nghiªn cøu - trao ®æi
TS. TrÇn th¸i d−¬ng *
T
rọng tài là một trong những phương
thức giải quyết tranh chấp kinh tế có ý
nghĩa quan trọng, nhất là trong nền kinh tế
thị trường. Tuy nhiên, so với các nước khác
ở khu vực và trên thế giới thì thể chế trọng
tài kinh tế Việt Nam lại có quá trình phát
triển mang tính đặc thù. Ngày 25/2/2003, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh trọng tài thương mại. Sự kiện này đánh
dấu mốc quan trọng, ghi nhận bước phát
triển mới của thể chế trọng tài trên lĩnh vực
kinh tế ở Việt Nam. Bài viết này đề cập các
bước phát triển chủ yếu của thể chế trọng tài
kinh tế Việt Nam qua các giai đoạn và những
điểm mới của nó với tư cách là thể chế về
trọng tài thương mại.
I. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
1. Trước năm 1960
Trước năm 1960, ở Việt Nam chưa có sự
phân định việc giải quyết tranh chấp kinh tế
và tranh chấp tài sản nói chung. Tuy nhiên,
từ năm 1956 cũng đã manh nha cơ chế giải
quyết riêng đối với tranh chấp kinh tế thông
qua việc Nhà nước ban hành Điều lệ tạm thời
số 735/Ttg ngày 10/4/1956 về hợp đồng kinh
doanh.
2. Từ năm 1960 - 1994
Đây là giai đoạn song song tồn tại hai hệ
thống trọng tài trên lĩnh vực kinh tế (đối nội
14
và đối ngoại) trong khi không có toà kinh tế.
2.1. Hệ thống trọng tài kinh tế nhà nước
Nghị định số 04/Ttg ngày 04/01/1960 đã
ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh
tế, từ đó ở Việt Nam bắt đầu hình thành hệ
thống trọng tài nhà nước về kinh tế. Thể chế
trọng tài kinh tế nhà nước được xác lập bởi
hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật
như Nghị định số 20/Ttg ngày 14/01/1960,
Nghị định số 94/CP ngày 10/6/1965, Nghị
định số 75/CP ngày 14/4/1975, Nghị định số
24/CP ngày 10/8/1984... Đến Pháp lệnh
trọng tài kinh tế nhà nước (được ban hành
ngày 10/01/1990) thì thể chế trọng tài kinh tế
nhà nước ở Việt Nam đã phát triển đến điểm
cực thịnh. Theo quy định tại Điều 2 Pháp
lệnh này thì trọng tài kinh tế nhà nước có
chức năng cơ bản là quản lí nhà nước về hợp
đồng kinh tế, thể hiện ở các nội dung chính
như giữ nghiêm kỉ luật hợp đồng kinh tế, xử
lí các hợp đồng kinh tế trái pháp luật; giải
quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế; xây
dựng pháp luật về hợp đồng kinh tế; tuyên
truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật về
hợp đồng kinh tế.
Như vậy, với sự phát triển của chế độ
hợp đồng kinh tế trong quá trình xây dựng
* Tr−êng ®¹i häc luËt Hµ Néi
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Việt
Nam, thể chế trọng tài kinh tế nhà nước có
thể được coi như là thể chế song hành với
chế độ hợp đồng kinh tế và đảm bảo cho chế
độ đó. Thực chất, đây là thể chế quản lí nhà
nước trên lĩnh vực hợp đồng kinh tế nhằm
thực thi quyền lực, mệnh lệnh của Nhà nước
thể hiện qua công cụ hợp đồng kinh tế. Xem
xét các chức năng, nhiệm vụ của trọng tài
kinh tế nhà nước có thể thấy việc giải quyết
các tranh chấp hợp đồng kinh tế chỉ là một
trong số các chức năng của nó. Nhưng chính
ngay trong chức năng này, tính chất trọng tài
với nghĩa đen của từ này cũng được thể hiện
rất đặc biệt, mang đậm tính quyền lực nhà
nước trên lĩnh vực kinh tế và giải quyết các
tranh chấp kinh tế. Điều này cũng do bản
chất của các tranh chấp về hợp đồng kinh tế
của thời kì này quyết định. Ở đây, không có
mâu thuẫn về lợi ích của các bên mà tất cả
đều là lợi ích của Nhà nước. Vì kí kết và
thực hiện hợp đồng kinh tế là nghĩa vụ của
các bên nên nếu có xung đột xảy ra thì chỉ là
sự xung đột về việc thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch của Nhà nước giao. Bởi thế, phán
quyết của trọng tài không được các bên đòi
thi hành do quyền lợi của các bên hầu như
không bị ảnh hưởng gì. Nói tóm lại, vai trò
chính của trọng tài kinh tế nhà nước trong
thời kì này là kiểm tra, đôn đốc và xử lí vi
phạm trong việc thực hiện chế độ hợp đồng
kinh tế - hình thức pháp lí đặc thù của nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Hoạt động
xét xử của trọng tài kinh tế nhà nước mang
đậm tính hành chính và lại thiếu cơ chế đảm
bảo thi hành các phán quyết. Trọng tài kinh
15
tế nhà nước chỉ có thể là sản phẩm đặc thù
của nền kinh tế kế hoạch tập trung và trong
điều kiện đó cũng không thể có cơ quan tài
phán kinh tế với tư cách là cơ quan tư pháp.
