VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN LƯU HƯNG
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số
: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS Trần Công Sách
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
NGUYỄN LƯU HƯNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...........1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHỦ YẾU VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA CƠ QUAN QUAN..........................................................................................10
1.1. Quyền sở hữu công nghiệp và vai trò của cơ quan Hải quan trong bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu.........10
1.2 Nội dung và các phương thức thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu của cơ quan Hải quan………….19
1.3 Hiệu lực, hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thực thi
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu
của cơ quan Hải quan.......................................................................................23
1.4 Kinh nghiệm của Hải quan một số nước và bài học cho Hải quan Việt
Nam trong thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa
xuất nhập khẩu.................................................................................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM..............34
2.1 Khái quát về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và chức năng nhiệm vụ của
Hải quan Việt Nam trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
hàng hóa xuất nhập khẩu…………………………………………………….34
2.2 Đánh giá thực trạng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
hàng hóa xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam…………………………...50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2020, TẦM NHÌN 2025………………………..………………………………….62
3.1 Bối cảnh và những thuận lợi, khó khăn của Hải quan Việt Nam trong bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp thời kỳ tới……………………………….........62
3.2 Phương hướng tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu của HQVN giai
đoạn 2025..........................................................................................................63
3.3 Các giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu của
HQVN đến năm 2020.......................................................................................64
3.4 Kiến nghị hoàn thiện luật pháp, chính sách của Nhà nước về bảo vệ quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu ....................70
KẾT LUẬN.......................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................73
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHHH:
Nhãn hiệu hàng hóa
SHCN:
Sở hữu công nghiệp
SHTT:
Sở hữu trí tuệ
ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
WTO:
Tổ chức Thương mại thế giới
WIPO:
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
XNK:
Xuất nhập khẩu
TRIPS:
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ
AANZFTA: Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Úc - New
zealand
BTA:
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ môi trường kinh doanh lành mạnh, ngăn chặn sự thâm nhập của hàng
hóa giả mạo, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) vào thị trường nội địa đã trở
thành yêu cầu không chỉ riêng cho hệ thống pháp luật của từng quốc gia mà còn đòi
hỏi với cả hệ thống luật pháp quốc tế. Hàng hóa xuất nhập khẩu là hàng hóa được
tiêu dùng ở nước ngoài, lưu thông quốc tế, đặt ra vấn đề bảo hộ của nhà nước, nó đã
trở thành quyền và liên kết giữa các nhà nước, thành các cam kết quốc tế.
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và thương mại, các đối
tượng của quyền SHTT ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong các đối tượng SHCN,
tuy mỗi đối tượng đều có vai trò nhất định nhưng xét trong tính chất quan hệ thương
mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhãn hiệu trở nên nổi
bật hơn cả. Nó gắn chặt với quá trình lưu thông hàng hóa và là một trong những tài
sản có giá trị, thậm chí là một trong những nguồn vốn chủ yếu của doanh nghiệp
trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, gay gắt với các đối thủ của mình. Đặc biệt, trong
nền kinh tế thị trường, hiện đại và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng hiện nay, vai trò của nhãn hiệu - một trong những đối tượng
truyền thống và chủ yếu của sở hữu công nghiệp (SHCN) - ngày càng trở nên quan
trọng. Với chức năng ban đầu là giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa cùng loại
của các nhà sản xuất khác nhau, qua quá trình sử dụng và phát triển, nhãn hiệu đã
trở thành một công cụ hữu hiệu cho một doanh nghiệp (dù lớn hay nhỏ) tiếp cận,
phát triển và bảo vệ thị phần hàng hóa và dịch vụ của mình.
Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống cơ quan thực thi bảo hộ quyền sở hữu nhãn
hiệu hàng hóa (NHHH), gồm có Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và công
nghệ là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký, cấp văn bằng bảo hộ
và giải quyết khiếu nại; các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quyền hạn thực
thi: tòa án; cơ quan công an, quản lý thị trường, cơ quan hải quan và thanh tra khoa
học - công nghệ. Cơ quan Hải quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm soát hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu nhãn hiệu hàng hóa.
