảm trai được đặt trên những chiếc sập khảm trai là những biểu tượng cho sự sang trọng và có địa vị. Chỉ những người giàu có và các nhà nho mới có được những vật đó. Khảm trai còn được sử dụng trong những ngôi nhà xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ: khảm những vòm mái với những viên ngói màu xanh của hoàng thành ...[10]. Sang triều Trần thì nghề khảm vỏ ốc đã khá điêu luyện nên được triều đình trưng thu làm cống phẩm gửi sang tặng nhà Nguyên năm 1289 [2]. Một trong những nghệ nhân được xem như người “giữ lửa” cho làng nghề - ông Trần Bá Dinh, năm nay đã 71 tuổi cho biết, cách đây khoảng hơn 100 năm, nghề khảm trai bắt đầu hưng thịnh, người dân Chuôn Ngọ thường gọi sản phẩm là “hàng lái” bán cho các lái buôn người Huế, Quảng Ngãi mang lên kinh thành xưa [2]. Khi người châu Âu sang đến Việt Nam thì trình độ hàng khảm được nhắc đến là một trong những nghệ thuật cao, rất tinh vi, khéo léo. Điển hình là năm 1868, khi người Pháp chiếm xong Nam Kỳ, thống đốc De La Grandière đã xin triều đình Huế gửi hai người thợ khảm giỏi vào Sài Gòn để truyền nghề. Sang năm 1877 thì hàng khảm ốc Việt Nam được triều đình gửi sang Pháp dự Hội chợ [2]. QíựMựếít ^7/ĩỉ' ^77ĩỉíí/ 17 /ưíĩrt ff)/ /ỉợ/ĩỉip 3.4.2 Giai đoạn từ 1945 đến 1990 Giai đoạn chiến tranh, có lúc nghề tưởng như mai một, đến năm 1954, giải phóng miền Bắc, xã khôi phục lại nghề khảm trai, sản xuất các sản phẩm khảm trai lên gỗ dán xuất khẩu cho các nước [10]. Đến đầu những năm 80, sản xuất ngành thủ công có nhiều khó khăn phức tạp do sự chuyển đổi cơ chế thị trường, tình hình Đông Âu xấu đi nên các ngành thủ công nghiệp không kí được hợp đồng, sản phẩm bị ứ đọng, chưa tiếp cận được thị trường và thị hiếu người tiêu dùng, cộng thêm sức ép của hàng ngoại tác động mạnh vào thị trường trong nước. Mặt khác, mẫu mã tuy đã đa dạng phong phú hơn thời kỳ trước nhưng vẫn chưa đủ sức cạnh tranh, hàng còn kém chất lượng, quản lý vật tư, tiền vốn còn lỏng lẻo tùy tiện, chi tiêu còn lãng phí, quy mô vẫn còn nhỏ lẻ, chủ yếu là sản xuất ngay tại hộ gia đình, doanh thu thấp dẫn đến đời sống xã viên chưa cao, việc làm không ổn định. Do vậy, xã có 3 Hợp tác xã thủ công mỹ nghệ, nhưng đến lúc này, Hợp tác xã thủ công Thượng Trung và Bối Khê bị giải thể, chỉ còn Hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ đứng vững. Sản phẩm chủ yếu là: hoành phi, câu đối, sập gụ tủ chè, đồ nội thất (Ảnh 4) [3]. Thu nhập từ ngành thủ công nghiệp [3]: - Năm 1989 đạt 355 triệu đồng, trong đó: + Hợp tác xã Bối Khê: 130 triệu + Hợp tác xã Ngọ Hạ: 197 triệu + Hợp tác xã Thượng Trung: 28 triệu. - Năm 1990 đạt 240 triệu, trong đó: + Hợp tác xã Bối Khê: 160 triệu. + Hợp tác xã Ngọ Hạ: 80 triệu Như vậy, trong thời kỳ này, tình hình phát triển của các Hợp tác xã thủ công mỹ nghệ tương đối phức tạp (Biểu đồ 1). ^Jtợỉỉự//f Ç7/it ^7/ĩỉíí/ 18 X yzW J/tt/t - JÇÇ/VÎVÎ /ư íĩrt //>/ /ỉự /ĩ/ip 3.4.3 Giai đoạn từ 1991 đến 2000 [3] Trong vòng 30 năm trở lại đây, do nhu cầu của thị trường tăng cao, nghề khảm trai ở Chuyên Mỹ phát triển mạnh, cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo, hiếm nơi nào có được. Nghề Khảm trai giai đoạn này đã phát triển bằng nhiều hình thức, lấy hộ gia đình là nguồn chủ đạo trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, đã công nghiệp hóa, cơ giới hóa một số khâu trong chế biến nguyên