Thể chế trọng tài kinh tế nhà nước là sản
phẩm tất yếu và cần thiết cho nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung.
2.2. Hệ thống trọng tài phi chính phủ
Đó là Hội đồng trọng tài ngoại thương và
Hội đồng trọng tài hàng hải đặt bên cạnh
Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam. Hội đồng trọng tài ngoại thương được
thành lập và hoạt động trên cơ sở Nghị định
số 59/CP ngày 30/04/1963 của Hội đồng
Chính phủ còn Hội đồng trọng tài hàng hải
Việt Nam được thành lập và hoạt động trên
cơ sở Nghị định số 53/CP ngày 05/10/1984.
Các hội đồng trọng tài này ra đời xuất phát
từ nhu cầu trong thực tiễn quan hệ kinh tế
quốc tế. Thẩm quyền xét xử của Hội đồng
trọng tài hàng hải và Hội đồng trọng tài
ngoại thương là giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại
thương, thanh toán quốc tế, vận chuyển hàng
hoá quốc tế, hàng hải và bảo hiểm quốc tế.
Theo Quyết định số 204/Ttg ngày
28/04/1993 của Thủ tướng Chính phủ, hai tổ
chức trọng tài này đã được sáp nhập thành
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam đồng
thời cũng tại văn bản ấy, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Điều lệ của Trung tâm. Sau
đó, từ ngày 16/02/1996 Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam lại được mở rộng thêm
thẩm quyền xét xử đối với các tranh chấp
kinh tế trong nước bằng Quyết định số
114/Ttg của Thủ tướng Chính phủ.
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là
tổ chức phi chính phủ (tổ chức xã hội - nghề
nghiệp) được đặt bên cạnh Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam. Trung tâm có
tính độc lập và không thuộc cơ cấu tổ chức
của Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam. Tính “bên cạnh” ở đây một phần thể
hiện sự quản lí nhưng chủ yếu thể hiện tính
độc lập về mặt chuyên môn nghiệp vụ của tổ
chức trọng tài này. Điều 2 Điều lệ tổ chức
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam quy
định: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như các
hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp
đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm
quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và
thanh toán quốc tế v.v..
Với cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của
hai hệ thống trọng tài kinh tế (chính phủ và
phi chính phủ) của Việt Nam ở thời kì này
như trên cho thấy:
- Thời kì này ở Việt Nam có sự phân biệt
kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, thể hiện
trong việc xác lập hai hệ thống trọng tài với
phạm vi thẩm quyền khác nhau;
- Đối với các tranh chấp quan hệ kinh tế
trong nước (đối nội) thì được giải quyết bằng
trọng tài kinh tế nhà nước còn đối với tranh
chấp kinh tế quốc tế thì được giải quyết bằng
trọng tài kinh tế phi chính phủ (nếu có sự
thoả thuận của các bên hay sự ràng buộc của
điều ước quốc tế).