1
Bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH ở nước ta trong thời gian qua cũng đã
có bước chuyển biến khả quan kế cả trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện pháp
luật đến cơ chế thực thi, cũng như xử lý các vi phạm... tuy nhiên vẫn còn nhiều bất
cập như:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ quyền SHCN nói chung và
bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH nói riêng còn thiếu, chưa đạt các tiêu chí của
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ (TRIPS)/ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO);
- Hệ thống thực thi của các cơ quan nói trên còn bất cập như nhiều cơ quan
có chức năng và thẩm quyền xử lý làm cho các chủ thể quyền lúng túng không biết
phải yêu cầu đơn vị nào bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bản thân các cơ
quan này cũng có tâm lý đùn đẩy, chờ đợi hoặc giẫm chân lên nhau trong quá trình
xử lý vi phạm. Sự phức tạp, rắc rối của hệ thống thực thi đã ảnh hưởng không nhỏ
tới hiệu quả của hoạt động thực thi ở nước ta. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn
của hệ thống thực thi còn chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.
- Việc quan tâm đăng ký quyền SHCN đối với NHHH của người dân và
doanh nghiệp còn ít, theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ thì đơn đăng ký
nhãn hiệu quốc gia từ năm 1982 đến 2015 đã nộp là 404.081 đơn (trong đó người
nộp đơn Việt Nam là 291.176 đơn), nhưng chỉ cấp được 256.523 giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu (trong đó người nộp đơn Việt Nam là 172.943) [13, tr. 84]. Tình
hình vi phạm quyền SHTT diễn ra phổ biến và đáng báo động, số vụ phát hiện, điều
tra xử lý chiếm tỉ lệ thấp, các hình phạt chưa thể hiện được sự nghiêm minh của
pháp luật, trong các biện pháp xử lý xâm phạm, biện pháp xử lý hành chính được áp
dụng là chủ yếu, theo thống kê xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu năm 2011: 1.561 vụ, phạt 9.021.421.000 VNĐ; năm 2012: 1.016 vụ, phạt
3.416.884.000 VNĐ; năm 2013: 2.147 vụ, phạt 18.422.475.000 VNĐ; năm 2014:
1.082 vụ, phạt 15.223.701.000 VNĐ; năm 2015: 1.450 vụ, phạt 12.426.159.000
VNĐ [13, tr. 52].
Trong bối cảnh nước ta đang tiến đến mục tiêu hội nhập vào nền kinh tế thế
2
giới mà cụ thể của quá trình đó là việc gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), gần đây là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) chính thức
được ký kết ngày 04 tháng 02 năm 2016. Nhiệm vụ bảo hộ quyền SHCN về NHHH
đối với hàng hóa xuất nhập khẩu (XNK) đang phải đối mặt với thách thức ngày
càng phức tạp và đa dạng do số lượng các đối tượng tham gia và các bên liên quan
đến bảo vệ SHCN tại biên giới ngày càng tăng, mức độ và phạm vi bảo hộ mở rộng,
phong phú và đa dạng hơn. Thêm vào đó, bảo vệ SHCN về NHHH đối với hàng hóa
XNK đang đối đầu những vi phạm ngày càng tinh vi, có tổ chức, tính chất và mức
độ càng phức tạp.
Trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, cơ quan Hải quan là cơ
quan chủ quản được giao nhiệm vụ thực thi bảo hộ quyền SHCN về NHHH đối với
hàng hóa XNK. Với chức năng là cơ quan “gác cửa nền kinh tế đất nước”, thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kiểm soát về Hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu; phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Cơ quan Hải quan đã đạt
được một số kết quả nhất định trong việc bảo hộ quyền SHCN về NHHH đối với
hàng hóa XNK. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn hạn chế, thực tiễn áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực này còn nhiều vướng mắc chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Cơ quan
Hải quan các cấp còn gặp nhiều vướng mắc cần làm rõ cả về lý luận và thực tiễn,
việc nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể thực trạng bảo vệ quyền SHCN đối với
NHHH trong hoạt động XNK hàng hóa để có giải pháp khắc phục nhằm nâng cao
hiệu quả công tác công tác này trên thực tế.
Đó là lý do để em chọn đề tài Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam làm đề tài nghiên
cứu luận văn Thạc sĩ của mình. Hy vọng qua sự nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần
nhỏ để hoàn thiện hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu
của Hải quan Việt Nam trong giai đoạn tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài
3
Ở nước ngoài có nhiều công trình nghiên cứu về bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu hàng hóa như: Quyền sở hữu công nghiệp của các giáo sư Albert Chavane
và Jean Jacques Burt (Cộng hòa Pháp, 1993); Nhãn hiệu hàng hóa - sự sáng tạo,
giá trị bảo hộ của Francis Le FEBVRE (Cộng hòa Pháp, 1994); Nhãn hiệu hàng
hóa của giáo sư Andrea Semprini Đại học Montpellier III (Cộng hòa Pháp, 1995);
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Tiến sĩ Gordian N.Hasselblatt (Cộng hòa
Liên bang Đức, Beck Mynchen, 2001)… các công trình nêu trên chủ yếu đề cập vấn
đề bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH của nước đó. Bên cạnh đó, có các tài liệu
chủ yếu được viết dưới các bài báo hoặc Tài liệu hướng dẫn về đăng ký vào bảo hộ
quyền SHCN ở một nước cụ thể, ví dụ như các Bộ tài liệu về đăng ký và bảo hộ
quyền SHCN ở 19 nước khác nhau, trong đó có Việt Nam, do Chính phủ Hoa Kỳ
(USPTO) biên soạn và được đăng tải trên trang web chuyên về các vấn đề thực thi
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng, tại nước ngoài là
http://www.stopfakes.gov; “Những điều chưa biết về sở hữu trí tuệ” Tài liệu hướng
dẫn dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ, Tổ chức SHTT thế giới thuộc
Trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD/WTO, GENEVA 2004 được dịch bởi Cục
sở hữu trí tuệ, tài liệu được viết dưới dạng câu hỏi và trả lời về các vấn đề liên quan
đến SHTT, qua đó giới thiệu các trang web của các cơ quan SHTT quốc gia và khu
vực, cũng như danh mục trang web của các cơ quan quản lý để các doanh nghiệp
quan tâm.
2.2 Các công trình nghiên cứu đã công bố trong nước
Ở nước ta, một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã có một số công trình
khoa học, bài nghiên cứu liên quan đến bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH như:
“Thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của Hải quan Việt Nam đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu” Nguyễn Thị Thương Huyền (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số
5/2008); “Thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế” PGS.TS
Nguyễn Bá Diến làm chủ biên (NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2010); “Thực thi
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại cơ quan Hải quan theo quy định của pháp luật Việt
Nam” Nguyễn Hồng Bắc, (Tạp chí Luật học, số 3/2010); “Bàn về cơ chế kiểm soát
4
biên giới nhằm bảo hộ hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ” TS Đặng Vũ Huân - Bộ Tư
pháp, (Tạp chí Khoa học và pháp lý Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, 2013); “Bất cập
về kiểm soát hàng hóa xuất khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ và một số kiến nghị”
PGS.TS Đoàn Đức Lương, Hiệu trưởng Đại học Luật Huế và ThS. Nguyễn Minh
Đức, Phòng quản lý xuất nhập cảnh, Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế, (Tạp chí Pháp
luật và phát triển, 2015) …
Ngoài ra có thể kể đến một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về đề tài
nghiên cứu về quyền SHCN đối với NHHH như: Luận án tiến sĩ “Bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam” Nguyễn Văn Luật
(2006); luận văn thạc sĩ “Thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới của cơ quan Hải
quan Việt Nam” Trần Thị Thu Vân (2011), luận văn thạc sĩ “Bảo quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài” Nguyễn Thị Lan Anh
(2012) ... Đặc biệt vấn đề liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền SHCN trong lĩnh
vực Hải quan như đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Hải quan “Hoàn thiện các
giải pháp thực thi Sở hữu công nghiệp đối với hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt
Nam” Vũ Ngọc Anh (2001).
Về cơ bản các bài viết, các công trình nghiên cứu về NHHH các tác giả Việt
Nam trong thời gian qua đều tập trung phân tích, đánh giá các khía cạnh khác nhau
về sự phù hợp của hệ thống pháp luật bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH ở Việt
Nam, nhu cầu phát triển thực tế trong giai đoạn hiện nay và nêu ra một số định
hướng và giải pháp nhất định nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam về
bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH.
