Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của Liên minh Châu Âu...

Tài liệu Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của Liên minh Châu Âu

.PDF
136
119
71

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Hồ Vĩnh Thịnh BẢO HỘ NHÃN HIỆU TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) Hà Nội - 2006 LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Những đóng góp khoa học của luận văn 3 3. Tình hình nghiên cứu của đề tài 4 4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4 4.1. Mục đích nghiên cứu 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 6 6. Bố cục luận văn 6 PHẦN NỘI DUNG 8 Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU 8 1.1. Lịch sử hình thành và khái niệm chung về nhãn hiệu 8 1.2. Khái niệm chung về bảo hộ nhãn hiệu 11 1.3. Khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam 15 1.3.1. Lược sử hình thành hệ thống pháp luật bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam 15 1.3.2. Định nghĩa 18 1.3.3. Các dấu hiệu loại trừ 21 1.4.Khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Liên minh châu Âu 22 1.4.1. Lược sử hình thành hệ thống đăng ký nhãn hiệu Cộng đồng 22 1.4.2. Khái niệm cơ bản về nhãn hiệu Cộng đồng 23 1.4.2.1. Cơ sở từ chối tuyệt đối 25 1.4.2.2. Cơ sở từ chối tương đối 28 1.5. 29 Phân loại nhãn hiệu 1.6. Chức năng của nhãn hiệu 32 1.7. Đặc trưng của pháp luật Liên minh châu Âu về bảo hộ nhãn hiệu 32 1.7.1. Tính thống nhất chung 32 1.7.2. Tính đan xen và riêng biệt 33 1.8. Cách thức bảo hộ nhãn hiệu 33 1.9. Lợi ích và bất lợi của việc nộp đơn nhãn hiệu Cộng đồng 34 1.9.1. Lợi ích của đăng ký nhãn hiệu Cộng đồng 34 1.9.2. Bất lợi của việc nộp đơn nhãn hiệu Cộng đồng 34 Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU 2.1. 36 Thủ tục xác lập quyền đối với nhãn hiệu 36 2.1.1. Căn cứ phát sinh và quyền nộp đơn 36 2.1.2. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên 39 2.1.3. Quyền ưu tiên 40 2.1.3.1. Nội dung của quyền ưu tiên 40 2.1.3.2. Căn cứ hưởng quyền ưu tiên 41 2.1.4. Quyền có trước 42 2.1.4.1. Khái niệm 42 2.1.4.2. Các yêu cầu nội dung để hưởng quyền có trước 43 2.1.4.3. Tác động của quyền có trước trong hệ thống nhãn hiệu Cộng đồng 44 2.1.4.4. Phân biệt quyền ưu tiên và quyền có trước 45 2.1.5. Xét nghiệm đơn và cấp Văn bằng bảo hộ 45 2.1.5.1. Xét nghiệm hình thức 45 2.1.5.2. Công bố đơn 46 2.1.5.3. Xét nghiệm nội dung đơn 46 2.1.5.4. Sự khước từ và giới hạn độc quyền 59 2.1.5.5. Phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu 60 2.1.6. Khiếu nại liên quan đến thủ tục cấp Văn bằng bảo hộ 73 2.1.6.1. Đối tượng của khiếu nại 73 2.1.6.2. Chủ thể khiếu nại 74 2.1.6.3. Hội đồng giải quyết khiếu nại 74 2.1.6.4. Thời hạn khiếu nại 76 2.1.6.5. Thủ tục giải quyết khiếu nại 76 2.1.6.6. Quyết định giải quyết khiếu nại 77 2.2. 78 Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu 2.2.1. Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu 78 2.2.2. Các trường hợp giới hạn quyền 78 2.2.2.1. Sử dụng nhãn hiệu mang tính mô tả trong hoạt động thương mại 78 2.2.2.2. Sự tồn tại từ trước của đăng ký quốc gia 79 2.2.2.3. Cạn quyền 79 2.2.3. Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu 80 2.3. 80 Chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu 2.3.1. Chấm dứt hiệu lực Văn bằng bảo hộ 80 2.3.1.1. Vô hiệu trên cơ sở tuyệt đối 81 2.3.1.2. Vô hiệu trên cơ sở tương đối 84 2.3.2. Huỷ bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ 86 2.3.2.1. Căn cứ huỷ bỏ 86 2.3.2.2. Hậu quả pháp lý của sự huỷ bỏ 90 2.4. Thực thi quyền đối với nhãn hiệu 92 2.4.1. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu 92 2.4.2. Thẩm quyền và Luật áp dụng 97 2.4.2.1. Thẩm quyền 97 2.4.2.2. Xung đột về thẩm quyền 99 2.4.2.3. Những vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà án nhãn hiệu Cộng đồng 101 2.4.2.4. Luật áp dụng 101 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG BẢO HỘ NHÃN HIỆU Ở VIỆT NAM, CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU VÀ MỘT SỐ ĐIỂM LƢU Ý VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU 103 3.1. Thực trạng hoạt động bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam 103 3.2. Một số điểm lưu ý về bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Liên minh châu Âu 107 3.3. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu 110 3.3.1. Sửa đổi, bổ sung pháp luật nội dung liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu 110 3.3.2. Xây dựng và luật hoá “Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu” 115 3.3.3. Hoàn thiện và xây dựng Quy trình giải quyết khiếu nại của “Bộ phận giải quyết khiếu nại” tại Cục Sở hữu trí tuệ 3.3.4. Thành lập Toà án chuyên trách về 116 sở hữu trí tuệ 117 KẾT LUẬN 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 122 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT OHIM: Văn phòng hài hoà hoá nhãn hiệu BTA: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ TRIPS: Các khía cạnh của thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ WTO: Tổ chức thương mại thế giới NHCĐ: Nhãn hiệu Cộng đồng WIPO: Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới EU: Liên minh châu Âu SHTT: Sở hữu trí tuệ CTMR: Quy chế nhãn hiệu Cộng đồng GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại Công ước Paris: Công ước về bảo hộ Sở hữu công nghiệp Thoả ước Madrid: Thoả ước về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá Nghị định thư Madrid: Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá Thỏa ước Ni-xơ: Thoả ước Nice về phân loại quốc tế hàng hoá và dịch vụ cho mục đích đăng ký nhãn hiệu PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời đại ngày nay là thời đại của kinh tế tri thức mà sở hữu trí tuệ (dưới đây gọi tắt là SHTT) được xem là xương sống của nền kinh tế. Thực tế bảo hộ SHTT đã có từ rất lâu trên thế giới, và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hội nhập của thế giới. Cho tới nay, việc thiết lập một cơ chế bảo hộ SHTT hữu hiệu là đòi hỏi tất yếu của mỗi quốc gia. Tất thẩy các quốc gia đều thừa nhận rằng SHTT vừa là sản phẩm của nền khoa học công nghệ, vừa là công cụ điều khiển thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Đối với các nước tư bản phát triển, tri thức và kinh nghiệm trong khai thác và bảo hộ SHTT trong thương mại quốc tế đã phát triển đến một trình độ rất cao với bề dầy lịch sử hàng trăm năm. Với Việt Nam, một đất nước đang phát triển, và mục tiêu trọng tâm trong phát triển kinh tế ở giai đoạn hiện nay và sau này là nhanh chóng, chủ động hội nhập sâu rộng trong quan hệ kinh tế quốc tế, thì việc bảo hộ SHTT vốn đã mới mẻ lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bảo hộ SHTT của Việt Nam theo văn bản pháp lý đầu tiên - Nghị định số 31/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành ngày 23/01/1981 cho đến nay chưa đầy 25 năm, so với kinh nghiệm hàng trăm năm của các nước phát triển quả là một khoảng cách quá lớn, đầy thách thức cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn áp dụng. Trong suốt khoảng thời gian đó, cho đến nay, mới chỉ trong 5 năm trở lại đây, nhận thức cho hoạt động xây dựng pháp luật trong lĩnh vực bảo hộ SHTT mới thật sự được bắt đầu. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu, xây dựng pháp luật trong lĩnh vực này một cách đầy đủ, dường như chưa làm tốt. Hoạt động xây dựng đó, chủ yếu là nhằm “lấp đầy” về lượng theo yêu cầu, đòi hỏi cho việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế. Vẫn còn đó những khoảng trống lớn về chất trong so sánh, đánh giá với yêu cầu đòi hỏi của thực tế. Trong khi đó, bản chất của đối tượng SHTT chính là “thông tin” ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và thương mại, có ảnh 1 hưởng nhất định đến vị thế cạnh tranh của chủ sở hữu nắm giữ quyền và xa hơn nữa là của chính quốc gia có quyền sở hữu đối tượng SHTT đó. Trên phương diện thiết lập các quan hệ kinh tế quốc tế, các quốc gia, các tổ chức quốc tế đều đặt vấn đề bảo hộ SHTT là một trong những điều kiện tiên quyết trong nội dung của điều ước cho việc ký kết, thiết lập quan hệ kinh tế tiêu biểu đó là Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), đặc biệt là Hiệp định về các khía cạnh của thương mại liên quan đến SHTT (dưới đây viết tắt là TRIPS), nó là điều kiện bắt buộc đối với Việt Nam khi gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (dưới đây viết tắt là WTO). Để