Thể chế trọng tài kinh tế của Việt Nam ở
thời kì này do bản chất của nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quy định. Các quan hệ
16
kinh tế đối nội mang tính xã hội chủ nghĩa
(quốc doanh và tập thể) được điều khiển từ
trung tâm duy nhất là Chính phủ nên trọng
tài phải là trọng tài nhà nước với chức năng
chủ yếu là duy trì kỉ luật hợp đồng của nền
kinh tế đó. Các quan hệ kinh tế đối ngoại
không thuần nhất là quan hệ kinh tế xã hội
chủ nghĩa nên cần có tổ chức trọng tài phi
chính phủ để giải quyết các tranh chấp kinh
tế theo sự thoả thuận của các bên. Nếu so
sánh hai loại tổ chức trọng tài ấy thì có thể
thấy tính chất “trọng tài” của Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam được thể hiện rõ
rệt hơn. Trọng tài kinh tế nhà nước không
phải là tổ chức trọng tài theo đúng nghĩa mà
thực chất là cơ quan quản lí hành chính kinh
tế của Nhà nước.
3. Từ năm 1994 - nay
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, thể chế trọng tài kinh tế nhà
nước không còn phù hợp. Với việc ban hành
Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức toà án nhân
dân, từ ngày 1/7/1994 toà kinh tế đã được
thành lập trong hệ thống toà án nhân dân,
chấm dứt sự tồn tại của trọng tài kinh tế nhà
nước. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ nhu cấu
tất yếu của nền kinh tế thị trường, lúc này
bên cạnh Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam, Nhà nước còn cho phép thành lập các
trung tâm trọng tài kinh tế ở các tỉnh, thành
phố thuộc trung ương.
Như vậy, trong giai đoạn đầu khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường, ở Việt Nam có
hai hệ thống trọng tài phi chính phủ trên lĩnh
vực kinh tế. Đây chính là điểm đặc thù của
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trung tâm trọng tài kinh tế tại các tỉnh,
thành phố thuộc trung ương có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh
tế, tranh chấp giữa công ti với các thành viên
công ti, giữa các thành viên công ti với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể công ti, các tranh chấp liên quan đến việc
mua bán cổ phiếu, trái phiếu (Điều 1 Nghị
định số 116/CP ngày 5/9/1994 về tổ chức và
hoạt động của trọng tài kinh tế). Thông tư số
02 - PL/DSKT ngày 3/1/1995 của Bộ tư
pháp hướng dẫn thi hành một số điểm của
Nghị định này khẳng định trọng tài kinh tế
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau
đây mà không phụ thuộc vào quốc tịch của
các bên tranh chấp:
- Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa
pháp nhân với nhau, giữa pháp nhân với
doanh nghiệp tư nhân; giữa doanh nghiệp tư
nhân với nhau và giữa pháp nhân, doanh
nghiệp tư nhân với cá nhân có đăng kí kinh
doanh;
- Tranh chấp giữa công ti với các thành
viên công ti, giữa các thành viên công ti với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động
và giải thể công ti như tranh chấp đòi rút vốn
ra khỏi công ti, phân chia lỗ, lãi, nhập, tách,
giải thể công ti, tranh chấp về quyền, nghĩa
vụ của thành viên công ti;
- Tranh chấp liên quan đến việc mua bán
cổ phiếu, trái phiếu.
Do vậy, từ ngày 1/7/1994 ở Việt Nam có
hai hệ thống tài phán kinh tế là toà án và
trọng tài phi chính phủ. Đối tượng xét xử
17
được mở rộng hơn nhiều so với trọng tài
kinh tế nhà nước dưới thời kinh tế kế hoạch
hoá tập trung. Trọng tài kinh tế lúc này đã
thể hiện tính phi nhà nước, theo đó thẩm
quyền của nó cũng được mở rộng ra nhiều
loại tranh chấp khác nhau trên lĩnh vực kinh
tế. Tình hình đó đáp ứng những đòi hỏi của
nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, trong nền kinh
tế thị trường, việc giải quyết các tranh chấp
kinh tế không chỉ là chức năng thuộc về Nhà
nước mà còn là chức năng của xã hội. Sự
phân định các chức năng đó giữa nhà nước
và xã hội đã được thể hiện bước đầu, Nhà
nước không còn giữ độc quyền giải quyết
tranh chấp kinh tế và điều đó cho thấy
nguyên tắc tự do kinh doanh, tự định đoạt
trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã được thiết lập trên cơ sở dân chủ
hoá hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế
đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập quốc
tế. Điều này chứng tỏ nguyên tắc xác định
phạm vi quyền lực nhà nước trong nền kinh
tế thị trường khác với nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung trước đây. Việc giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng con đường toà án và
con đường trọng tài được đặt trong mối quan
hệ bổ sung, hỗ trợ nhau. Mỗi con đường đều
có những mặt mạnh yếu khác nhau và nền
kinh tế thị trường tạo điều kiện khách quan
để các cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế
có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau.
Tuy nhiên, cho đến trước khi Pháp lệnh
trọng tài thương mại có hiệu lực (1/7/2003)
thì thể chế trọng tài kinh tế Việt Nam tồn tại
một số điểm bất hợp lí sau:
- Có hai loại trọng tài là trọng tài kinh tế
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
trong nước và trọng tài quốc tế với nguyên
tắc hoạt động và thẩm quyền không khác
nhau nhưng lại có hai cơ sở pháp luật khác
nhau;
- Thể chế trọng tài kinh tế Việt Nam vẫn
chưa xác định cơ chế đảm bảo thi hành quyết
định trọng tài. Cùng với những bất cập khác
trong hệ thống pháp luật kinh tế nói chung,
thể chế trọng tài hiện hành cũng là một trong
những trở ngại cho quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và thu hút đầu tư. Vì thế, yêu cầu
đặt ra có tính cấp thiết là phải hoàn thiện
pháp luật về trọng tài kinh tế, thống nhất
điều chỉnh bằng văn bản có hiệu lực pháp lí
mạnh.
4. Pháp lệnh trọng tài thương mại bước phát triển mới của thể chế trọng tài
kinh tế Việt Nam
Từ ngày 1/7/2003, trọng tài trên lĩnh vực
kinh tế ở Việt Nam không còn tên cũ nữa mà
được gọi là trọng tài thương mại. Điều này
không chỉ đơn thuần là sự đổi tên mà có sự
đổi mới quan trọng theo xu hướng hội nhập
quốc tế, qua đó ghi nhận bước tiến mới của
pháp luật về trọng tài ở Việt Nam. Cũng từ
ngày 1/7/2003, Nghị định số 116/CP, Quyết
định số 204/Ttg, Quyết định số 114/Ttg sẽ
chấm dứt hiệu lực. Ba văn bản quy phạm
pháp luật trên đã từng là cơ sở pháp lí về tổ
chức và hoạt động của hai loại trọng tài kinh
tế đối nội và đối ngoại của Việt Nam trong
thời kì đầu chuyển sang nền kinh tế thị
trường đinh hướng XHCN.
Pháp lệnh trọng tài thương mại gồm 8
chương với 63 điều quy định khá toàn diện,
đầy đủ các vấn đề về tổ chức và hoạt động
18
trọng tài thương mại.
II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA PHÁP
LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
So với các quy định hiện hành, Pháp
lệnh trọng tài thương mại có những điểm
mới chủ yếu sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh
Các tổ chức trọng tài trước đây được gọi
là trọng tài kinh tế và trọng tài quốc tế. Pháp
lệnh trọng tài thương mại (sau đây gọi tắt là
Pháp lệnh) thống nhất điều chỉnh về tổ chức
và hoạt động của hai tổ chức trọng tài ấy và
gọi chung là trọng tài thương mại. Tuy
nhiên, những khái niệm “kinh tế”, “kinh
doanh”, “thương mại” ở Việt Nam hiện nay
còn đang được sử dụng với những nội hàm
và ý nghĩa khác nhau. Điều này cũng là điểm
bất cập lớn cho quá trình hội nhập và thu hút
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Khoản 3
Điều 2 Pháp lệnh đã định nghĩa khái niệm
hoạt động thương mại là: “việc thực hiện một
hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân,
tổ chức kinh doanh, bao gồm việc mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại
diện, đại lí thương mại; kí gửi, thuê, cho
thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn; kĩ thuật;
li-xăng; đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng
hoá, hành khách bằng đường hàng không,
đường biển, đường sắt, đường bộ và các
hành vi thương mại khác theo quy định của
pháp luật.” Như vậy, Pháp lệnh quan niệm
hoạt động thương mại là việc thực hiện
hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức
kinh doanh (khái niệm thương mại theo
nghĩa rộng).
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
2. Về thẩm quyền của trọng tài thương mại
Pháp lệnh tiếp tục khẳng định các quy
định về thẩm quyền của trọng tài kinh tế,
trọng tài quốc tế trước đây. Điểm mới là
Pháp lệnh đã quy định thành tổ chức trọng
tài duy nhất, không phân biệt tranh chấp
trong nước hay có yếu tố nước ngoài để
thành lập các tổ chức trọng tài riêng.
Khía cạnh thứ hai về thẩm quyền của
trọng tài là trọng tài không có thẩm quyền
đương nhiên mà chỉ có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp khi các bên thoả thuận chọn
trọng tài hoặc có sự ràng buộc của điều ước
quốc tế mà Việt Nam kí kết hay tham gia
quy định các bên đương sự phải đưa vụ việc
tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài. Các quy
định trên thể hiện đúng bản chất của trọng
tài với tư cách là tổ chức xã hội - nghề
nghiệp hoạt động tài phán về thương mại.
Điều này khác toà án với tư cách là cơ quan
tài phán thương mại đương nhiên có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật, thể hiện
tính quyền lực nhà nước trong hoạt động của
nó. Điều này cũng được Pháp lệnh quy định
thành nguyên tắc: “Tranh chấp được giải
quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi
xảy ra vụ tranh chấp, các bên có thoả thuận
trọng tài” (khoản 1 Điều 3).
Về thoả thuận trọng tài, các văn bản
pháp luật trước đây chỉ quy định một cách
khái quát là các bên có quyền thoả thuận
bằng văn bản đưa vụ việc tranh chấp ra trước
trọng tài để giải quyết. Điểm mới về vấn đề
này là Pháp lệnh đã quy định thoả thuận
trọng tài thành chương riêng (chương 2) một
cách đầy đủ và hoàn chỉnh hơn, giải quyết
19
hầu hết các vấn đề điều chỉnh về thoả thuận
trọng tài như hình thức của thoả thuận trọng
tài, thoả thuận trọng tài vô hiệu, quan hệ
giữa điều khoản trọng tài với hợp đồng. Đối
với hình thức thoả thuận trọng tài, Pháp lệnh
tiếp tục quy định thoả thuận trọng tài phải
được lập thành văn bản và cũng xác định rõ
phạm vi khái niệm văn bản phù hợp với sự
phát triển của khoa học công nghệ hiện đại.
Ngoài hình thức văn bản truyền thống, thoả
thuận trọng tài thông qua thư, điện báo,
telex, fax, thư điện tử hoặc bằng hình thức
văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên
giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài đều
được coi là thoả thuận bằng văn bản. Điều
khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc thoả
thuận riêng là hình thức pháp lí của thoả
thuận trọng tài, theo đó Pháp lệnh đưa ra
nguyên tắc: “Điều khoản trọng tài tồn tại
độc lập với hợp đồng, việc thay đổi, gia hạn,
huỷ bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều
khoản trọng tài”. Sở dĩ có điều này là vì
điều khoản trọng tài chỉ vô hiệu trong các
trường hợp cụ thể do luật định, không phụ
thuộc vào nội dung hay hiệu lực của hợp
đồng. Đây là thông lệ quốc tế trong pháp luật
về trọng tài thương mại nhưng lại chưa từng
được quy định thành nguyên tắc trong pháp
luật trọng tài Việt Nam.
Về thoả thuận trọng tài vô hiệu, Pháp
lệnh quy định 6 trường hợp cụ thể thoả thuận
trọng tài không có hiệu lực:
- Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt
động thương mại;
- Người kí thoả thuận trọng tài không có
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
thẩm quyền kí kết theo quy định của pháp
luật;
- Một bên kí thoả thuận trọng tài không
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc
quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ
chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ
tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả
thuận bổ sung;
- Thoả thuận trọng tài không được lập
theo đúng hình thức quy định, tức là không
được lập thành văn bản;
- Bên kí kết thoả thuận trọng tài bị lừa
dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả
thuận trọng tài vô hiệu.
3. Cơ chế hỗ trợ và giám sát của cơ
quan tư pháp đối với tố tụng trọng tài
Đây là điểm mới quan trọng nhất của
Pháp lệnh cũng là thông lệ pháp luật ở các
nước phù hợp với Luật mẫu của UNCITRAL
về trọng tài thương mại. Điều này thể hiện ở
các nội dung sau:
3.1. Vai trò của toà án
+ Thành lập hội đồng trọng tài
Khoản 1 Điều 26 Pháp lệnh quy định:
“Trong trường hợp các bên không có thoả
thuận khác thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn thì
bị đơn phải chọn trọng tài viên và thông báo
cho nguyên đơn biết. Hết thời hạn này, nếu
bị đơn không thông báo cho nguyên đơn
trọng tài viên mà mình chọn thì nguyên đơn
có quyền yêu cầu toà án tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nơi bị đơn có trụ sở hoặc
cư trú chỉ định trọng tài viên cho bị đơn.”
- Đối với vụ tranh chấp có một bị đơn thì
20
trong thời hạn 7 ngày làm việc, toà án chỉ
định trọng tài viên cho bị đơn và thông báo
cho các bên.
- Đối với vụ tranh chấp có nhiều bị đơn,
trong 30 ngày, các bị đơn không chọn được
trọng tài viên thì nguyên đơn yêu cầu toà án
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi bị
đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài
viên cho các bị đơn. Trong thời hạn 7 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu,
toà án chỉ định trọng tài viên theo yêu cầu
của nguyên đơn và thông báo cho các bên.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được yêu cầu, toà án sẽ chỉ định
trọng tài viên thứ ba làm chủ tịch hội đồng
trọng tài nếu qua thời hạn 15 ngày kể từ
ngày hai trọng tài viên được lựa chọn hoặc
toà án chỉ định không chọn được trọng tài
viên thứ ba.
- Khi các bên đã thoả thuận vụ tranh
chấp do trọng tài viên duy nhất giải quyết
nhưng lại không chọn được trọng tài viên đó
thì theo yêu cầu của một bên, trong thời hạn
15 ngày toà án chỉ định trọng tài viên duy
nhất kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông
báo cho các bên.
+ Thay đổi trọng tài viên
Các bên có quyền yêu cầu thay đổỉ trọng
trọng tài viên và trọng tài viên phải từ chối
giải quyết vụ tranh chấp trong các trường
hợp do pháp luật quy định. Việc thay đổi
trọng tài viên do các trọng tài viên khác
trong hội đồng trọng tài quyết định. Trong
trường hợp không quyết định được hoặc nếu
cả hai trọng tài viên hay trọng tài viên duy
nhất từ chối giải quyết vụ tranh chấp thì đối
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
với vụ tranh chấp do hội đồng trọng tài được
các bên thành lập giải quyết, theo yêu cầu
của nguyên đơn, toà án tỉnh nơi bị đơn có trụ
sở hay cư trú quyết định và quyết định này là
chung thẩm (điểm b khoản 4 Điều 27 Pháp
lệnh).
+ Xem xét thoả thuận trọng tài, thẩm
quyền giải quyết vụ tranh chấp của hội đồng
trọng tài
Thông thường, trước khi xem xét nội
dung vụ tranh chấp, nếu có đơn khiếu nại
của một bên về việc hội đồng trọng tài
không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh
chấp; vụ tranh chấp không có thoả thuận
trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu thì
hội đồng trọng tài phải xem xét với sự có
mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có
yêu cầu khác. Pháp lệnh quy định nếu các
bên không đồng ý với quyết định của hội
đồng trọng tài thì trong thời hạn 5 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được quyết định của
hội đồng trọng tài, các bên có quyền yêu cầu
toà án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra
quyết định xem xét lại quyết định của trọng
tài. Pháp lệnh cũng quy định theo sự uỷ
quyền của chánh án toà án, thẩm phán xem
xét, quyết định trong thời hạn 5 ngày, quyết
định của toà án là chung thẩm. Hậu quả của
việc toà án quyết định vụ tranh chấp không
thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài là
hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình
chỉ vụ giải quyết tranh chấp.
+ Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong thủ tục tố tụng trọng tài, các biện
pháp khẩn cấp tạm thời giữ vị trí vai trò rất
quan trọng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
21
pháp của các bên đang có nguy cơ trực tiếp
bị xâm hại, Pháp lệnh quy định các bên có
quyền làm đơn đến toà án yêu cầu áp dụng
một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như:
- Bảo toàn chứng cứ (trong trường hợp
chứng cứ đang bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ
bị tiêu huỷ);
- Kê biên tài sản tranh chấp;
- Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
- Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi cất
giữ;
- Phong toả tài khoản tại ngân hàng.
Toà án có thẩm quyền ở đây là toà án
cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài đã thụ lí vụ
việc tranh chấp. Pháp lệnh quy định tuỳ theo
yêu cầu của loại biện pháp khẩn cấp tạm thời
mà bên yêu cầu phải cung cấp cho toà án
những bằng chứng cụ thể về các chứng cứ
cần được bảo toàn, các chứng cứ về việc bị
đơn tẩu tán, cất giấu tài sản có thể làm cho
việc thi hành quyết định của trọng tài không
thể thực hiện được. Trong thời hạn 5 ngày
làm việc, kể từ ngày được chánh án giao
nhiệm vụ, thẩm phán toà án phải kiểm tra
tính chính xác của những tài liệu theo quy
định tại khoản 2 Điều 34 Pháp lệnh, trong
phạm vi yêu cầu của nguyên đơn, có thể ra
quyết định áp dụng một hoặc một số biện
pháp khẩn cấp tạm thời trên. Theo quy định
của pháp luật, biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải được thi hành ngay. Cùng với việc quy
định vai trò của toà án trong việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, Pháp lệnh cũng
quy định toà án có quyền thay đổi hoặc huỷ bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
+ Lưu trữ hồ sơ trọng tài
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
Theo quy tại khoản 2 Điều 48 Pháp lệnh
thì đối với việc giải quyết vụ tranh chấp tại
hội đồng trọng tài do các bên thành lập trong
thời hạn 15 ngày công bố quyết định trọng
tài hoặc biên bản hoà giải, hội đồng trọng tài
phải gửi quyết định trọng tài, biên bản hoà
giải kèm theo hồ sơ giải quyết vụ tranh chấp
cho toà án tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra
quyết định trọng tài hoặc lập biên bản hoà
giải để lưu trữ.
+ Huỷ quyết định của trọng tài
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định trọng tài, nếu có bên không
đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền
làm đơn gửi toà án cấp tỉnh nơi hội đồng
trọng tài ra quyết định trọng tài để yêu cầu
huỷ quyết định trọng tài.
Khoản 2 Điều 53 Pháp lệnh quy định
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lí,
chánh án toà án phải chỉ định hội đồng xét
xử gồm 3 thẩm phán, trong đó có một thẩm
phán làm chủ toạ và phải mở phiên toà để
xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
Hội đồng xét xử không xét xử nội dung tranh
chấp mà chỉ kiểm tra các giấy tờ, thủ tục, đối
chiếu quyết định trọng tài với các quy định
của pháp luật để ra quyết định. Hội đồng
trọng tài có quyền huỷ hoặc không huỷ quyết
đinh trọng tài, đình chỉ việc xét đơn yêu cầu
nếu người nộp đơn rút đơn hoặc đã triệu tập
hợp lệ mà vẫn vắng mặt không có lí do chính
đáng hoặc bỏ phiên toà mà không được hội
đồng xét xử đồng ý. Toà án có quyền huỷ
quyết định trọng tài trong các trường hợp:
- Không có thoả thuận trọng tài;
- Thoả thuận trọng tài vô hiệu;
22
- Thành phần hội đồng trọng tài, tố tụng
trọng tài không phù hợp với thoả thuận của
các bên theo quy định của Pháp lệnh;
- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền
của hội đồng trọng tài; trong trường hợp quyết
định trọng tài có một phần không thuộc thẩm
quyền của hội đồng trọng tài thì phần đó bị huỷ;
- Trong quá trình giải quyết vụ tranh
chấp, có trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của
trọng tài viên;
- Quyết định trọng tài trái với lợi ích công
cộng của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Cần chú ý là toà án ra quyết định huỷ
quyết định trọng tài khi bên yêu cầu chứng
minh được hội đồng trọng tài đã ra quyết
định trọng tài thuộc một trong các trường
hợp nêu trên. Pháp lệnh còn quy định quyền
kháng cáo, kháng nghị quyết định của toà án
và trách nhiệm xét kháng cáo, kháng nghị
của toà án. Khoản 1 Điều 56 Pháp lệnh quy
định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ kháng cáo hoặc quyết định kháng
nghị, Toà án nhân dân tối cao phải mở phiên
toà xem xét quyết định. Hội đồng xét xử có
quyền giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn
bộ quyết định của toà án cấp sơ thẩm; đình
chỉ việc xét kháng cáo trong các trường hợp
cụ thể do pháp luật quy định. Quyết định này
là quyết định cuối cùng có hiệu lực thi hành.
3.2. Vai trò của viện kiểm sát
Với tư cách là cơ quan kiểm sát hoạt động
tư pháp, viện kiểm sát nhân dân cũng đóng vai
trò nhất định trong tố tụng trọng tài như:
- Viện kiểm sát có quyền kiểm sát từ
khâu yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Khoản 5 Điều 34 Pháp lệnh
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
nghiªn cøu - trao ®æi
quy định: “Quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời phải được gửi ngay cho
hội đồng trọng tài, các bên tranh chấp và
viện kiểm sát cùng cấp”. Pháp lệnh cũng quy
định viện kiểm sát có quyền kiến nghị toà án
đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời xem xét việc thay đổi, huỷ bỏ hoặc
giữ nguyên các biện pháp ấy.
- Viện kiểm sát có quyền tham gia xét
đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài của toà
án từ khâu thụ lí đơn. Toà án phải thông báo
cho viện kiểm sát cùng cấp biết việc thụ lí
đơn, phải chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát
cùng cấp trong thời hạn 7 ngày làm việc
trước thời hạn mở phiên toà. Đại diện viện
kiểm sát có quyền tham gia phiên toà, được
quyền phát biểu ý kiến trước hội đồng xét
xử. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị
quyết định của toà án, được tham gia phiên
toà xét kháng cáo, kháng nghị và được
quyền phát biểu ý kiến.
Pháp lệnh quy định vai trò, thẩm quyền của
viện kiểm sát nêu trên nhằm đảm bảo sự tuân thủ
pháp luật của hoạt động tư pháp khi hoạt động
hỗ trợ trọng tài, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên và trật tự pháp luật chung.
3.3. Vai trò của cơ quan thi hành án
Pháp lệnh khẳng định vai trò của cơ quan
thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú
hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành.
Sau 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn thi hành
quyết định trọng tài, nếu một bên không tự
nguyện thi hành cũng không yêu cầu huỷ bỏ
theo quy định, bên được thi hành quyết định
trọng tài có quyền làm đơn gửi cơ quan thi
hành án nêu trên thi hành quyết định trọng tài.
Nhìn chung, với những điểm mới cơ bản
nêu trên, thể chế trọng tài thương mại Việt
23
Nam đã tương thích với thể chế này của các
nước ở những khía cạnh sau:
- Khái niệm tranh chấp trong hoạt động
thương mại;
- Hiệu lực của quyết định trọng tài;
- Vai trò của cơ quan tư pháp đối với việc
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời,
thành lập hội đồng trọng tài, huỷ quyết định
trọng tài và thi hành quyết định trọng tài.
Trọng tài thương mại Việt Nam theo
Pháp lệnh mới được ban hành là tổ chức xã
hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp trong hoạt động thương mại
trên cơ sở thoả thuận của các bên, không kể
tranh chấp trong nước hay tranh chấp quốc
tế. So với phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng toà án thì phương thức
trọng tài có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, cũng
theo thông lệ quốc tế, hoạt động của trọng tài
thương mại phải được sự hỗ trợ, giám sát và
đảm bảo từ phía các cơ quan tư pháp.
Trên con đường phát triển và hội nhập,
trọng tài trên lĩnh vực kinh tế của Việt Nam
đang ngày càng đảm bảo tốt hơn cho quyền
tự do kinh doanh và tạo môi trường đầu tư
thuận lợi. Sự ra đời của Pháp lệnh trọng tài
thương mại Việt Nam là bước phát triển mới
rất quan trọng của thể chế trọng tài, ghi nhận
cơ chế xã hội hoá việc giải quyết tranh chấp
thương mại trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Thể chế trọng tài thương mại
đã được gắn kết và đảm bảo bởi thể chế tư
pháp. Vấn đề đặt ra là các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cần sớm ra các văn bản quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành để Pháp
lệnh có thể nhanh chóng đi vào đời sống
thương mại góp phần thực hiện các cam kết
về hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay./.
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2003
- Xem thêm -