2.3 Những vấn đề thuộc Đề tài luận văn chưa được các công trình đã công bố
nghiên cứu giải quyết
Các công trình của các tác giả Việt Nam đề cập vấn đề bảo hộ quyền SHCN
đối với NHHH trong mối quan hệ chung với các chủ thể của SHCN, có nêu thực
trạng, có kiến nghị giải pháp khắc phục… nhưng nhìn chung chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về bảo hộ quyền SHCN đối với
NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam.
5
Do đó đây là vấn đề độc lập không trùng lặp với các đề tài khác. Mặc dù vậy,
tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học,
luận án, luận văn, các bài viết đã đạt được cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có
liên quan đến đề tài.
2.4 Những vấn đề trọng tâm luận văn sẽ nghiên cứu giải quyết:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hộ quyền SHCN đối với
NHHH xuất nhập khẩu của ngành Hải quan;
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất
nhập khẩu của Hải quan Việt Nam;
- Đưa ra phương hướng, giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam giai
đoạn 2020, tầm nhìn 2025 nhằm đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi khách quan trong
thực tế đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ hiện nay của Việt
Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu tổng quát:
Làm rõ cơ sở khoa học cho đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
thực thi bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt
Nam.
* Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về bảo hộ quyền SHCN đối với
NHHH xuất nhập khẩu của ngành Hải quan.
- Đánh giá khách quan thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất
nhập khẩu của Hải quan Việt Nam
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả thực thi bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt
Nam thời kỳ tới phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế.
* Các câu hỏi nghiên cứu để làm rõ hơn mục tiêu nghiên cứu:
6
- Ngành Hải quan phải làm gì, bằng cách nào để thực thi bảo hộ quyền
SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu?
- Những yếu tố chủ yếu nào ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả đối với bảo hộ
quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của ngành Hải quan?
- Những bài học gì cho Hải quan Việt Nam từ kinh nghiệm của Hải quan một
số nước có những điểm tương đồng trong bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất
nhập khẩu?
- Hải quan Việt Nam đã làm những việc gì, bằng cách nào để thực hiện bảo
hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu?
- Những tồn tại, hạn chế chủ yếu nào của Hải quan Việt Nam trong bảo hộ
quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu và nguyên nhân của những hạn chế.
- Những cơ hội và thách thức chủ yếu nào của Hải quan Việt Nam trong bảo
hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu thời kỳ tới (từ nay đến năm 2025.
- Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với
NHHH xuất nhập khẩu thời kỳ tới thì Hải quan Việt Nam phải giải quyết những vấn
đề gì và thực hiện như thế nào?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH
hóa xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam.
4.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
* Giới hạn phạm vi trọng tâm:
- Nội dung trọng tâm nghiên cứu là xác định và luận giải nội dung, phương
thức, các công cụ thực hiện bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của
ngành Hải quan;
- Xác định các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động
bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động bảo hộ quyền
SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam;
7
- Xác định những thành quả, hạn chế và nguyên nhân;
- Xác định phương hướng, giải pháp có tính đồng bộ cụ thể và khả thi nhằm
tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất
nhập khẩu của Hải quan Việt Nam phù hợp với các cam kết quốc tế.
* Giới hạn phạm vi không gian:
- Hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải
quan Việt Nam trong lãnh thổ hải quan;
- Kinh nghiệm của Hải quan một số nước có điểm tương đồng với Hải quan
Việt Nam về bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu như: Trung Quốc,
Hàn quốc; và kinh nghiệm của Mỹ là nước thành viên chủ chốt trong TPP, là đối tác
thương mại hàng đầu của Việt Nam.
* Giới hạn phạm vi thời gian:
- Dữ liệu đánh giá thực trạng từ năm 2006 đến thời điểm nghiên cứu.
- Đề xuất phương hướng đến 2025, giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu: Tiếp cận vấn đề bảo hộ quyền SHCN
đối với NHHH xuất nhập khẩu từ góc độ chức năng, nhiệm vụ của ngành Hải quan,
trong đó tập trung xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam với vai
trò là chủ thể thực thi bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu; cách
thức tác động của Hải quan Việt Nam (chủ thể quản lý) đến khách thể quản lý là các
doanh nghiệp và hàng hóa XNK qua lãnh thổ hải quan.
* Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp tổng hợp trong các nghiên cứu tổng quan các công
trình khoa học đã được công bố, nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo hộ quyền SHCN
đối với NHHH xuất nhập khẩu của ngành Hải quan; đánh giá chung thực trạng bảo
hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam để rút ra
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân. Sử dụng phương pháp chứng minh, phân tích, so
sánh trong nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, trong phân tích đánh giá thực trạng
của hoạt động Hải quan Việt Nam trong thực hiện bảo hộ quyền SHCN đối với
8
NHHH xuất nhập khẩu. Sử dụng các phương pháp nội suy và ngoại suy trong
nghiên cứu đề xuất phương hướng, giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả trong thực thi bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan
Việt Nam trong thời kỳ tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn khái quát hóa những vấn đề lý luận liên quan đến quyền SHCN
đối với NHHH xuất nhập khẩu của ngành Hải quan và quản lý nhà nước về quyền
SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu; Đồng thời nghiên cứu và tìm hiểu kinh
nghiệm quốc tế về các hoạt động liên quan đến bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH
xuất nhập khẩu của một số nước. Qua đó, góp phần làm rõ cơ sở lý luận về quản lý
nhà nước về bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH xuất nhập khẩu.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng thực thi bảo hộ SHCN đối với NHHH xuất
nhập khẩu của Hải quan Việt Nam, luận văn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với
NHHH xuất nhập khẩu của Hải quan Việt Nam cũng như nâng cao hiệu quả của cơ
chế thực thi quyền SHCN đối với nhóm đối tượng này nhằm đáp ứng những yêu
cầu đòi hỏi khách quan trong thực tế, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế mạnh mẽ hiện nay của Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chủ yếu về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu của cơ quan Hải quan
Chương 2: Thực trạng bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất
nhập khẩu của Hải quan Việt Nam
Chương 3: Phương hướng, giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của Hải quan Việt
Nam giai đoạn 2020, tầm nhìn 2025
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHỦ YẾU VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA CƠ QUAN HẢI QUAN
1.1. Quyền sở hữu công nghiệp và vai trò của cơ quan Hải quan trong bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
hàng hóa xuất nhập khẩu của cơ quan Hải quan
Loài người bằng lao động sáng tạo đã làm ra các của cải vật chất phục vụ cho
đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của chính mình. Trí tuệ con người có sức
sáng tạo vô tận và chính nó đã giúp con người nhận thức được sự phát triển không
ngừng của thế giới khách quan. Như vậy, trí tuệ là tài sản vật chất nhưng mang
những đặc thù riêng. Tài sản hữu hình có thể bị hao mòn theo năm tháng, nhưng tài
sản trí tuệ dường như được tích tụ, nhân lên và phát huy mạnh mẽ khi đem sử dụng.
Các sản phẩm trí tuệ đôi khi không nhìn thấy bằng mắt thường, nó ẩn chứa trong vật
mang bọc giữ nó, nhưng có giá trị lớn tuỳ thuộc vào nội dung, khả năng ứng dụng
của sản phẩm hay có thể được đánh giá bởi danh tiếng, uy tín, chất lượng cũng như
các lợi ích vật chất khác mà nó mang lại. Trách nhiệm của mỗi quốc gia là bảo hộ
phát huy tài sản trí tuệ của loài người. Chính vì vậy các quốc gia đã cùng nhau xây
dựng cơ sở pháp lý mang tính quốc tế nhằm bảo hộ quyền SHTT. Quyền sở SHTT
bao gồm 2 lĩnh vực chính là quyền SHCN đối với các phát minh, nhãn mác hàng
hoá, kiểu dáng công nghiệp và tên gọi nguồn gốc và quyền tác giả trong lĩnh vực
văn hoá, âm nhạc, mỹ thuật, chụp ảnh và nghe nhìn.
Có thể hiểu khái niệm “quyền SHTT là quyền của chủ thể đối với một sản
phẩm trí tuệ nào đó do mình sáng tạo ra và/hoặc sở hữu được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ”.
Như vậy, quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao
gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền SHCN và quyền đối
với giống cây trồng.
10
Sơ đồ: Mối quan hệ giữa sở hữu, sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp
Một số khái niệm cơ bản
- Quyền sở hữu công nghiệp
Luật SHTT năm 2005 được ban hành đã định nghĩa: ”Quyền sở hữu công
nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật
kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành
mạnh” [22, Điều 4, Khoản 4].
Để hiểu rõ những vấn đề cơ bản về quyền SHCN, cần phân biệt một số khái
niệm cụ thể dưới đây:
Sở hữu là thuật ngữ dùng để chỉ quyền của con người đối với tài sản mà người
đó có. Quyền này được Nhà nước bằng pháp luật ghi nhận và bảo hộ, và gọi là
quyền sở hữu. Nội dung quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
và quyền định đoạt đối với tài sản tương ứng.
Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp là chủ sở hữu quyền SHTT hoặc tổ chức, cá
nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền SHTT.
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải
quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên [22, Điều 4,
Khoản 12].
11
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện
bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này”
[22, Điều 4, Khoản 13].
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của các phần tử
mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn [22, Điều 4,
Khoản 15].
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác
trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh là khu vực địa lý
nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng. [22, Điều 4,
Khoản 21].
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể [22, Điều 4, Khoản 22].
Văn bằng bảo hộ là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ
chức, cá nhân nhằm xác lập quyền SHCN đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; quyền đối với giống cây trồng. [22, Điều 4,
Khoản 25]
Nhãn hiệu hàng hóa:
Việt Nam là một thành viên của nhiều điều ước quốc tế về NHHH bao gồm
Công ước Pari về SHCN năm 1883 và Hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế (Thoả
ước Madrid và Nghị định thư Madrid), Hiệp định TRIPS. Trước khi có Luật SHTT
năm 2005, quyền SHCN đối với NHHH ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự năm 1995, các Nghị định, Thông tư
hướng dẫn, thậm chí bởi rất nhiều các quyết định của Cục Sở hữu trí tuệ.
Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995 quy định: Nhãn hiệu hàng hóa là những
dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất
kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự
kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc [20, Điều
785].
12
Luật SHTT năm 2005 quy định :
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau. ” [22, Điều 4, Khoản 16]
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các
thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ
chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. [22, Điều 4, Khoản 17]
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng
hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc
tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu. [22, Điều 4, Khoản 18]
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc
tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có
liên quan với nhau. [22, Điều 4, Khoản 19]
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên
toàn lãnh thổ. [22, Điều 4, Khoản 20]
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa
Dựa vào khái niệm quyền SHCN nêu trên, người ta nhận thấy quyền SHCN có
thể được chia thành hai nhóm đối tượng được bảo hộ chính, bao gồm:
Quyền sở hữu đối với các thành tựu sáng tạo khoa học công nghệ như: sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp.
Quyền sở hữu đối với các chỉ dẫn thương mại như: nhãn hiệu hàng hóa; tên
thương mại; chỉ dẫn địa lý; quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Không giống như đối với quyền tác giả được xác lập ngay khi tác phẩm hình
thành, các quyền sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu hàng hóa và quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý muốn được xác lập
phải thực hiện việc đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ (Cục SHTT) thuộc Bộ khoa học
và Công nghệ theo các thủ tục quy định. Các đối tượng SHCN khác như: bí mật
13
kinh doanh, tên thương mại thì quyền sở hữu tự động phát sinh như bản quyền, nó
chỉ phát sinh khi hội tụ đủ các điều kiện quy định mà không cần đăng ký.
Để được hưởng quyền sở hữu đối với NHHH, tổ chức, cá nhân kinh doanh
phải làm “Đơn xin cấp giấy chứng nhận đăng ký NHHH” và nộp tại Cục SHTT
thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Đơn phải tuân thủ hình thức, nội dung theo quy
định của pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa. Giấy chứng nhận đăng ký NHHH sẽ
được cấp nếu đơn được trình bày theo đúng quy định, NHHH trong đơn thỏa mãn
các tiêu chuẩn bảo hộ, người nộp đơn đã nộp đủ các khoản lệ phí. Phạm vi, nội
dung, thời hạn bảo hộ quyền đối với NHHH được xác định theo giấy chứng nhận
đăng ký NHHH được cấp.
Một NHHH dùng cho một sản phẩm, dịch vụ nhất định chỉ thuộc về một chủ
thể duy nhất là người nộp đơn đăng ký đầu tiên. Để biết NHHH dự kiến đã có chủ
sở hữu, hoặc đã có người nộp đơn đăng ký bảo hộ hay chưa, cá nhân, tổ chức có thể
tự tra cứu thông tin trên các nguồn sau đây: Công báo Sở hữu công nghiệp do Cục
SHTT phát hành hàng tháng; Đăng bạ quốc gia và đăng bạ quốc tế về nhãn hiệu
hàng hóa (lưu giữ tại Cục SHTT); Cơ sở dữ liệu điện tử về nhãn hiệu đã đăng ký
trực tiếp tại Việt Nam do Cục SHTT công bố trên mạng internet
(www.noip.gov.vn); Cơ sở dữ liệu điện tử về nhãn hiệu đã đăng ký vào Việt Nam
theo thỏa ước Madrid, do Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố trên mạng
internet (www.wipo.int) và có thể sử dụng dịch vụ tra cứu thông tin của Cục SHTT,
hoặc yêu cầu cơ sở cung cấp dịch vụ SHTT tư vấn, giải đáp với điều kiện nộp phí
theo quy định.
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh,
trong đó các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy định, có
những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
Quan hệ pháp luật được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Do đó, bảo vệ
quan hệ pháp luật sẽ được ghi nhận của pháp luật cụ thể là các văn bản bảo đảm
điều kiện cho việc thực thi quyền của các bên chủ thể và quy định các hình thức chế
14
tài khi quyền đó bị xâm hại.
Quyền SHTT là tập hợp các quy phạm pháp luật được ban hành nhằm xác lập,
ghi nhận, củng cố và bảo vệ các quan hệ SHTT trong xã hội. Vì vậy, để bảo vệ các
quan hệ SHTT cần bảo vệ quyền SHTT cũng cần được bảo vệ.
Bảo hộ theo nghĩa chung nhất là sự che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất (Từ
điển tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Bảo hộ quyền SHCN đối với
NHHH cũng là “che chở” bằng các quy định của hệ thống pháp luật của nhà nước
đối với chủ thể quyền có quyền, lợi ích hợp pháp đối với quyền SHCN của NHHH.
Làm cho việc thực hiện quyền của chủ thể được bảo đảm bằng pháp luật, được pháp
luật bảo vệ nhằm chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu đối
với nhãn hiệu đang được nhà nước bảo hộ.
Bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH được cơ quan thẩm quyền xác nhận bởi
Giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Ở Việt Nam, Giấy chứng nhận đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam, thời gian được bảo hộ là
10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ đăng ký và có thể được gia hạn thêm nhiều lần,
mỗi lần là 10 năm.
Chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa được Cục SHTT cấp giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu. Chủ sở hữu đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo thỏa ước Mandrit đã được
chấp nhận bảo hộ sẽ được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân được
chuyển giao hoặc được thừa kế một cách hợp pháp cũng là chủ sở hữu nhãn hiệu.
Chủ sở hữu có nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu liên tục và không được đình chỉ sử
dụng nhãn hiệu trong thời gian dài hơn 5 năm liền. Nếu chủ sở hữu không sử dụng
nhãn hiệu 5 năm liên tục với lý do không chính đáng thì giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu bị đình chỉ hiệu lực từ ngày đầu tiên sau thời hạn 5 năm nói trên.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá là tất yếu, các tổ chức, cá nhân luôn có xu
hướng vươn hoạt động xuất khẩu hàng hóa và đầu tư ra nước ngoài để thu lời.
Chính vì vậy việc đăng ký bảo hộ quyền SHCN ở nước ngoài là hết sức cần thiết
bởi 2 lý do cơ bản sau:
15
- Xem thêm -