LỜI NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………...
……………………………………...
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………
MỤC LỤC
A.LỜI NÓI ĐẦU
B.NỘI DUNG
Chương I.CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ HƯỚNG
PHÙNG.
1. Cơ cấu tổ chức của ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng.
2. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy ban nhân dân xã
Hướng Phùng
2.1.Những điểm đã đạt được.
2.2. Hạn chế còn tồn tại.
CH ƯƠNG II. NHỮNG KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI ỦY BAN
NHÂN DÂN XÃ HƯỚNG PHÙNG.
1. Kiến nghị chung.
2. Kiến nghị cụ thể cho cơ quan.
C.KẾT LUẬN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ SƯU TẦM
A. LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định “ chính những ý kiến, nguyện
vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của
Đảng..”.
Tư tưởng, quan điểm lấy dân làm gốc, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật của
nhà nước và ngày càng hoàn thiện hơn. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013; được cụ thể hóa trong luật
khiếu nại, luật tố cáo và các văn bản pháp luật khác, tạo cơ sở pháp lý cho công
dân và cơ quan nhà nước thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Hiện nay khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới,nước ta phải giải quyết nhiều vấn đề
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có việc xây dựng một hành lang pháp lý
thông thoáng và môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nguồn vốn trong nước
và quốc tế, nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy giải
quyết tốt vấn đề khiếu nại tố cáo sẽ góp phần cũng cố và xây dựng lòng tin đối với
các nhà đầu tư cũng như hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, cũng như
tình hình thực tế tại cơ quan, em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng” để làm đề tài
nghiên cứu của mình, với việc nghiên cứu này em hy vọng có thể góp phần giúp cơ
quan ngày càng hoàn thiện hơn về mọi mặt.
Do lần đầu tiếp xúc với việc nghiên cứu đề tài thực tập cuối khóa và do trình độ
kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
thầy cô và các bạn đóng góp để chuyên đề ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn
B.PHẦN NỘI DUNG
Chương I.CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ HƯỚNG
PHÙNG.
1. Cơ cấu tổ chức của ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng.
Uỷ ban nhân dân xã Hướng Phùng được đặt tại Thôn Xa Ry, Xã Hướng
Phùng, Huyện Hướng Hoá,tỉnh Quảng Trị. Cơ cấu tổ chức của UBND xã Hướng
Phùng được thể hiện qua sơ đồ sau:
CHỦ TỊCH
( phụ trách chung )
PHÓ CHỦ TỊCH ( phụ trách
lĩnh vực kinh tế)
PHÓ CHỦ TỊCH (phụ trách
lĩnh vực văn hóa- xã hội)
CÔNG
CHỨC VĂN
HÓA XÃ
HỘI
CÔNG
CHỨC TƯ
PHÁP- HỘ
TỊCH
VĂN
PHÒNG
ỦY BAN
KẾ TOÁN
TÀI
CHÍNH
Trong đó, có:
•
1 chủ tịch, 2 phó chủ tịch.
BAN CHỈ
CÔNG AN HUY
QUÂN SỰ
ĐỊA
CHÍNH
THÚ Y
•
2 công chức Tư pháp - Hộ tịch.
•
2 cán bộ địa chính.
•
3 công chức văn phòng
•
1 công chức kế toán ngân sách xã.
•
2 công chức văn hóa xã hội.
•
1 trưởng công an xã.
•
1 chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự và 1 cán bộ thú y xã.
Bên cạnh đó thì còn có một số nhân viên hợp đồng.
2. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy ban nhân dân xã
Hướng Phùng
2.1. Những điểm đã đạt được.
Trong những năm qua tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn xã Hướng Phùng có
xu hướng gia tăng và tính chất của các vụ việc ngày càng phức tạp hơn. Nội dung
chủ yếu là kiến nghị, khiếu nại liên quan đến tranh chấp đất đai.
Đối tượng khiếu nại, tố cáo chủ yếu là công dân ở các thôn trên địa bàn xã. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số đối tượng lợi dụng quyền dân chủ, có tư thù cá
nhân lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo đã kích động và lôi kéo một số phần tử xấu,
coi thường kỳ cương phép nước tập trung đông người gây rối mất trật tự, làm ảnh
hưởng đến tình hình chung của xã.
Những năm qua, nhất là sau khi luật khiếu nại, luật tố cáo có hiệu lực thi hành từ
ngày mồng 1 tháng 7 năm 2012, công tác giải quyết khiếu nại tố cáo tại ủy ban
nhân dân xã Hướng Phùng đã đạt được những kết quả nhất định sau:
* Công tác tiếp dân.
Tiếp công dân là giai đoạn tiền quan trọng của quá trình xem xét giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Tiếp công dân để trực tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo những kiến nghị,
phản ánh, đồng thời thông qua đó cơ quan nhà nước có thể nắm được việc thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, công tác
quản lý, tình hình cán bộ, phát hiện những sơ hở, yếu kém trong quá trình hoạt
động của cơ quan nhà nước, từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tiếp dân, trong những năm qua ủy
ban nhân dân xã Hướng Phùng đã cho xây dựng và bố trí phòng tiếp dân, phòng
được bố trí thuận lợi, có cơ sở vật chất từng bước trang bị, nâng cấp, có nội quy,
quy định được công khai.
Việc tiếp công dân được bố trí vào tất cả các buổi trong tuần, cán bộ tiếp dân được
bố trí đủ phẩm chất đạo đức, được phân công trực thường xuyên để tiếp công dân
nhằm kịp thời tiếp nhận, giải quyết đối với những trường hợp công dân trực tiếp
đến trình bày phản ánh, kiến nghị, khiếu nại hay tố cáo.
Các vụ việc khiếu nại, tố cáo mới phát sinh được xem xét giải quyết kịp thời, các
vụ việc khiếu nai tố cáo đông người, phức tạp , kéo dài được tập trung giải quyết.
Năm 2015 ủy ban nhân dân xã đã tiếp 9 lượt/ 9 công dân phản ánh, kiến nghị. Tất
cả các vụ việc qua tiếp dân đều được giải thích, hướng dẫn, giải quyết đúng thẩm
quyền theo quy định của pháp luật. Nhiều vụ việc sau khi được cán bộ tiếp dân giải
thích, công dân đã tự nguyện xin rút đơn và chấm dứt khiếu kiện.
Qua tổng hợp thì các vụ việc công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh tập
trung chủ yếu ở các nội dung sau: tranh chấp đất đai, chính sách xã hội, kinh tế,
..nhưng chủ yếu vẫn liên quan đến tranh chấp đất đai.
* Tình hình công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là trách nhiệm quan trọng của cơ quan hành
chính các cấp và là nội dung trọng tâm cơ bản của luật khiếu nại, luật tố cáo. Chính
vì vậy, mà công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được xem là công tác quan
trọng và cơ bản tại ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng.
Trong những năm qua, công tác giải quyết khiếu nại tố cáo tại xã có nhiều chuyển
biến tích cực đã đi vào nề nếp, có hiệu quả, đã cố gắng tổ chức và chỉ đạo tốt luật
khiếu nại, luật tố cáo. Quá trình xem xét, giải quyết khiếu nại tố cáo tại xã luôn
được diễn ra theo đúng thẩm quyền; đúng trình tự, thủ tục và đảm bảo thời gian
giải quyết theo quy định của pháp luật. Công tác giải quyết được diễn ra một cách
tích cực, tập trung, thường xuyên và quyết liệt hơn. Các vụ việc thuộc thẩm quyền
được giải quyết dứt điểm chiếm tỉ lệ khá cao, qua đó ngăn ngừa và hạn chế được
khiếu kiện vượt cấp.
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo xã đã tạo điều kiện cho cơ quan tư pháp
chủ động phát huy vai trò tham mưu, đề xuất cho ủy ban nhân dân xã kịp thời giải
quyết những yêu cầu, nguyện vọng của người dân, hạn chế đến mức thấp nhất tình
trạng phát sinh khiếu kiện đông người diễn ra tại địa phương.
Trong năm 2014, ủy ban nhân dân xã đã tiếp nhân 12 đơn khiếu nại của nhân dân,
trong đó có 2 đơn thư tồn động chưa giải quyết của năm 2013 chuyển qua, qua rà
soát nhận thấy tăng 4 đơn thư so với năm 2013. Trong đó:
- Tranh chấp quyền sử dụng đất gồm 10 đơn. Trong đó có 8 đơn của công dân và 2
đơn vượt cấp của ủy ban nhân dân huyện chuyển về, giải quyết được 6 vụ hòa giải
thành và 4 hòa giải không thành
- Tranh chấp hợp đồng kinh tế gồm 2 đơn. Trong đó: có 1 đơn của công dân
chuyển lên và 1 đơn vượt cấp được ủy ban nhân dân huyên chuyển trả về, giải
quyết đư ợc 1vụ hòa giải thành và 1 vụ hòa giải không thành.1
Ví dụ 1: Hòa giải thành
Năm 2014 ủy ban nhân dân xã đã nhận được đơn của thôn Hướng Độ về việc hộ
gia đình ông Trần Đức cố lấn chiếm đất chủa thôn.
Ngày 26 tháng 3 năm 2014 ủy ban nhân dân xã tổ chức giải quyết tranh chấp đất
giữa thôn Hướng Độ và hộ gia đình ông Trần Đức. Tại buổi làm việc, ông Trần
Đức cho rằng đất nhà ông được được cấp từ năm 1996 đã được nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và sử dụng từ đó cho đến nay và không có tranh
chấp với ai.
Về phía đại diện thôn Hướng Độ năm 1995 khi thành lập thôn. Thôn đã để lại một
số diện tích đất để làm nhà thờ cho các hộ tộc. Năm 2013 khi chia lại đất cho các
Họ thì phát hiện ra gia đình ông Trần Đức lấn chiếm đất của thôn
Về phía ủy ban nhân dân xã tôn trọng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà nhà
nước đã cấp cho hộ gia đình ông Trần Đức từ năm 1996 và bảo đảm quyền lợi hợp
1 [ 2]
pháp cho hộ ông Trần Đức theo quy định của pháp luật. Diện tích được cấp cho
hộ gia đình ông Trần Đức tại số thửa 05 tờ bản đồ số 01 với diện tích đất 1400m2.
Sau khi nghe ý kiến của các bên tại cuộc họp, thôn Hướng Độ đồng ý để cho hộ
gia đình ông Trần Đức được sử dụng theo thực tế hiện trạng trước đường bao
nhiêu mét thì phía sau suối bấy nhiêu mét ( tính từ mép cổng trên ) thôn phải chừa
lại một số diện tích làm mương thoát nước đề không để nước chảy vào nhà ông
Trần Đức.
Giao cho cán bộ địa chính phối hợp với ban cán sự thôn và hộ ông Trần Đức tiến
hành đóng móc sử dụng. Nếu hộ ông Trần Đức có trồng cà phê và các cây trồng
khác trên đất của thôn thì tự phá dở và trả lại đất cho thôn để thôn sử dụng.
Hai bên đã thống nhất va cam kết nghiêm túc thực hiện.2
Ví dụ 2: Hòa giải không thành
Năm 2012 ủy ban nhân dân xã có nhận đơn khiếu nại cua ông Hồ Đeng về việc
ông Hồ Tran có tranh chấp đất sản xuất tại thôn Chênh Vênh. Uỷ ban nhân dân xã
đã tổ chức 2 lần giải quyết nhưng các bên không đồng ý.
Ngày 3 tháng 3 năm 2014 ủy ban nhân dân xã tổ chức giải quyết lần thứ 3. Tại
buổi làm việc ông Hồ Tran vẫn cho rằng đất đó là do bà nội khai phá từ năm 1977
cho đến năm 1978 thì không làm nữa cho đến năm 2012 thì có tranh chấp với ông
Đeng.
Về phía ông Hồ Đeng cho rằng ông là người ở lại nơi đó từ ngày xưa năm 1978 và
khai thác, sử dụng lô đất đó cho đến nay và không có tranh chấp với ai ( chỉ trồng
lúa và cây hoa mày hang năm ) cho đến năm 2012 ông Hồ Đeng trồng cây cà phê
thì ông Hồ Tran tranh chấp với ông.
Về phía ủy ban nhân dân xã mong muốn hai bên hòa giải tại địa phương mỗi
người được sản xuất một nữa. Tuy nhiên ông Đeng không đồng ý vì cho rằng lô
đất đó là của ông canh tác đã nhiều năm lien tục và không coái trông thôn có ý
kiến gì
2 [4]
Cuộc hòa giải không thành các bên không thỏa thuận được, do đó một trong các
bên có quyền khởi kiện lên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Hướng Hóa giải quyết
theo quy định của pháp luật.3
Đến năm 2015, ủy ban nhân dân xã đã tiếp nhận và giải quyết 15 đơn khiếu nại
của nhân dân, tăng 3 đơn so với năm 2014. Trong đó có 12 vụ tranh chấp đất đai,
được giải quyết hòa giải thành 6 vụ, hòa giải không thành 2 vụ do huyện chuyển
về và có 4 vụ phải tổ chức hòa giải lại; Về hôn nhân gia đình thì có 1 vụ nhưng
nguyên đơn đã tự rút đơn, ngoài ra còn có 2 vụ khác đã được hòa giải thành.i
Từ những số liệu trên có thể thấy rằng, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy
ban nhân xã Hướng Phùng từ năm 2014 đến 2015 đã đạt được những kết quả nhất
định, góp phần khôi phục lại những quyền và lợi ích chính đáng của công dân; kịp
thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật nhằm giữ gìn kỷ cương,
trật tự tại cơ sở, tạo lòng tin của người dân vào chính quyền và cơ quan quản lý
Nhà nước nơi mình đang sinh sống và lao động, động viên nhân dân tham gia vào
hoạt động quản lý nhà nước, thúc đẩy mọi người hoàn thành tốt các nghĩa vụ đối
với Nhà nước và xã hội.
Nhìn chung, để đạt được những kết quả đó là nhờ vào sự cố gắng của đội ngũ cán
bộ Tư pháp nói riêng và toàn thể các ban ngành đoàn thể trong ủy ban nói chung,
bên cạnh đó còn là sự quan tâm, chỉ đạo tích cực của huyện ủy và các cơ quan cấp
trên đã góp phần vào những kết quả trên của ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng.
2.2. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả ở trên, tuy nhiên công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo trên địa bàn xã vẫn còn tồn tại số hạn chế nhất định, cụ thể như sau:
*Hạn chế chung
Thứ nhất: Trong quy định của luật khiếu nại năm 2011 vẫn còn tồn tại nhiều điểm
bất cập, v ướng mắc, được cụ thể như sau:
- Về thời hiệu khiếu nại: Điều 9 Luật Khiếu nại quy định thời hiệu khiếu nại là 90
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trong khi
đó, Điều 104 Luật Tố tụng hành chính quy định thời hiệu khởi kiện đối với quyết
3 [5]
định hành chính, hành vi hành chính là 01 năm. Điều này gây khó khăn cho công
tác thi hành quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật của các cơ quan hành
chính nhà nước nói chung, Ủy ban nhân dân cấp xã nói riêng.
- Về quyền của người khiếu nại, của luật sư, trợ giúp viên pháp lý: Tại Điểm d
Khoản 1 Điều 12 Luật Khiếu nại quy định: “Được biết, đọc, sao chụp, sao chép,
tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại,
trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước”. Điểm d Khoản 1 Điều 16 của Luật
cũng quy định Luật sư, trợ giúp viên pháp lý có quyền: “Nghiên cứu hồ sơ vụ việc,
sao chụp, sao chép các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung khiếu nại để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc
bí mật nhà nước. Trên thực tế có những vụ việc khiếu nại mà tài liệu, chứng cứ thu
thập được từ nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương lên đến hàng ngàn trang thì việc
cung cấp cho người khiếu nại, luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý khi họ yêu cầu
cần có thời gian và kinh phí nhưng chưa có quy định hướng dẫn. Hơn nữa cũng
chưa có hướng dẫn cách thức để thực hiện quyền sao chụp tài liệu như thế nào,
chẳng hạn như một người được thực hiện quyền sao chụp bao nhiêu lần, có phải trả
phí sao chụp hay không?...
- Về tổ chức đối thoại: Khoản 2 Điều 30 Luật Khiếu nại quy định: “Người giải
quyết khiếu nại có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với người khiếu nại, người
bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức có liên quan
biết thời gian, địa điểm, nội dung việc đối thoại”. Trường hợp Chủ tịch UBND cấp
xã là người giải quyết khiếu nại lần đầu đồng thời là người bị khiếu nại thì quy
định này là không phù hợp vì không thể người giải quyết khiếu nại thông báo bằng
văn bản cho chính bản thân mình là người bị khiếu nại. Hơn nữa, trong trường hợp
này ý nghĩa của việc tổ chức đối thoại cũng khó mà đảm bảo khi người chủ trì cuộc
đối thoại cũng là một bên của cuộc đối thoại.
- Về vấn đề đình chỉ giải quyết khiếu nại: Luật Khiếu nại chỉ quy định duy nhất
trường hợp đình chỉ việc giải quyết khiếu nại khi người khiếu nại có đơn rút khiếu
nại. Tuy nhiên, thực tế còn phát sinh các trường hợp khách quan khác cần tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ giải quyết khiếu nại như: người khiếu nại là cá nhân đã chết mà
quyền và nghĩa vụ của họ chưa được hoặc không được thừa kế; cơ quan, tổ chức cá
nhân đã giải thể mà chưa có hoặc không có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa
quyền và nghĩa vụ tham gia vụ việc khiếu nại; người khiếu nại đã được triệu tập
đến lần thứ ba mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng; người khiếu nại có
hành vi cản trở, trốn tránh cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xác minh;
người khiếu nại mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại
diện theo pháp luật; đã hết thời hiệu giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không
thể có mặt theo yêu cầu vì lý do chính đáng…
- Về thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật: Mục 4 Chương
III Luật Khiếu nại và Chương IV Nghị định số 75/2012/NĐ-CP đã có quy định về
thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật nhưng còn thiếu các
quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành. Đây là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tính khả thi của việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại không cao.
- Về vấn đề xử lý hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại: Việc xử lý hành vi vi phạm
các quy định pháp luật về khiếu nại theo quy định tại Điều 68 Luật Khiếu nại còn
gặp nhiều khó khăn. Pháp luật hiện nay còn thiếu các quy định cụ thể về việc xử
phạt vi phạm trong lĩnh vực khiếu nại. Vì vậy, các cơ quan còn lúng túng, khó khăn
khi xử lý đối với những hành vi vi phạm quy định pháp luật về khiếu nại.
Thứ hai: Luật tố cáo năm 2011 vẫn còn nhiều điểm bất cập, gây khó khăn trong
quá trình giải quyết vụ việc, được cụ thể như sau:
- Về thẩm quyền giải quyết tố cáo: Khoản 1 Điều 12 Luật Tố cáo quy định “Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý
cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết”. Tuy nhiên, thực tế với nhiều vụ việc
cụ thể, việc áp dụng xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo theo quy định còn chưa
thống nhất, còn có những vướng mắc do xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo tại
thời điểm tố cáo hay tại thời điểm người bị tố cáo thực hiện hành vi bị tố cáo. Cụ
thể như xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các cán bộ, công chức đã về
hưu nhưng bị tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật lúc đương nhiệm; hoặc trường
hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức tại thời điểm cán bộ,
công chức đó giữ chức vụ thấp nhưng tại thời điểm tố cáo, cán bộ, công chức này
đã giữ chức vụ cao hơn, ví dụ như người bị tố cáo là công chức tư pháp - hộ tịch đã
được bổ nhiệm lên Phó Chủ tịch hoặc Chủ tịch UBND cấp xã thì người có thẩm
quyền giải quyết tố cáo là Chủ tịch UBND cấp xã hay là Chủ tịch UBND cấp
huyện.
- Về thời hiệu tố cáo: Thực tế hiện nay có nhiều tố cáo về hành vi vi phạm pháp
luật đã diễn ra từ lâu, không còn tính nguy hiểm cho xã hội nhưng cơ quan nhà
nước vẫn thụ lý và xem xét, giải quyết. Điều này gây tốn kém, lãng phí trong quá
trình giải quyết tố cáo. Pháp luật hiện hành không quy định về thời hiệu tố cáo
hành chính.
- Về bảo vệ người tố cáo: Việc bảo vệ người tố cáo đã được Luật Tố cáo và Nghị
định số 76/20012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Tố cáo quy định. Tuy nhiên, quy định “khi có căn cứ cho
rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản,
uy tín, danh dự, nhân phẩm...” còn rất chung chung, khó xác định ở chỗ những
biểu hiện nào, hành vi nào thì được coi là có căn cứ. Ngoài ra, chưa có quy định cụ
thể về việc phối hợp giữa các cơ quan trong việc bảo vệ người tố cáo cũng là
nguyên nhân dẫn đến việc các quy định về bảo vệ người tố cáo chưa thật sự đi vào
cuộc sống, chưa thật sự tạo nên thiết chế khiến người tố cáo yên tâm, dẫn đến vẫn
còn tố cáo nặc danh, mạo danh nhiều.
- Về tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ: Pháp luật tố cáo không quy định cụ thể đối với
xử lý đơn tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ, nếu như đơn có nội dung rõ ràng, người
tố cáo đã cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu hoặc các bằng chứng khác được kiểm
chứng xác thực thì cơ quan có thẩm quyền có thể thụ lý để giải quyết nhằm bảo vệ
lợi ích công bằng và đáp ứng yêu cầu phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật.
Trên thực tế nhiều vụ việc tố cáo không rõ họ, tên địa chỉ, bút tích của người tố cáo
vẫn được một số cơ quan xem xét, giải quyết hoặc một số trường hợp thì không
xem xét. Thực tiễn trên gây ra sự thiếu thống nhất trong hoạt động áp dụng pháp
luật.
- Về khen thưởng người tố cáo: Luật Tố cáo cũng đã quy định về khen thưởng
người tố cáo nhưng mức khen thưởng đối với cá nhân có thành tích xuất sắc trong
việc tố cáo cũng còn chưa tương xứng với công sức, trách nhiệm thu thập thông
tin, tài liệu để phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt mức khen
thưởng đối với tố cáo hành vi tham nhũng được quy định tại Thông tư liên tịch số
03/2011/TTLT-BNV-TTCP ngày 6/5/2011 của Thanh tra Chính phủ và Bộ Nội vụ.
- Về vấn đề xử lý hành vi vi phạm pháp luật tố cáo: Việc xử lý hành vi vi phạm các
quy định pháp luật về tố cáo theo quy định tại Điều 46, 47 và Điều 48 Luật Tố cáo
còn gặp nhiều khó khăn. Pháp luật hiện nay còn thiếu các quy định cụ thể về việc
xử phạt vi phạm trong lĩnh vực tố cáo. Vì vậy, các cơ quan còn lúng túng, khó khăn
khi xử lý đối với những hành vi vi phạm quy định pháp luật về tố cáo.
Thứ ba: Hiện nay xuất hiện rất nhiều các văn phòng tư vấn pháp luật, trung tâm
trợ giúp pháp lý nhằm phục vụ nhu cầu của nhiều đối tượng khác nhau, tuy nhiên
thực trạng hiện nay là các văn phòng luật, trung tâm trợ giúp pháp lý với chất
lượng và trình độ của các chuyên gia không đồng nhất, có nhiều trường hợp tư vấn
không chuẩn. Nên khi đến ủy ban để hòa giải các đương sự thường không nhiệt
tình, gây khó khăn cho quá trình giải quyết, có nhiều trường hợp phải tổ chức hòa
giải từ 2 đến 3 lần mới thành.
*Hạn chế cụ thể
Thứ nhất: Dựa vào số liệu thống kê tình trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo năm
2014 – 2015 của xã Hướng Phùng ta có thể nhận thấy tình trạng đơn thư tồn động,
chưa được giải quyết ở xã vẫn còn tồn tại, điều này làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích của công dân.
Thứ hai: Công tác tiếp dân mặc dù đã có quy định cụ thể, đã có phòng tiếp dân,
tuy nhiên có nhiều cán bộ trong xã vẫn còn coi đó chỉ là hình thức. Sổ sách đăng
ký đơn thư chưa thật sự khoa học và chặt chẽ dẫn đến nhiều đơn thư bị thất lạc, hư
hại.
Thứ ba: Mặc dù các vụ việc khiếu nại, tố cáo tại xã đang ngày càng có xu hướng
gia tăng, tích chất cũng ngày một phức tạp hơn, tuy nhiên trong xã chỉ có 2 cán bộ
tư pháp đảm nhiệm vai trò giải quyết đơn thư khieu nại, tố cáo. Mặt khác,trình độ
chuyên môn của những cán bộ này vẫn còn nhiều hạn chế, việc xác định nội dung
hay thẩm quyền giải quyết vẫn còn yếu, điều đó gây khó khăn rất nhiều trong công
tác giải quyết.
Thứ tư: Qúa trình giải quyết khiếu nại,tố cáo gặp không không ít khó khăn do
chưa nhận được sự phối hợp giữa các cơ quan đoàn thể trong xã như: hội phụ nữ,
hội thanh niên, mặt trận…đối với những trường hợp giải quyết liên quan đến hôn
nhân gia đình, tranh chấp đất đai…
Thứ năm: Các vụ việc khiếu nại trong xã chủ yếu là liên quan đến tranh chấp đất
đai, nhưng do tính chất là một xã miền núi, địa hình đi lại khó khăn do vậy cán bộ
xã gặp rất nhiều khó khan trong quá trình xác minh, đo đạc làm rỏ sự việc. Bên
cạnh đó kinh phí hổ trợ cho quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo còn rất hạn chế.
Thứ sáu: Hướng Phùng là một xã nghèo, miền núi, với nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số cùng sinh sống do đó trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn kém,
ý thức pháp luật chưa cao, điều này dẫn đến nhiều trường hợp người dân gửi đơn
khiếu kiện đến những cơ quan không đúng thẩm quyền hoặc việc các bên đương sự
thường xem nhẹ việc triệu tập làm việc của ủy ban, không chịu đến ủy ban để tiến
hành hòa giải, bởi vì suy nghĩ không muốn ly hôn nữa nên không cần đến ủy ban
hoặc tâm lý trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ, dẫn đến vụ việc bị trì hoãn hoặc
kéo dài.
Trong khi đó công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân nói chung va
đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xã nói riêng của các cấp chính quyền
địa phương , chưa thật sâu rộng, tận nơi và kịp thời.
CHƯƠNG II. NHỮNG KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT
LƯƠNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI ỦY BAN
NHÂN DÂN XÃ HƯỚNG PHÙNG.
Thực tiễn cho thấy nếu vụ việc xảy ra mà cấp cơ sở kịp thời xem xét và giải quyết
đúng chính sách, pháp luật, có lý, có tình thì người dân đồng tình chấp thuận và
chấm dứt khiếu nại ngay từ cơ sở. Nếu cấp cơ sở không giải quyết hoặc giải quyết
không đúng thì người dân khiếu nại lên cấp trên, sự việc sẽ trở lên căng thẳng,
phức tạp và khó giải quyết.
Nhằm mục đích nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cấp
cơ sở nói chung và ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng nói riêng, em xin đưa ra một
số kiến nghị sau:
1. kiến nghị chung.
Thứ nhất: Giải pháp, kiến nghị về pháp luật khiếu nại
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu, xem xét hoàn thiện pháp
luật về khiếu nại theo hướng:
- Quy định thống nhất về thời hiệu khiếu nại và thời hiệu khởi kiện vụ án hành
chính trong Luật Khiếu nại và Luật Tố tụng hành chính;
- Hướng dẫn cụ thể việc sao chụp, sao chép các tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội
dung khiếu nại để vừa đảm bảo quyền của các bên, vừa đảm bảo thống nhất giữa
các cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp tài liệu cho người khiếu nại, của luật sư,
trợ giúp viên pháp lý;
- Quy định rõ trường hợp người giải quyết khiếu nại lần đầu đồng thời là người bị
khiếu nại thì không tổ chức đối thoại;
- Quy định bổ sung một số trường hợp cụ thể có thể xem xét tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ giải quyết khiếu nại cho phù hợp với thực tế;
- Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 75/2012/NĐ-CP theo hướng bổ sung quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp
luật, đảm bảo cho các quyết định này được thực hiện nghiêm túc, nâng cao tính
hiệu lực của các quyết định giải quyết khiếu nại.
Thứ hai: Giải pháp, kiến nghị về pháp luật tố cáo
Để khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật về tố cáo, đề nghị cần hoàn
thiện chế định này theo hướng:
- Hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với những cán bộ, công
chức đã nghỉ hưu hay được điều chuyển, bổ nhiệm vào những vị trí, chức vụ công
tác khác;
- Quy định về thời hiệu tố cáo hành vi vi phạm pháp luật (chưa phải là tội phạm)
trong lĩnh vực hành chính để phù hợp với pháp luật hình sự và Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính;
- Quy định cụ thể về những trường hợp nào thì việc tố cáo có thể gây nguy hại đến
tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm và trách
nhiệm phối hợp cụ thể để thực sự bảo vệ được người tố cáo;
- Nghiên cứu xem xét theo hướng công nhận đối với tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ
nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện và xử lý, đặc biệt
đối với những hành vi tham nhũng;
- Cần phải điều chỉnh mức khen thưởng đảm bảo khuyến khích người dân phát
hiện hành vi vi phạm pháp luật và báo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền;
- Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực
khiếu nại, tố cáo làm cơ sở đấu tranh, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực này, nhất là đối với các đối tượng lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo
để gây rối an ninh trật tự, xúc phạm cán bộ, công chức, ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Thứ ba: Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
luật khiếu nại và luật tố cáo cho cán bộ và nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành của các cấp trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; làm tốt chức năng quản lý
hành chính nhà nước về đất đai với mục đích giảm thiểu số lượng đơn thư khiếu
nại, tố cáo, góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội.
2. Kiến nghị cụ thể cho cơ quan.
Thứ nhất: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết cơ bản các vụ khiếu kiện đông
người, phức tạp, kéo dài, không để phát sinh thành điểm nóng; xem công tác kiểm
tra, rà soát, giải quyết các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài là nhiệm vụ thường
xuyên, phấn đấu đạt tỷ lệ giải quyết trên 90% đơn thư tồn đọng, kéo dài, nhằm góp
phần ổn định xã hội.
Thứ hai: Triển khai thực hiện Luật Tiếp công dân năm 2013 có hiệu lực từ
01/7/2014; Tổ chức mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao
trình độ, kỹ năng cho cán bộ làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và tham gia
giải quyết khiếu nại, tố cáo ở xã. Thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về khieu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trong cán bộ, nhân dân. Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án 1-1133 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về
khiếu nại, tố cáo cho nhân dân ở xã, phường, thị trấn. Từng bước triển khai thực
hiện hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên tiến hành các hoạt động kiểm tra, rà soát sổ sách
quản lý đơn thư, cần ghi chép sổ sách một cách chặt chẽ, đầy đủ thông tin và mang
tính khoa học cao, nhằm trách tình trạng thất lạc hoặc hư hỏng đơn thư khiếu nại,
tố cáo của người dân, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của họ.
Thứ ba: Cần có kế hoạch đề xuất với cấp trên trong việc tăng cường thêm đội ngũ
công chức tư pháp xã, nhằm tạo thêm nguồn nhân lực vững chắc , góp phần nâng
cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo tại xã.
Tập trung đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo bằng nhiều hình thức như: đào tạo tập trung, đào
tạo ngắn hạn, tại chức, tập huấn rút kinh nghiệm để không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, nắm bắt được những thông tin mới, bổ ích phục vụ công
tác giải quyết khiếu nại tố cáo.
Nhanh chóng hoàn thành tin học hóa lĩnh vực quản lý công tác tiếp dân và giải
quyết đơn thư khiếu nại tố cáo
Thứ tư: Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan đoàn thể trong xã trong công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác hòa giải tranh chấp, mâu thuẫn trong nội
bộ nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành đúng quy định của Luật
Khiếu nại, Luật Tố cáo.
Thứ năm: Cần hổ trở thêm nguồn kinh phí phù hợp cho công tác giải quyết khiếu
nai, tố cáo, cung cấp các thiết bị, dụng cụ hay các phương tiện đi lại cho các cán bộ
tư pháp, địa chính và các cán bộ khác, trong việc tham gia xác minh sự việc khiếu
nại. Ví dụ như để giải quyết một vụ việc về tranh chấp đất sản xuất thì cán bộ của
xã phải di chuyển đến lô đất đang bị tranh chấp để xác minh, đo đạc, nhưng vì địa
hình miền núi nên rất khó khăn trong việc di chuyển, do đó ủy ban nhân dân xã cần
có chính sách hổ trợ phù hợp cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ sáu: Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho công dân
trong xã dưới những hình thức khác nhau, đặc biệt là đến các thôn có nhiều đồng
bào dân tộc thiểu số. Nhằm giúp họ nâng cao nhận thức, hiểu biết hơn về pháp luật
để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật; hạn chế khiếu
kiện không đúng cơ quan thẩm quyền giải quyết, khiếu kiện đông người, vượt cấp
trái với quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và có ý thức hơn trong công tác
hòa giải, nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở xã Hướng Phùng.4
Với những kiến nghị đóng góp ở trên, em hy vọng có thể góp một phần nào vào
việc nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy ban nhân dân
xã Hướng Phùng trong thời gian tới.
C. KẾT LUẬN
Trong hệ thống các quyền của công dân thì quyền khiếu nại, tố cáo là quyền cơ
bản. Đây là phương tiện đảm bảo pháp lý quan trong của việc thực hiện và bảo vệ
các quyền, lợi ích của công dân, lợi ích của nhà nước và của xã hội, là nguồn thông
tin quan trọng về tình trạng pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính Nhà nước
với công dân
4 [1]
Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ giúp mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân sẽ trở nên mật thiết, củng cố lòng tin của nhân dân
vào Đảng và chính quyền. Người dân sẽ ủng hộ, hợp tác với cơ quan, tổ chức tốt
hơn trong các chương trình nghị sự của Đảng, Nhà nước; tham gia xây dựng và
hoàn chỉnh pháp luật. Vì vậy, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo là vấn đề cần được cả nước nói chúng và ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng nói
riêng đặc biệt coi trọng.
Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo giúp Đảng và Nhà nước
kiểm tra tính đúng đắn của các văn bản pháp luật , chính sách quản lý của Nhà
nước để điều chỉnh kịp thời, phù hợp trong công tác lãnh đạo đất nước, quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là
khẳng định lập trường chính trị “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
Xuất phát từ những yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Tiếp tục hoàn thiện về pháp luật khiếu nại, tố
cáo là vấn đề hết sức quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn trong giai đoạn hiện
nay nhằm xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng ngày
có nhiều chuyển biến tích cực,bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn tồn
tại những hạn chế nhất định. Mặc dù bài báo cáo vẫn còn nhiều thiếu sót nhưng với
những phân tích cũng như những kiến nghị đưa ra, em hi vọng có thể góp phần nào
vào việc nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ủy ban nhân dân
xã Hướng Phùng trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ SƯU TẦM.
1. Thanh tra chính phủ ( 2008), nghiệp vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
2. Uỷ ban nhân dân xã ( 2015) Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 2014
và kết quả giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri 6 tháng đầu năm 2014, Hướng
Phùng.
3. Uỷ ban nhân dân xã (2015) Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng – an
ninh năm 2015, phương hướng nhiệm vụ năm 2016, Hướng Phùng.
4. Uỷ ban nhân dân xã (2014) Biên bản hòa giải tranh chấp đất sản xuất tại thôn
Hướng Độ giữa hộ gia đình ông Trần Đức và đại diện thôn Hướng Độ là ông Hồ
Minh Phong, Hướng Phùng.
5. Uỷ ban nhân dân xã (2014) Biên bản hòa giải tranh chấp đất sản xuất tại thôn
Chênh Vênh giữa hộ gia đình ông Hồ Đengvà là ông HồTran, Hướng Phùng.
- Xem thêm -