tiến nhanh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam một mặt phải mở cửa hơn nữa cho hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu hoặc thông qua hợp tác với đối tác nước ngoài theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam để sản xuất các hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho nền quốc kế dân sinh, nhưng mặt khác quan trọng hơn đó là xuất khẩu càng nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ra nước ngoài càng tốt. Nhưng khi đó, nguy cơ tranh chấp trong nước, xung đột về rào cản “pháp lý” ở nước ngoài trong lĩnh vực bảo hộ SHTT sẽ càng lớn đối với các thương nhân Việt Nam. Bởi như đã trình bày ở trên, kinh nghiệm, hiểu biết và trình độ của Việt Nam trong lĩnh vực này còn rất thấp so với trình độ của thế giới. Nghiên cứu xây dựng hệ thống bảo hộ SHTT tương thích với đòi hỏi của thế giới, do vậy, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nói đến hệ thống bảo hộ SHTT, theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, là đề cập đến các đối tượng của nó, bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, thông tin bí mật, giống cây trồng mới, quyền tác giả và các quyền liên quan đến tác giả. Trong các đối tượng trên, mỗi đối tượng tuy đều có vai trò nhất định trong hệ thống, nhưng xét trong tính chất quan hệ thương mại hàng hoá quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhãn hiệu trở nên nổi bật hơn cả trong mối quan tâm của các nhà sản xuất, xuất khẩu và các nhà kinh doanh. Trong các đối tác thương mại “chiến lược” đầy tiềm năng của Việt Nam, thị trường các nước thuộc Liên minh châu Âu, bao gồm 25 nước thành viên, 2 với dân số tiêu dùng lên đến gần 500 triệu người, có mức tiêu dùng cao, luôn là một trong số thị trường lớn, hấp dẫn đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu và kinh doanh của Việt Nam, và trong tương lai thị trường này sẽ được dự báo là một thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất của Việt Nam. Mặc dù là một thị trường lớn, đầy tiềm năng nhưng nó cũng là một thị trường “khó tính” không chỉ bởi các rào cản kỹ thuật và còn là các “rào cản pháp lý khác”. Thị trường này, trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu nhãn hiệu, vừa được vận hành bởi một hệ thống pháp luật chung của liên minh, mặt khác lại có các quy định riêng của từng nước thành viên liên minh trong bảo hộ nhãn hiệu. Đó hiển nhiên là một thách thức khó, không những đối với các Nhà hoạch định chính sánh kinh tế của Việt Nam, mà đặc biệt là đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu và kinh doanh của Việt Nam trên con đường chinh phục thị trường khó tính này. Vì các lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của Liên minh châu Âu” làm đối tượng nghiên cứu của luận văn này. 2. Những đóng góp khoa học của luận văn Luận văn được hoàn sẽ là một sự đóng góp nhất định về mặt thực tiễn và mặt lý luận của vấn đề bảo hộ nhãn hiệu của pháp luật Việt Nam. Về mặt lý luận, hệ thống pháp luật của Liên minh châu Âu (dưới đây viết tắt là EU) trong các lĩnh vực khác nói chung, và trong lĩnh vực bảo hộ nhãn hiệu nói riêng luôn được đánh giá là một trong những hệ thống pháp luật chặt chẽ và tiến bộ của nhân loại. Mặc dù, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, về lý luận, luôn có sự khác nhau do sự khác nhau về các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và lịch sử của mỗi quốc gia, nhưng pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam, một mặt phù với hệ thống pháp luật nói chung, mặt khác pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu đòi hỏi phải có tính tương thích cao so với các chuẩn mực chung của quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế. Hơn nữa, pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu có tính hội nhập rất cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và nắm chắc được các quy định của hệ 3 thống pháp luật EU về bảo hộ nhãn hiệu để từ đó tìm ra được tư duy pháp luật, các quy định tiến bộ, phù hợp, có giá trị tham khảo to lớn về mặt lý luận cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu. Về mặt thực tiễn, hoạt động hợp tác kinh doanh trong đó bao gồm hoạt động thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư thuộc Liên minh châu Âu vào thị trường Việt Nam và hoạt động thương mại hàng hoá giữa các thương nhân thuộc hai thị trường này ngày càng phát triển. Hiện tại và trong tương lai gần, thị trường Liên minh châu Âu được xác định là một thị trường chiến lược và quan trọng đối với các nhà sản xuất và kinh doanh của Việt Nam. Bởi vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có giá trị đóng góp sau đây: Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu và kinh doanh của Việt Nam vào thị trường Liên minh châu Âu có được kiến thức cơ bản, sự hiểu biết cần thiết để phòng và tránh các rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động kinh doanh, cũng như chủ động trong các trường hợp xẩy ra tranh chấp nhằm bảo hộ quyền lợi của mình một cách hiệu quả. Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận văn, đồng thời cũng nhằm trang bị kiến thức cho giới luật sư và những người hành nghề trong lĩnh vực pháp luật về SHTT của Việt Nam, vận dụng trong các công việc thực tiễn hàng ngày. 3. Tình hình nghiên cứu của đề tài Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước châu Á đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh châu Âu là một đề tài lớn, khá mới mẻ. Trong nhận thức và tìm tòi của chúng tôi, hiện vấn đề này chưa được nghiên cứu. Một vài khía cạnh đơn lẻ của vấn đề đã được đề cập trong một số các bài báo nhưng chưa nhiều. Một nghiên cứu sâu, rộng và có hệ thống trong mối liên hệ, đánh giá, so sánh về từng khía cạnh của vấn đề, đồng thời đảm bảo đươc tính mới của đề tài là mục đích của chúng tôi. 4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4 4.1. Mục đích nghiên cứu Hệ thống pháp luật EU về bảo hộ nhãn hiệu là một đề tài còn rất mới đối với ngay chính các nhà nghiên cứu luật học của các nước thuộc Liên minh châu Âu. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật này là khác phức tạp bởi nó vừa chứa đựng những quy định chung của cộng đồng châu Âu, vừa chứa đựng hệ thống pháp luật quốc gia của mỗi thành viên cộng đồng trong việc điều chỉnh vấn đề về bảo hộ nhãn hiệu. Trong khi đó, nhu cầu hợp tác, giao lưu kinh tế giữa các doanh nghiệp của Việt Nam và doanh nghiệp của thị trường này là rất lớn. Bởi vậy, mục đích chính của luận văn này tìm hiểu và làm rõ hệ thống pháp luật EU liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu. Mục đích khác của luận văn là thông qua việc làm rõ các quy định của hệ thống pháp luật Eu về bảo hộ nhãn hiệu, trong so sánh với hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu, tìm ra những điểm tiến bộ, phù hợp nhằm đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là Luật SHTT vừa ban hành. Mục đích cuối cùng của luận văn là thông qua việc tìm hiểu hệ thống pháp luật EU, tác giả có được kiến thức chuyên sâu phục vụ cho công việc thực tiễn của một luật sư tư vấn hành nghề trong lĩnh vực SHTT, giúp các thương nhân Việt Nam bảo vệ quyền nhãn hiệu tại thị trường này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Mặc dù tên của đề tài là “Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh châu Âu”, nhưng vì pháp luật của Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu đã được nhiều luận văn trước đây nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, trong khi đó pháp luật của EU về bảo hộ nhãn hiệu là vấn đề mới, phức tạp, bởi vậy luận văn chủ yếu đi sâu vào phân tích làm rõ các quy định pháp luật của hệ thống này. Trong quá trình đó, có sự so sánh, đối chiếu với các quy định tương ứng của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu, để rút ra các điểm khác biệt, phù hợp và tiến bộ. 5 Trong các quy định về bảo hộ nhãn hiệu, luận văn hướng tới việc làm rõ các quy định về thủ tục xác lập quyền như: định nghĩa về nhãn hiệu; các quy định về quyền nộp đơn; các quy định về tính phân biệt của nhãn hiệu; các quy định về xét nghiệm nhãn hiệu. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu và làm rõ các quy định liên quan đến nội dung quyền của chủ sở hữu như: các quy định về phản đối, khiếu nại và huỷ bỏ; các quy định về trình tự và thủ tục giải quyết các yêu cầu phản đối, khiếu nại và huỷ bỏ; các quy định về hành vi xâm phạm quyền cũng như nghiên cứu khái quát về cơ chế giải quyết các vụ việc về khiếu nại và huỷ bỏ bằng con đường Toà án cộng đồng; các quy định thẩm quyền và luật áp dụng đối với các vụ việc liên quan đến nhãn hiệu. Vì vấn đề về xử lý hành vi xâm phạm trong thực thi quyền sở hữu nhãn hiệu là một vấn đề lớn và hết sức phức tạp, hơn nữa khuôn khổ của một luận văn cũng có hạn, nên luận văn không đề cập đến các vấn đề này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Với mục đích làm sáng tỏ các quy định về bảo hộ nhãn hiệu, những điểm khác biệt và những điểm tương đồng về cùng một vấn đề trong hai hệ thống pháp luật: pháp luật Việt Nam và pháp luật EU về bảo hộ nhãn hiệu, chúng tôi sử dụng sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích – tổng hợp để làm rõ các định nghĩa, khái niệm nhãn hiệu cũng như các tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu. - Phương pháp so sánh - đối chiếu để rút ra các điểm tương đồng và các điểm khác nhau về cùng một vấn đề trong hai hệ thống pháp luật. - Phương pháp trừu tượng khoa học nhằm để khái quát các hiện tượng phổ biến. Cùng với phương pháp phân tích, hai phương pháp này được kết hợp để khái quát các định nghĩa, khái niệm về bảo hộ nhãn hiệu và khái quát tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu. 6. Bố cục của luận văn 6 Căn cứ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu của Luận văn, không kể phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của Luận văn được kết cấu thành ba chương: Chƣơng 1: Lý luận chung về bảo hộ nhãn hiệu. Chương này trình bày quát về lịch sử hình thành và khái niệm chung về nhãn hiệu theo Luật Mẫu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới về nhãn hiệu; lược sử hình thành hệ thống pháp luật Việt Nam và Liên minh châu Âu về bảo hộ nhãn hiệu. Chương này cũng trình bày về khái niệm, tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu và phân loại nhãn hiệu. Ý nghĩa, cách thức bảo hộ nhãn hiệu và đặc trưng của hệ thống pháp luật EU về bảo hộ nhãn hiệu cũng được trình bày trong chương này. Chƣơng 2: Nội dung cơ bản của pháp luật Liên minh châu Âu và pháp luật Việt Nam về bảo bảo hộ nhãn hiệu. Chương này tập trung đi sâu vào nghiên cứu về thủ tục xác lập quyền và nội dung của quyền của chủ sở hữu như: định nghĩa về nhãn hiệu; các quy định về quyền nộp đơn; các quy định về tính phân biệt của nhãn hiệu; các quy định về xét nghiệm nhãn hiệu; các quy định về phản đối, khiếu nại và huỷ bỏ; các quy định về trình tự và thủ tục giải quyết các yêu cầu phản đối, khiếu nại và huỷ bỏ. Bên cạnh đó, chương này cũng làm rõ các quy định về hành vi xâm phạm quyền, khái quát về cơ chế giải quyết các vụ việc về khiếu nại và huỷ bỏ bằng con đường Toà án Cộng đồng; các quy định thẩm quyền và luật áp dụng đối với các vụ việc liên quan đến nhãn hiệu. Chƣơng 3: Thực trạng bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam. Các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu. Một số điểm lưu ý về pháp luật cộng đồng về bảo hộ nhãn hiệu. Chương này trình bày các vấn đề như chính tên gọi của chương này. Cuối luận văn là Tài liệu tham khảo. 7 8 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU 1.1. Lịch sử hình thành và khái niệm chung về nhãn hiệu Nhãn hiệu là một khái niệm đã xuất hiện rất lâu từ thời cổ đại với ý nghĩa ban đầu là một dấu hiệu để đánh dấu các đàn gia súc và các đồ vật của một người hoặc một nhóm người với các đàn gia súc và đồ vật của một người hoặc một nhóm người khác. Tiếp theo, vào khoảng 3000 năm trước đây, những thợ thủ công người Ấn Độ thường khắc chữ ký của mình lên các tác phẩm để đánh dấu hàng hoá trước khi gửi chúng tới Iran để bán. Gần hơn nữa, cách đây vào khoảng 2000 năm, trước khi đem hàng đi bán tại khu vực Địa Trung Hải, các nhà sản xuất Trung Quốc cũng đã biết đánh các dấu hiệu riêng lên các hàng hoá này. Cùng với sự hưng thịnh của hoạt động giao lưu thương mại của thời kỳ này, việc sử dụng dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các nhà buôn và các nhà sản xuất như vậy ngày càng phổ biến trong hoạt động buôn bán. Tuy nhiên, thời kỳ này, tầm quan trọng về ý nghĩa kinh tế của nhãn hiệu còn rất hạn chế [42, tr.9]. Dần dần, cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, kéo theo là sự phát triển của hoạt động thương mại và buôn bán hàng hoá, nhãn hiệu bắt đầu đóng một vai trò quan trọng và trở thành một nhân tố không thể thiếu trong xu hướng thương mại hoá và toàn cầu hoá của nền kinh tế thị trường. Quá trình công nghiệp hoá và sự phát triển của nền kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương nhân cung cấp cho người tiêu dùng các loại hàng hoá ngày càng đa dạng trong cùng một chủng loại hàng. Thông thường, các hàng hoá là khác nhau về chất lượng và giá cả, nhưng để xác định được đâu là hàng hoá có chất lượng và giá cả phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng, cần phải có đặc điểm để nhận diện. Bởi vậy, một điều hiển nhiên là người tiêu dùng cần phải được cung cấp các tiêu chí để lựa chọn hàng hoá, và nhà sản xuất cũng cần phải tạo ra một đặc trưng riêng cho hàng hoá do chính mình sản xuất. Do đó, hàng hoá phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hoá trên thị trường chính là nhãn hiệu [13, tr.66]. 9 Như vậy, sự ra đời của nhãn hiệu ban đầu chỉ đơn thuần là một dấu hiệu hay ký hiệu mang tính ngẫu nhiên. Cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất và thương mại hàng hoá, các nhà sản xuất và các nhà buôn bán hàng hoá ngày càng ý thức hơn về nhãn hiệu, do đó, các dấu hiệu hay ký hiệu dùng làm nhãn hiệu không còn mang tính ngẫu nhiên nữa, mà ẩn chứa trong nó dụng ý của nhà sản xuất và nhà buôn bán hàng hoá, thông qua việc đặt tên cho hàng hoá. Và, nhãn hiệu thời kỳ này cũng chỉ nhằm mục đích để phân biệt hàng hoá, do vậy, được gọi là nhãn hiệu hàng hoá. Trước khi Tổ chức SHTT thế giới được thành lập, đã có rất nhiều định nghĩa về nhãn hiệu được đưa ra, nhưng tựu trung lại đều thống nhất ở quan điểm cho rằng "nhãn hiệu là bất kỳ một dấu hiệu nào mà có thể cá thể hoá hàng hoá của một doanh nghiệp và phân biệt chúng với hàng hoá của đối thủ cạnh tranh" [42, tr.9]. Định nghĩa này bao hàm hai khía cạnh: khía cạch thứ nhất là chức năng cá thể hoá hàng hoá của nhãn hiệu và thứ hai là chức năng chỉ dẫn nguồn gốc. Mặc dù, định nghĩa đề cập đến hai khía cạch của nhãn hiệu, nhưng thực chất cả hai khía cạnh này luôn tuỳ thuộc lẫn nhau và được xem là một. Để cá thể hoá một hàng hoá, nhãn hiệu cần phải chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá, nhưng việc chỉ ra nguồn gốc hàng hoá không có nghĩa là nhãn hiệu phải cho người tiêu dùng biết người thực sự đã sản xuất ra hàng hoá hay thậm chí là người đang kinh doanh hàng hoá. Trên thực tế, người tiêu dùng thường không biết tên của nhà sản xuất, và lại càng không biết chút gì về địa điểm của nhà máy sản xuất sản phẩm. Nhãn hiệu không cần thiết phải chỉ rõ xuất xứ, chỉ cần người tiêu dùng tin vào nhà sản xuất là đủ. Bởi vậy, chức năng cá thể hoá của nhãn hiệu thực chất là đề cập đến một nhà sản xuất cụ thể. Khía cạnh thứ hai của định nghĩa đề cập đến chức năng phân biệt hàng hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá của các doanh nghiệp khác. Chỉ khi nhãn hiệu giúp người tiêu dùng phân biệt được một hàng hoá mang nhãn hiệu của doanh nghiệp này với các hàng hoá của các doanh nghiệp khác được đưa ra thị trường, thì nhãn hiệu đó mới đạt được chức năng ban đầu của nó tức là chức năng xác định được nhà sản xuất. Điều này cho thấy chức năng phân biệt và chức năng chỉ nguồn gốc thực tế là không thể tách rời. 10 Trên cơ sở chức năng của nhãn hiệu, Luật mẫu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới về Nhãn hiệu, Tên thương mại và Cạnh tranh không lành mạnh năm 1967, đã đưa ra một định nghĩa như sau: “Nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt với hàng hoá của một doanh nghiệp này với đối thủ cạnh tranh”. Trong thực tế kinh doanh, không chỉ có các nhà sản xuất đưa hàng hoá ra thị trường mà còn có cả các nhà cung cấp dịch vụ cũng cung cấp dịch vụ ra thị trường. Vì vậy, tất yếu đòi hỏi cũng phải có dấu hiệu để người tiêu dùng có thể phân biệt được dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ với nhau. Những dấu hiệu được sử dụng trong trường hợp này được gọi là nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu dịch vụ, về bản chất, cũng giống như nhãn hiệu hàng hoá. Do đó, khái niệm nhãn hiệu hiện nay theo các điều ước quốc tế về nhãn hiệu và pháp luật của nhiều nước được quy định với hàm nghĩa bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Điều này được khẳng định trong điều 15 Hiệp định TRIPS: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu” [17]. Theo các định nghĩa nêu trên, dấu hiệu có thể sử dụng làm nhãn hiệu là những dấu hiệu bất kỳ, miễn là dấu hiệu đó có khả năng phân biệt. Như vậy, về mặt lý luận, các dấu hiệu thuộc dạng nhìn thấy được và thuộc dạng không thể nhìn thấy được như mùi vị hoặc âm thanh đều có thể trở thành nhãn hiệu. Việc thừa nhận dấu hiệu thuộc dạng nào có thể sử dụng làm nhãn hiệu, vì thế, tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn của mỗi quốc gia. Phần lớn các quốc gia chỉ cho phép đăng ký các dấu hiệu thể hiện dưới dạng đồ hoạ (nhìn thấy được), bởi các nhãn hiệu thuộc dạng này mới có thể ghi được trong sổ danh bạ quốc gia, và công bố một cách hữu hình trong công báo nhãn hiệu quốc gia, để công bố công khai cho công chúng về việc đăng ký nhãn hiệu. Về vấn đề này, điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy định “... Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Hiệp ước Luật nhãn hiệu cũng chỉ thừa nhận sự bảo hộ đối với các dấu hiệu nhìn thấy được, không thừa nhận sự bảo hộ đối với các nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi vị [41, điều 2]. Như vậy, mặc 11 dù không phản đối việc đăng ký dấu hiệu không thể nhìn thấy được, nhưng xu hướng chung của các nước là chỉ thừa nhận việc đăng ký dấu hiệu có thể nhìn thấy được là nhãn hiệu. Một dấu hiệu được coi là đáp ứng tiêu chuẩn phân biệt hay còn được gọi là tiêu chuẩn bảo hộ phải thoả mãn hai điều kiện sau: Điều kiện thứ nhất là dấu hiệu phải có khả năng cá thể hoá hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này, để từ đó phân biệt với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Điều kiện này, đòi hỏi dấu hiệu đó không tạo ra sự liên tưởng đến hàng hoá hoặc dịch vụ mà dấu hiệu này được sử dụng. Nếu dấu hiệu này tạo ra sự liên tưởng đến hàng hoá hoặc dịch vụ mà nó ám chỉ, điều đó có nghĩa là có sự đồng nhất giữa dấu hiệu và hàng hoá hoặc dịch vụ, do đó, chức năng phân biệt bị triệt tiêu. Điều kiện này là cơ sở để xác định các trường hợp loại trừ khỏi tư cách là nhãn hiệu. Điều kiện thứ hai liên quan tới hậu quả mà nhãn hiệu có thể gây ra nếu việc sử dụng nhãn hiệu có thể gây nhầm lẫn, hiểu lầm với nhãn hiệu của người khác hoặc vi phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Điều kiện này chính là cơ sở cho việc xây dựng tiêu chí xác định khả năng tương tự gây nhầm lẫn của nhãn hiệu. 1.2. Khái niệm chung về bảo hộ nhãn hiệu Thuật ngữ bảo hộ nói chung, thông thường được hiểu đó là các cách thức, biện pháp, cơ chế và chính sánh bao gồm cả các chế tài để ngăn ngừa và chống lại sự xâm phạm các đối tượng - các quan hệ xã hội được bảo hộ. Bởi vậy, thuật ngữ bảo hộ luôn được hiểu và gắn liền với sự bảo hộ của nhà nước thông qua các quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật có thể là các chế định pháp luật, các nguyên tắc pháp luật và các chính sách pháp luật. Do sự khác nhau về bản chất và đặc điểm của đối tượng được bảo hộ mà các quy định pháp luật cho sự bảo hộ của mỗi đối tượng cũng khác nhau về nội dung và phạm vi của sự bảo hộ. Sự ra đời của nhãn hiệu không phải là một hiện tượng mang tính ngẫu nhiên hay theo sự sắp đặt chủ quan của một tổ chức nào đó. Như đã trình bầy ở trên, sự ra 12 đời của nhãn hiệu, là một tất yếu của nền sản xuất hàng hoá với mục đích để phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của cơ sở này với hàng hoá hoặc dịch vụ của cơ sở khác. Do đó, như một đòi hỏi của tất yếu khách quan, cần phải có một công cụ hữu hiệu để ghi nhận một cách chính thức và công khai quyền của các nhà sản xuất, buôn bán trong việc củng cố và duy trì tính phân biệt của hàng hoá hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu trong hoạt động sản xuất và mua bán hàng hoá. Để ghi nhận tính phân biệt của nhãn hiệu, đòi hỏi phải có quy định chống lại các hành vi gây nhầm lẫn hoặc có nguy cơ ngây nhầm lẫn như hành vi sao chép, làm giả hàng hoá mang nhãn hiệu, thậm chí là đánh cắp nhãn hiệu mà hậu quả có thể làm mất đi chức năng phân biệt của nhãn hiệu hoặc tước đoạt quyền của chủ sở hữu. Công cụ để đảm bảo được hai khía cạnh này chính là hệ thống pháp luật. Nhãn hiệu là một loại tài sản SHTT mang tính chất “phi vật thể”. Bản chất và đặc điểm của loại tài sản này không giống như loại tài sản “hữu hình” mà bản thân chủ sở hữu có thể trực tiếp thực hiện sự chiếm hữu, sử dụng và định đoạt bằng các hành vi mang tính vật lý. Chủ sở hữu đối với nhãn hiệu không thể trực tiếp thực hiện được các quyền năng nêu trên bằng hành vi mang tính vật lý, mà phải thực hiện thông qua một cơ chế pháp lý đặc thù để ngăn chặn cũng như xử lý các nguy cơ nói trên. Cơ chế pháp lý đặc thù đó chính là cơ chế dành “độc quyền” cho chủ sở hữu. Để xác định độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu, thì cần phải xác định được chủ sở hữu đó có những quyền gì và phạm vi nội dung của quyền đó đến đâu? Bởi vậy, trong khía cạnh thứ nhất, độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu được xác định bằng các quy định pháp luật về nội dung của quyền sở hữu và phạm vi quyền sở hữu. Vì trong lĩnh vực bảo hộ nhãn hiệu luôn tồn tại các quyền độc quyền khác nhau của các chủ sở hữu nhãn hiệu khác nhau, do đó, quyền độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu này phải tôn trọng và đảm bảo quyền độc quyền của chủ thể khác và của xã hội. Bởi vậy, theo khía cạnh khác, độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu cũng bao gồm các quy định pháp luật về giới hạn quyền trong một số trường hợp để đảm bảo tính cân bằng lợi ích của chủ thể khác và của xã hội như đã nói trên. Cơ chế bảo 13 hộ, vì vậy, là cơ chế dành “độc quyền tương đối” cho chủ sở hữu. Pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu của tất cả quốc gia cũng đều quy định quyền độc quyền của chủ sở hữu là quyền độc quyền tương đối. Tính tương đối còn được thể hiện ở các trường hợp chủ sở hữu không thể ngăn cấm việc người khác bán lại hàng hoá do chủ sở hữu đưa ra thị trường. Trường hợp này được gọi là học thuyết sử dụng cạn quyền. Học thuyết cạn quyền này cũng có thể đuợc áp dụng trong trường hợp nhập khẩu song song, tuỳ thuộc vào pháp luật từng nước. Như đã trình bày ở trên, bảo hộ nhãn hiệu không chỉ bao gồm các quy định pháp luật để chủ sở hữu thực hiện được các quyền được xác định trong nội dung quyền của chủ sở hữu, mà quan trọng hơn cả là quy định ngăn cấm và xử lý các hành vi xâm phạm hoặc có nguy cơ xâm phạm quyền của chủ sở hữu do hành vi của chủ thể khác thực hiện trên thực tế, nhằm đảm bảo các quyền đó không trở thành hư quyền. Do đó, theo một khía cạnh khác nữa, độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu còn bao gồm các quy định chống xâm phạm từ các chủ thể khác. Hành vi có nguy cơ xâm phạm độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu không chỉ bao gồm các hành vi sử dụng các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn, mà còn bao gồm hành vi đăng ký các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn. Do đó, bảo hộ nhãn hiệu còn bao gồm các quy định chống lại việc đăng ký các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn của chủ thể khác thông qua các thủ tục như phản đối đơn đăng ký, yêu cầu huỷ bỏ các văn bằng bảo hộ đã cấp cho nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn. Các quy định này, xét trong mối quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu, chính là căn cứ pháp lý để chủ sở hữu thực hiện quyền độc quyền, xét trong mối quan hệ với người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu chính là căn cứ pháp lý xác lập quyền. Bởi vậy, các quy định bảo hộ nhãn hiệu, trong khía cạnh này, là một vấn đề có tính hai mặt: mặt xác lập quyền và mặt thực thi quyền. Như một nguyên tắc chung của bất kỳ hệ thống pháp luật nào, nhãn hiệu được bảo hộ phải không xâm phạm đến trật tự công cộng và đạo đức xã hội - một nguyên tắc hiến định của tất cả các hệ thống pháp luật. Điều này đòi hỏi việc bảo hộ nhãn hiệu phải có các quy định về tiêu chuẩn bảo hộ của nhãn hiệu. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan