ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TRẦN THỊ PHƯƠNG CHÂM
BẢO HIỂM Y TẾ KHU VỰC KINH TẾ PHI CHINH
THỨC Ở HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
------------------------------------
TRẦN THỊ PHƯƠNG CHÂM
BẢO HIỂM Y TẾ KHU VỰC KINH TẾ PHI CHÍNH
THỨC Ở HÀ NỘI
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH VĂN THÔNG
Hà Nội – 2012
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
i
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
ii
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: Bảo hiểm y tế ở khu vực kinh tế phi chính thức –
những vấn đề lý luận và thực tiễn.
1.1 Khu vực kinh tế phi chính thức
7
7
1.1.1 Khái niệm khu vực kinh tế phi chính thức
7
1.1.2 Vai trò khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam
9
1.2 Bảo hiểm y tế ở khu vực kinh tế phi chính thức
12
1.2.1 Bảo hiểm y tế và chính sách BHYT tự nguyện
12
1.2.2 Sự cần thiết Bảo hiểm y tế ở khu vực kinh tế phi chính
17
thức
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện Bảo hiểm y
tế ở khu vực kinh tế phi chính thức
19
1.3 Kinh nghiệm xây dựng chính sách Bảo hiểm y tế một số nước
trên thế giới
21
1.3.1 Một số mô hình Bảo hiểm y tế trên thế giới
21
1.3.2 Kinh nghiệm xây dựng chính sách bảo hiểm y tế một số
24
1.3.3 Bài học kinh nghiệm để phát triển bảo hiểm y tế toàn dân
30
nước
cho Việt Nam
Chương 2: Thực trạng bảo hiểm y tế khu vực kinh tế phi chính
34
thức ở Hà Nội
2.1 Khái quát Bảo hiểm y tế ở khu vực phi chính thức
34
2.1.1 Tình hình Bảo hiểm y tế ở Việt Nam thời gian qua
34
2.1.2 Khả năng và nhu cầu tham gia bảo hiểm y tế của người
38
lao động ở khu vực kinh tế phi chính thức
2.2 Tình hình thực hiện Bảo hiểm y tế khu vực kinh tế phi chính
thức ở Hà Nội
2.2.1 Khái quát khu vực kinh tế phi chính thức ở Hà Nội
43
43
2.2.2 Công tác thực hiện BHYT khu vực kinh tế phi chính thức
ở Hà Nội
48
2.3 Đánh giá chung về tình hình thực hiện BHYT khu vực kinh tế
phi chính thức ở Hà Nội
52
2.3.1 Thành tựu
52
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
54
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy phát triển bảo hiểm
y tế khu vực kinh tế phi chính thức ở Hà Nội thời gian tới
64
3.1 Định hướng chung phát triển BHYT khu vực phi chính thức ở
64
Hà Nội
3.1.1 Định hướng của cả nước
64
3.1.2 Định hướng của Thành Phố Hà Nội
66
3.2 Một số giải pháp cơ bản phát triển BHYT khu vực kinh tế phi
chính thức tại Hà Nội
67
3.2.1 Nhóm giải pháp về kinh tế
67
3.2.2 Nhóm giải pháp về luật pháp, thể chế và tổ chức
74
3.2.3 Nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền, vận động làm cho
người lao động thấy được lợi ích của việc tham gia BHYT
85
KẾT LUẬN
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
KÝ HIỆU
NGUYÊN NGHĨA
1
BHYT
Bảo hiểm y tế
2
BHXH
Bảo hiểm xã hội
3
KCB
Khám chữa bệnh
4
SXKD
Sản xuất kinh doanh
i
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
STT
SỐ HIỆU
1
Bảng 1.1
NỘI DUNG
Tính toán định suất phí cho BHYT của BHXH
ở Thái Lan
Trang
28
Thu nhập trung bình tháng ở khu vực kinh tế
2
Bảng 2.1
phi chính thức năm 2009 tại Hà Nội và TP.Hồ
39
Chí Minh (chia theo nhóm ngành kinh tế)
Thu nhập trung bình tháng ở khu vực kinh tế
3
Bảng 2.2
phi chính thức năm 2009 tại Hà Nội và TP.Hồ
39
Chí Minh (chia theo vị thế công việc)
Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo
4
Bảng 2.3
giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn và
40
phân theo vùng
Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một
5
Bảng 2.4
tháng theo giá thực tế phân theo thành thị,
41
nông thôn và phân theo vùng
6
Bảng 2.5
Cơ cấu hộ SXKD và việclàm theo nhóm ngành
kinh tế
45
Bảng so sánh số liệu cơ sở sản xuất kinh doanh
7
Bảng 2.6
phi chính thức, số lao động và tỉ lệ lao động
46
khu vực phi chính thức với tổng lao động
8
Bảng 2.7
Tổng doanh thu, sản lượng và giá trị sản xuất
năm 2009 tại Hà Nội
ii
47
9
Bảng 2.8
10
Bảng 2.9
11
Bảng 2.10
12
Bảng 2.11
13
Bảng 2.12
14
Bảng 3.1
15
Bảng 3.2
16
Bảng 3.3
17
Bảng 3.4
18
Bảng 3.5
Hiệu quả kinh tế của khu vực phi chính thức
Chi phí khám, chữa bệnh BHYT tại các tuyến
ở Hà Nội
Thu, chi của các nhóm đối tượng theo trách
nhiệm đóng BHYT năm 2010 ở Hà Nội
Chi phí KCB BHYT trung bình của một số đối
tượng ở Hà Nội năm 2011
Tổng hợp phiếu điều tra
Điều tra lao động khu vực kinh tế phi chính
thức Hà Nội năm 2010
Thống kê trình độ học vấn lao động khu vực
phi chính thức ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh
Thống kê số lượng lao động qua đào tạo nghề
tại Hà Nội
Số cán bộ ngành y trực thuộc sở Y tế Hà Nội
Số cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc sở Y tế
Hà Nội
iii
47
49
50
52
54
67
72
73
80
81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm y tế là một bộ phận trong hệ thống an sinh xã hội. Bảo hiểm
y tế là một trong những nội dung của bảo hiểm xã hội được quy định tại công
ước 102 ngày 28.06.1952 của tổ chức lao động quốc tế (ILO). Nước ta bảo
hiểm y tế được coi là một chính sách quan trọng để thực hiện mục tiêu xây
dựng nền y tế theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển; là một chính
sách xã hội quan trọng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, Đảng và Nhà nước ta, một mặt
nỗ lực hướng vào và phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng
trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước
phát triển bền vững và ngày càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không
ngừng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội để giúp cho người lao động có khả
năng chống đỡ với các rủi ro trong nền kinh tế thị trường. Đảng và Nhà nước
luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao
động. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài chính sách bảo hiểm y tế mới chỉ
nhắm tới đối tượng người lao động ở khu vực chính thức (cơ quan và doanh
nghiệp nhà nước).
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới, thì hệ thống an sinh xã hội nói chung và Bảo
hiểm y tế nói riêng phải được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của
người lao động, của nhân dân, là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con
người. Bảo đảm nhu cầu về an sinh xã hội, trước hết là nhu cầu về bảo hiểm y
tế là một trong những mục tiêu rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của cộng đồng
quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn. Sự phát triển
1
kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế
- xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh
tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện và nâng cao
mức sống của người lao động luôn là mục tiêu trước mắt, cũng như lâu dài
của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực
hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khi đề cập tới các biện pháp đồng bộ và
chăm sóc sức khỏe nhân dân đã nói tới chúng ta phải tiến tới bảo hiểm y tế
toàn dân. Bảo hiểm y tế toàn dân là một nhiệm vụ tạo nền tảng cho ổn định
chính trị và phát triển xã hội, đảm bảo công bằng cho mọi người dân. Vì vậy,
việc thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế đối với người lao động khu vực kinh
tế phi chính thức là hết sức cần thiết.
Ngày 14.11.2008 Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
bảo hiểm y tế. Luật bảo hiểm y tế ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày
01.07.2009. Người lao động ở mọi khu vực có quyền tham gia bảo hiểm y tế
và thụ hưởng chính sách bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, đến nay số lượng người
tham gia bảo hiểm y tế ở khu vực kinh tế phi chính thức còn rất hạn chế.
Nguyên nhân số lượng người tham gia còn ít do đặc điểm đối tượng ở khu
vực kinh tế phi chính thức ở nước ta là: trình độ học vấn và nhận thức xã hội
còn nhiều hạn chế, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, việc làm bấp bênh,
thu nhập thấp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được
sự cần thiết tham gia bảo hiểm y tế; giải pháp nào giải quyết việc tham gia
bảo hiểm y tế của người lao động khi thu nhập bấp bênh; vấn đề thể chế, tổ
chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý. Vì những hạn chế của quá trình
nghiên cứu nên tác giả chỉ chọn xem xét trong phạm vi của Hà Nội. Xuất phát
2
từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo hiểm y tế khu vực kinh tế
phi chính thức ở Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi điều lệ bảo hiểm y tế đầu tiên được ban hành vào năm 1992 đến
nay, nhiều nghị định và các thông tư hướng dẫn đã được ban hành nhằm điều
chỉnh, sửa đổi chính sách bảo hiểm y tế, vừa thể hiện sự quan tâm của Chính
phủ trong việc triển khai bảo hiểm y tế, đồng thời cũng chứng tỏ có nhiều khó
khăn trong quá trình triển khai chính sách bảo hiểm y tế. Đã có một số công
trình nghiên cứu khoa học liên quan đến chính sách bảo hiểm y tế, khu vực
phi chính thức được công bố dưới nhiều hình thức khác nhau (sách tham
khảo, đề tài, luận văn, tạp chí, …). Trong đó có thể kể đến:
- “Các giải pháp cơ bản nhằm tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn
dân” – Đề tài nghiên cứu khoa học của TS. Phạm Đình Thành - Trung tâm
nghiên cứu khoa học bảo hiểm xã hội. Trong đề tài tác giả đề cập một số vấn
đề lý luận cơ bản về bảo hiểm y tế. Tác giả cũng đã đưa đến mô hình bảo
hiểm y tế của nhiều nước trên thế giới và các giải pháp cơ bản nhằm tiến tới
thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
- “Báo cáo đánh giá chính sách và thực hiện chính sách bảo hiểm y tế”
- Viện chiến lược chính sách y tế. Trong báo cáo đã làm rõ kết quả thực hiện
chính sách bảo hiểm y tế, những khó khắn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện chính sách bảo hiểm y tế; khả năng đáp ứng của chính sách bảo hiểm y tế
đối với định hướng phát triển một nền y tế công bằng hiệu quả và phát triển;
Phân tích, dự báo khả năng phát triển bảo hiểm y tế ở các khía cạnh kinh tế,
xã hội và luật pháp.
- “Báo cáo chuyên đề tài chính và cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam”
của Ngân hàng thế giới. Báo cáo đã chỉ ra những thách thức của bảo hiểm y tế
3
ở Việt Nam: khả năng mở rộng phạm vi bao phủ, phát triển chiều sâu dịch vụ
để người bệnh giảm bớt chi phí.
- “Hoàn thiện chính sách tài chính đảm bảo an sinh xã hội” – Bài tham
luận Nguyễn Tiến Hùng tại hội thảo tổ chức tại Học viện Tài chính – Phân
viện Hồ Chí Minh.
- “Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế ở nước ta: thành tựu, thách thức
và giải pháp” của PGS.TS. Đào Văn Dũng (Tạp chí Tuyên giáo số 8 – 2009).
- “Bảo hiểm y tế cho người nghèo” – Luận văn Nguyễn Thanh Bình.
- “Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam” của PGS.TS Đinh Công Tuấn – Nhà xuất bản khoa học Xã hội 2008.
- Đề tài nghiên cứu khoa học: “Khu vực kinh tế phi chính thức – thực
trạng và những vấn đề đặt ra với công tác quản lý” chủ nhiệm đề tài TS.
Phạm Văn Dũng.
Nhìn chung các công trình khoa học nói trên đã đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau của vấn đề bảo hiểm y tế. Tuy nhiên chưa có một công trình
nào nghiên cứu về vấn đề phát triển Bảo hiểm y tế khu vực phi chính thức
một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của bảo hiểm y tế trong khu vực phi
chính thức. Từ đó phân tích thực trạng và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác bảo hiểm y tế trong khu vực phi
chính thức ở Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hiểm y tế trong khu
vực phi chính thức.
4
- Đánh giá thực trạng việc tham gia bảo hiểm y tế, những thành tựu, hạn
chế và khả năng tham gia bảo hiểm y tế của người lao động khu vực phi chính
thức.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển hệ thống bảo hiểm y tế trong khu
vực phi chính thức.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo hiểm y tế khu vực phi chính
thức ở Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là kết quả thực hiện bảo hiểm y tế trong
khu vực phi chính thức ở Hà Nội tính đến năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: luận văn nghiên cứu sử dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong các văn kiện Đại hội Đảng về công tác an sinh xã hội nói
chung và Bảo hiểm y tế nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp thống
kê, tổng hợp, phân tích, điều tra và kế thừa các nghiên cứu trước đây về các
vấn đề có liên quan. Phân tích các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách
bảo hiểm y tế, các thông tin báo cáo sẵn có từ các nguồn khác nhau.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa được các vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hiểm y tế
khu vực phi chính thức ở Hà Nội.
- Phân tích được thực trạng bảo hiểm y tế khu vực phi chính thức ở
nước ta, những thành công và hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp để phát triển, mở rộng đối tượng tham gia
bảo hiểm y tế khu vực phi chính thức.
5
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Bảo hiểm y tế ở khu vực kinh tế phi chính thức – những
vấn đề lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng bảo hiểm y tế khu vực kinh tế phi chính thức
ở Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy phát triển bảo hiểm y
tế khu vực kinh tế phi chính thức ở Hà Nội thời gian tới.
6
Chương 1
BẢO HIỂM Y TẾ Ở KHU VỰC KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1
Khu vực kinh tế phi chính thức
1.1.1 Khái niệm khu vực kinh tế phi chính thức
Khái niệm khu vực kinh tế phi chính thức (Informal sector) xuất hiện từ
cuối những năm 60. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tên gọi, chưa có
một khái niệm thống nhất về khu vực kinh tế này. Do đây là khu vực kinh tế
rất phức tạp; ở mỗi quốc gia, khu vực này có những đặc điểm rất khác biệt;
khu vực này có thể được nghiên cứu, xem xét dưới những góc độ khác nhau.
Do đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa ngắn gọn bao quát được đầy đủ tính
chất, đặc điểm của khu vực này. Định nghĩa về khu vực kinh tế phi chính thức
của Liên hợp quốc, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) có nhiều điểm hợp lý và
phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển hơn cả. Để có thể đo lường và đánh giá được vị trí và vai trò của khu vực kinh tế phi chính thức
trong nền kinh tế quốc dân, Liên hợp quốc đã đưa ra định nghĩa: Khu vực
kinh tế phi chính thức là đơn vị sản xuất có sử dụng các đầu vào về vốn, lao
động, hàng hoá và dịch vụ để tạo ra hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định được
thực hiện bởi các cá nhân người lao động hoặc hộ gia đình hoặc nhóm nhỏ
người lao động nhưng không đăng ký theo quy định của luật pháp, không
thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh. Với quan niệm này, khu vực kinh tế
phi chính thức được xem xét không dừng lại ở những tiêu chí thông thường,
mà từ cấu trúc bên trong của nó; khu vực kinh tế phi chính thức được nghiên
cứu với tư cách là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế.
Là một nước đang phát triển, các hoạt động kinh tế phi chính thức ở
Việt Nam khá phổ biến. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế phi chính
7
thức vẫn giữ các đặc điểm chung và phát triển mạnh bởi cơ chế kinh tế thông
thoáng và nền kinh tế phát triển thuận lợi hơn theo hướng thị trường. Tuy
nhiên, có nhiều ý kiến trái chiều về quy mô thực của khu vực kinh tế này. Việt
Nam có cơ cấu lao động làm trong ngành nông nghiệp cao, lại do tính chất
thời vụ của sản xuất nông nghiệp, từ xa xưa, vào lúc nông nhàn, người nông
dân luôn tìm thêm các công việc để nâng cao mức thu nhập, mức sống của
mình. Những công việc phi nông nghiệp do người nông dân tự tạo đã xuất
hiện từ thời xa xưa như: đàn ông chẻ lạt, đan lát; phụ nữ buôn bán, nuôi tằm,
trồng dâu, dệt vải... Dần dần, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
nhiều ngành nghề khác xuất hiện: giấy, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, chế biến
thực phẩm, rèn đúc kim loại... Ở mỗi địa phương, do tiềm năng và sở trường
khác nhau, một số ngành nghề nhất định được phát triển, hình thành nên
những làng nghề khác nhau: gốm Bát Tràng, tơ lụa Vạn Phúc,... Đến nay, mặc
dù các làng nghề có sự thăng trầm những vẫn tiếp tục tồn tại. Ở những vùng
nông thôn không có làng nghề thì hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi
nông nghiệp luôn tồn tại đan xen nhau, bổ sung cho nhau nhằm đáp ứng các
nhu cầu của sản xuất và đời sống. Có thể nói rằng, hoạt động kinh tế phi chính
thức đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm.
Khu vực kinh tế phi chính thức là khu vực gồm những người, các hộ
gia đình có hoạt động kinh doanh nhưng chưa hay không cần đăng ký kinh
doanh với nhà chức trách. Họ gồm những người hành nghề tự do, các hộ kinh
doanh cá thể, từ trẻ đánh giày, bán báo, người bán hàng rong, lái xe ôm đến
những người làm nghề xây dựng, dịch vụ hay các hộ sản xuất cá thể khác.
Phần lớn họ tự doanh, một số có thuê người làm. Khu vực kinh tế phi chính
thức được hiểu là bộ phận không có đăng ký kinh doanh của khu vực kinh tế
tư nhân.
8
Nghiên cứu về hình thức hoạt động và tổ chức lao động trong khu vực
kinh tế phi chính thức nói chung, ở thành thị nói riêng, một số công trình
nghiên cứu của Bộ Lao động – Thương Binh và Xã Hội đã phân chia hoạt
động trong khu vực kinh tế phi chính thức thành các loại hình chủ yếu:
- Loại thứ nhất: hoạt động đơn lẻ một mình, bao gồm các cá nhân làm
nghề tự do như: bán hàng vặt, hàng rong, cắt tóc, may vá, xích lô, xe ôm, cửu
vạn, giúp việc gia đình, gia sư, bán vé số, bán báo, đánh giầy... Chủ thể này
phần lớn hoạt động ở đô thị và đa dạng hơn so với ở nông thôn.
- Loại thứ hai: hoạt động đã mang tính tập thể tổ chức theo từng nhóm
người, nhưng vốn đầu tư ít, phương tiện trang bị sơ sài. Loại này quy mô
thường bó hẹp trong phạm vi nhỏ hộ gia đình hoặc một số ít người góp vốn tổ
chức cùng làm ăn với nhau.
Ở thành thị, khu vực kinh tế phi chính thức bao gồm các hoạt động kinh
tế đa dạng trong mọi lĩnh vực ngành nghề với quy mô nhỏ, mang tính cá thể,
dùng sức lao động của bản thân và gia đình là chính hoặc có thuê mướn một
số ít lao động. Đó là các tổ hợp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ
(dưới 10 lao động); các hộ kinh doanh cá thể và các cá nhân làm nghề tự do
với địa điểm sản xuất - kinh doanh thường không ổn định và không quy định
cụ thể thời gian làm việc, phần lớn hoạt động ở nhà, ngõ chợ, bến bãi tàu xe,
vỉa hè lòng đường...
1.1.2 Vai trò khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam
Khu vực kinh tế không chính thức tồn tại như một tất yếu khách quan,
luôn luôn chịu sự tác động của các qui luật kinh tế, của chính sách phát triển
kinh tế - xã hội cũng như hiệu lực của hệ thống pháp luật ở mức độ khác nhau
tùy thuộc vào mỗi nước. Khu vực này đã trở thành bộ phận cấu thành của nền
kinh tế của tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát
triển. Tại Việt Nam, theo thống kê, khu vực kinh tế phi chính thức cung cấp
9
gần 1/4 tổng số việc làm và một nửa việc làm phi nông nghiệp. Chiếm tới
82% tổng số việc làm trên cả nước [20, tr.97].
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế trên quy mô toàn cầu thì vai trò
của khu vực kinh tế phi chính thức ngày càng tỏ ra có tác động hữu hiệu. Tầm
quan trọng của khu vực kinh tế và việc làm phi chính thức đang được đánh
giá ngày càng đúng đắn hơn. Ở Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát
triển và chuyển đổi, khủng hoảng kinh tế trên quy mô toàn cầu đã dẫn đến
mất việc làm và tái cơ cấu thị trường lao động. Trong bối cảnh ấy, khu vực
kinh tế phi chính thức ngày càng tỏ ra là bến đỗ hữu hiệu trong thời kỳ khủng
hoảng. Năm 2008 vừa qua, nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng phải đương đầu với hàng loạt các cuộc khủng hoảng, mà đỉnh điểm là
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm, việc làm trở nên khó khăn,
thất nghiệp ở khu vực thành phố tăng cao. Ở nông thôn do sự chậm trễ của
các dự án phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế nông thôn, sự hạn hẹp
của đất canh tác và đặc biệt là tính chất thời vụ của khu vực này mà tình trạng
thất nghiệp cũng chậm được khắc phục. Trong thời kỳ suy giảm kinh tế vừa
qua, khu vực không chính thức đã “gánh đỡ” nhiều cho nền kinh tế của Việt
Nam. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở các nước đều tăng trước tác động của biến
động kinh tế toàn cầu thì tại Việt Nam số đó lại giảm. Đặc biệt, nhờ khởi
nguồn từ khu vực này mà không ít doanh nghiệp còn phát đạt, thành công và
cung cấp một nguồn việc làm rất lớn.
Hoạt động kinh tế phi chính thức xuất hiện khắp mọi nơi ở Việt Nam.
Quy mô và vai trò của khu vực kinh tế phi chính thức là yếu tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế. Một thực tế là hầu hết người nghèo ở Việt Nam có thu nhập nhờ tham gia
các hoạt động kinh tế mà chủ yếu là trong khu vực kinh tế phi chính thức.
10
Việc làm trong khu vực kinh tế phi chính thức đang tăng và có xu hướng thu
hút nhiều lao động. Ngược lại, nhiều người lao động cũng có xu hướng dịch
chuyển sang khối này để cải thiện đời sống. Hiện nay, trong khi tỷ lệ thất
nghiệp tăng, khu vực này lại cung cấp một nguồn việc làm rất lớn. Theo công
bố mới nhất của Trung tâm phân tích và dự báo, thu nhập hàng tháng của lao
động khu vực phi chính thức đang tăng cao. Khảo sát cho thấy, ngoài nuôi
sống bản thân, tiền gửi về cho gia đình không giảm, ở một số ngành nghề như
xây dựng dân dụng, dịch vụ còn tăng cao hơn năm trước khoảng 500.000
đồng/tháng. Ngay công việc giúp việc gia đình, mức lương năm 2010 phổ
biến ở mức 1,5 - 2 triệu đồng/người/tháng, năm 2011 đã tăng lên 2,2 - 2,5
triệu đồng/người [9, tr.2].
Sự tăng trưởng kinh tế khá cao của Việt Nam trong những năm qua đã
ghi nhận sự phát triển đáng kể của hoạt động kinh tế phi chính thức. Năm
2010, lực lượng lao động của nước ta vào khoảng 48 triệu người, trong đó lao
động khu vực chính thức chiếm 13 triệu người, lao động khu vực không chính
chức chiếm 11 triệu người [14, tr.3], còn lại có gần 24 triệu người làm việc
trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 49% tổng việc làm trong nền
kinh tế. Cả nước có 8,4 triệu hộ sản xuất, kinh doanh phi chính thức, trong đó
7,4 triệu hộ xem hoạt động trong khu vực này của mình là việc làm chính và 1
triệu hộ xem đó là việc làm thứ hai. Thu nhập từ khu vực việc làm phi chính
thức chiếm khoảng 30 – 60% tổng thu nhập quốc gia, đóng góp 20% tổng
GDP của cả nước [3, tr.8]. Nếu nghề nông và việc làm nông nghiệp được tính
vào thì khoảng 73% số việc làm là do kinh tế hộ gia đình cung cấp. Nền kinh
tế phi chính thức đã thực hiện được chức năng thiết yếu là tạo ra việc làm và
tăng phúc lợi cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng.
11
Nhìn chung, khu vực kinh tế phi chính thức đóng một vai trò quan
trọng trong nền kinh tế xã hội, chiếm một lực lượng lao động đông, năng
động, dễ chuyển đổi. Tuy nhiên, đây là một khu vực dễ bị tổn thương.
1.2
Bảo hiểm y tế ở khu vực phi chính thức
1.2.1 Bảo hiểm y tế và chính sách bảo hiểm y tế tự nguyện
* Bảo hiểm y tế
Từ xưa, con người đã có ý thức san sẻ, cưu mang đùm bọc lẫn nhau
trong họ hàng, trong cộng đồng làng xóm, thôn, bản…với tinh thần tương
thân tương ái, “nhường cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”, …Sự tương trợ
cộng đồng dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác
nhau như lập quỹ tương tế, các hội đoàn bằng tiền hay bằng hiện vật để giúp
đỡ nhau. Những hình thức trợ giúp tự nguyện của cá nhân, của cộng đồng đã
góp phần đảm bảo nguồn vật chất cần thiết cho những người hoạn nạn vượt
qua khó khăn, thiếu thốn. Đây chính là hình thức manh nha của bảo hiểm.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở
ra bước ngoặt trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trong
lĩnh vực y tế, với chủ trương đổi mới lĩnh vực y tế theo phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm” nhằm bổ sung nguồn kinh phí và từng bước đáp
ứng nhu cầu khám chữa bệnh của dân cư ngày một tăng, ngày 24/4/1989 Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 45/HĐBT cho phép các cơ sở
khám chữa bệnh thu một phần viện phí. Ngày 15/6/1989 liên Bộ Y tế-Tài
chính đã ban hành Thông tư số 14 hướng dẫn thực hiện Quyết định số
45/HĐBT nêu rõ: “ở những nơi có điều kiện, có thể áp dụng thử chế độ bảo
hiểm sức khỏe hoặc ký hợp đồng khám chữa bệnh với các tổ chức y tế trong
quốc doanh và ngoài quốc doanh, lập các quỹ bảo trợ y tế địa phương hoặc y
tế cơ sở giúp đỡ người bệnh không có khả năng trả một phần viện phí”.Ngày
26/10/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Thông tri số 3504/KG chỉ đạo Ủy ban
12
nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, Bộ Y tế tổ chức
thí điểm bảo hiểm y tế. Đến tháng 6/1991, đã có 3 tỉnh, thành phố tổ chức thí
điểm bảo hiểm y tế trên diện rộng là Hải Phòng, Quảng Trị và Vĩnh phú.
Tại phiên họp ngày 15/4/1992, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã
thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo hiểm y
tế được qui định tại điều 39 của Hiến pháp: “Thực hiện bảo hiểm y tế tạo điều
kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe”. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm y tế sau này. Ngày
18/8/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 299/HĐBT ban
hành Điều lệ Bảo hiểm y tế, khai sinh ra chính sách bảo hiểm y tế ở nước ta.
Qua triển khai thực hiện, hệ thống chính sách bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe nhân dân từng bước được hoàn thiện, thể hiện ở các Nghị định số
58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 và Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày
16/5/2005 hướng đến mục tiêu công bằng và nhân đạo trong lĩnh vực bảo vệ
và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên cơ sở đóng góp của cộng đồng, chia sẻ
rủi ro, giảm bớt gánh nặng tài chính của mỗi người dân. Đặc biệt, Luật bảo
hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 1/7/2009 đã hướng đến mục tiêu bảo hiểm y tế
toàn dân vào năm 2014. Đây là một cam kết mạnh mẽ của Chính phủ và Nhà
nước ta trong việc hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần mức đóng bảo hiểm y tế đối
với người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số, hộ gia đình làm nghề
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình trở xuống, đối tượng
hưởng chính sách ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội.
BHYT ra đời trên cơ sở chia sẻ rủi ro. Do vậy, tính chất cộng đồng xã
hội tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau được đặt lên hàng đầu. Nhìn từ
góc độ sản phẩm BHYT thì BHYT có những tính chất sau:
13
- Xem thêm -