liệu phục vụ cho sơn khảm, đồ mộc. Theo thống kê năm 1994, toàn xã có 95% số hộ làm nghề và có 50% số lao động làm nghề chuyên nghiệp và 50% số lao động làm nghề bán chuyên nghiệp. Hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ vẫn duy trì đảm bảo công ăn việc làm thường xuyên cho trên 40 lao động và một số hộ gia đình. Đồng thời được sự tài trợ của tổ chức Tầm nhìn thế giới, sự hỗ trợ của các ngành, các cấp, Hợp tác xã đã mở 2 lớp dạy nghề cho 100 cháu có hoàn cảnh khó khăn trong khu vực. Kết quả thu nhập trong 2 năm 1994 và 1995 của Hợp tác xã là: - Năm 1994: 400 triệu - Năm 1995: 250 triệu Mức lương bình quân của xã viên hàng tháng là 250.000đ/tháng. Tinh hình chung về sản xuất và thu nhập của ngành nghề trong 2 năm 1996, 1997 bị ảnh hưởng nhiều của nền kinh tế thị trường. Hàng hóa sản xuất ra tuy không bị ứ đọng nhiều nhưng việc tiêu thụ gặp rất nhiều khó khăn. Kết quả: - Tổng giá trị thu nhập năm 1996 là 18,4 tỷ đồng, bình quân hộ đạt 9.868.315 đồng/ năm, bình quân khẩu là 2.339.000 đồng/năm. - Tổng giá trị thu nhập năm 1997 đạt 19,3 tỷ, bình quân hộ 9.851.000 đồng/năm, bình quân khẩu 2.379.420 đồng/năm. Như vậy thu nhập năm 1997 tăng so với năm 1996 (biểu đồ 2). ^Jtợỉỉự//f C7/ttỉự 19 /ư íĩrt //>/ /ỉự /ĩ/ip Trong 2 năm 1999 và 2000, mặc dù chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan nhưng kinh tế tiểu thủ công nghiệp vẫn có tốc độ tăng trưởng khá, mẫu mã thường xuyên được thay đổi, nhiều hộ đã dần dần hoàn thiện dây chuyền sản xuất (mộc khảm kết hợp), một số công đoạn đã được cải tiến bằng máy nhỏ, ví dụ máy đột dập để cắt những mảnh trai theo khuôn có sẵn nhanh hơn cắt bằng tay nhiều lần (Ảnh 5). Chất lượng sản phẩm đã được nhân dân chú trọng hơn, một số mặt hàng có chất lượng cao thu hút được khách hàng. Một số hộ đã chuyển đến nơi có thị trường tiêu thụ sản phẩm tốt để sản xuất, thuê cửa hàng ở một số thành phố lớn để tiêu thụ sản phẩm. Hợp tác xã thủ công Ngọ Hạ đã có nhiều cố gắng, với kinh tế thị trường khó khăn phức tạp vẫn đảm bảo có việc làm thường xuyên cho xã viên. Doanh thu hàng năm từ 450 - 550 triệu, lương của xã viên bình quân 430.000 đồng/tháng, tăng so với 1996 là 72% và đã tự nâng cấp nhà xưởng trên 50 triệu đồng. Quỹ tín dụng nhân dân sau 6 năm thành lập và hoạt động đã khẳng định vai trò vị trí của mình trong phát huy nội lực, làm lành mạnh quan hệ tiền tệ ở nông thôn, tạo điều kiện cho kinh tế địa phương phát triển; dư nợ cho vay trên 3 tỷ đồng, tăng so với năm 1996 là 108%, nguồn vốn cho vay 100% huy động vốn tại chỗ; đã mua được trụ sở trang thiết bị phục vụ làm việc với số tiền gần 100 triệu đồng; chất lượng hoạt động mỗi ngày một nâng lên, được nhân dân tin tưởng. Thu nhập tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ năm 1999 là 18,5 tỷ; năm 2000 là 19,25 tỷ; tốc độ tăng trưởng 18,6%. 3.4.4 Giai đoạn từ 2001 đến nay Kinh tế tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Mặt hàng sản xuất đa dạng, mẫu mã thường xuyên được đổi mới, chất lượng được nâng lên. Tổng mức đầu tư cho sản xuất ngày càng nhiều theo hướng công nghiệp hóa. Nhiều gia đình đã đầu tư mở rộng sản xuất, cải tiến công cụ lao động, mua sắm máy móc, phương tiện cho sản xuất. Đặc biệt là các hộ ở thôn Thượng đã đưa máy QíựMựếít ^7/ĩỉ' ^77ĩỉíí/ 20 - J?C/<9ÍQÍ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan