TIỂU LUẬN:
ĐỌC "DI CHÚC" HỒ CHÍ MINH NGHĨ VỀ
TÌNH CẢM CỦA NGƯỜI VÀ VỀ GIÁO DỤC
TÌNH CẢM ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY
Khẳng định giá trị và ý nghĩa của Di chúc Hồ Chí Minh không chỉ ở phạm vi bao
quát, tầm nhìn sâu rộng về các vấn đề của cách mạng, mà còn ở tình cảm, tấm lòng
nhân ái của Người, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải nhận thức sâu
sắc của Hồ Chí Minh về vai trò của tình cảm đối với ý nghĩa cuộc sống con người,
với sự hình thành và củng cố những phẩm chất, các đức tính của nhân cách con
người, tạo nên sự sáng suốt và niềm tin cho con người. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa
ra những suy nghĩ của mình về giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử vô giá. Với những lời căn
dặn cuối cùng ngắn gọn và súc tích, Người đã khẳng định thắng lợi tất yếu của sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng,
vạch ra những định hướng cũng như những “việc cần phải làm trước tiên” đối với sự
nghiệp xây dựng đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, giá trị
và ý nghĩa của Di chúc không chỉ ở phạm vi bao quát, tầm nhìn sâu rộng về các vấn
đề của cách mạng, mà còn ở tình cảm, tấm lòng nhân ái vô biên của Người.
Toát lên từ những lời căn dặn trong Di chúc là tấm lòng của một con người hết lòng
yêu người, “hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân”(1); một con người mà trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng vẫn “tiếc là tiếc rằng
không phục vụ được lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”, vẫn không quên “để lại muôn vàn
tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên
và nhi đồng”(2). Sức nặng của tình thân yêu đó không phải ở lời nói, câu chữ, mà ở
chính sự quan tâm sâu sắc và cụ thể của Người đối với Đảng và các tầng lớp nhân
dân. Đối với Đảng, Người chú ý đến vai trò lãnh đạo, cầm quyền; vì thế, Người đòi
hỏi phải phát huy truyền thống đoàn kết, phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, “phải
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Đối với thanh niên, Người quan tâm tới vai
trò và sự trưởng thành của họ; do đó, cần đào tạo họ trở thành người kế thừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Đối với nhân dân lao động, Người
đánh giá cao những đóng góp, thấu hiểu những khó khăn và yêu cầu “phải có kế
hoạchthật tốt” để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Đối với những
người đã hy sinh một phần xương máu cho đất nước, cần phải tạo điều kiện để họ có
thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ cần phải ghi ơn và giáo dục tinh
thần yêu nước cho các thế hệ sau thông qua sự ghi ơn đó… Hồ Chí Minh không quên
đối tượng hoặc tầng lớp nào; ngay cả với những nạn nhân của chế độ cũ, Người cũng
căn dặn phải “cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Sở dĩ Hồ Chí Minh giàu lòng nhân ái, quan tâm sâu sắc tới mọi tầng lớp nhân dân là
bởi, Người đã ý thức được một cách sâu sắc vai trò của tình cảm đối với ý nghĩa
cuộc sống con người. Đối với Hồ Chí Minh, ở đời, làm người là phải có tình cảm.
“Con người dù là xấu, là tốt, văn minh hay dã man đều có tình cảm”(3). “Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”(4). Thiện ở trong lòng
tức là thiện tâm, lòng yêu thương con người. Xưa kia, Mạnh Tử đã từng nhận thấy,
những phẩm chất, nhân cách của con người: nhân, nghĩa, lễ, trí (tứ đức) là sự mở
rộng, sự phát triển đầy đủ của bốn đầu mối: trắc ẩn, tu ố, từ nhượng, thị phi (tứ
đoan). Nhânvới tư cách phẩm chất, đức tính đầu tiên và quan trọng nhất của con
người chính là kết quả của sự phát triển lòngtrắc ẩn, tức là tình cảm, lòng yêu
thương con người. Tuy nhiên, đối với Mạnh Tử, tình yêu thương con người được
nhìn nhận như một năng lực trừu tượng, chung chung. Hồ Chí Minh yêu thương con
người với một tấm lòng nhân ái bao la, nhưng đó không phải là lòng nhân ái của
thánh nhân, hay của người trên đối với kẻ dưới, mà là lòng nhân ái, tình yêu thương
của con người đối với con người một cách rất cụ thể. Ngay từ thuở thiếu thời, Người
“đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào”(5). Đó là cảnh
thống khổ của những người cùng cảnh ngộ mất nước, trong đó có Hồ Chí Minh. Từ
một tình cảm được trải nghiệm chân thực và cụ thể như vậy, Hồ Chí Minh đã mở
rộng tình yêu thương của mình đến những người bị áp bức, bóc lột thuộc các dân tộc
khác, đến nhân loại nói chung. Người đã khóc khi đọc báo biết một nhà yêu nước
Ailen tuyệt thực đến chết. Người cũng không cầm nổi nước mắt khi chứng kiến cảnh
thực dân Pháp tại cảng Đaca bắt người lao động da đen nhảy xuống biển và bị biển
nhấn chìm. Lịch sử từng chứng kiến nhiều bậc quân vương thấy một người khốn khổ
thì động lòng đau xót, nhưng lại sẵn sàng tuyên chiến vì những lý do không đáng
tuyên chiến. Trong trường hợp như vậy, họ không có năng lực mở rộng lòng yêu
thương của mình đến các dân tộc khác, thậm chí máu của tướng, sĩ đồng bào mình
cũng chẳng đáng để họ bận tâm. Nhưng, đối với Hồ Chí Minh, “trước lòng bác ái, thì
máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là
người”(6). Lịch sử cũng từng chứng kiến những trận chiến, như Xích bích, Oatéclô,
Trân châu cảng… được xem là đại thắng và ngoạn mục từ phía này, nhưng lại là
thảm bại và bi kịch từ phía kia. Từ đó, có thể thấy, Hồ Chí Minh thật là nhân ái khi
cho rằng, không có trận đánh nào đẫm máu mà đẹp, cho dầu đó là trận thắng lớn.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tình cảm, lòng yêu thương con người không chỉ
là khởi nguồn của nhân cách, là giá trị, ý nghĩa cuộc sống con người; tình cảm, lòng
yêu thương còn có vai trò to lớn trong sự hình thành và củng cố những phẩm chất,
các đức tính của nhân cách con người. Người từng viết: “Lòng mình chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chí công vô tư. Mình đã chí công
vô tư, thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những đức tính tốt như sau, ngày càng
thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”(7). Như
vậy, sự hình thành các đức tính của nhân cách con người không phải chỉ thông qua
con đường lý tính, bằng việc học thuộc các yêu cầu, những chuẩn mực xã hội, hoặc
những nguyên lý lý luận. Những yêu cầu, những chuẩn mực, những nguyên lý đó
còn là những giá trị; mà giá trị thì sự lĩnh hội chúng bao hàm cả sự lựa chọn dựa trên
tình cảm của con người. Ý thức rất rõ điều đó, Người nhấn mạnh: “Hiểu chủ nghĩa
Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà
sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác được”(8).
Từ chỗ thấy ý nghĩa của tình cảm đối với sự hình thành nhân cách, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến vai trò, sức mạnh của việc nêu gương đối với giáo dục nhân cách
con người. Người nhận thấy sức mạnh này ngay trong truyền thống giàu tình cảm,
trọng tình cảm của các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam. Người viết:
“Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(9). Người cũng
thấy sức mạnh này qua tấm gương V.I.Lênin - hiện thân của tình anh em bốn bể.
Người cho rằng, chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư
trong sáng, nếp sống giản dị…, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của Lênin đã ảnh
hưởng lớn lao đến các dân tộc châu Á khiến cho trái tim họ hướng về Người không
gì ngăn cản nổi. Vì vậy, “Lênin đã đào tạo ra những chiến sĩ cách mạng khắp thế giới
chẳng những bằng lý luận cách mạng khoa học nhất, mà còn bằng đạo đức cách
mạng cao cả nhất”(10).
Quán triệt tinh thần ấy, Hồ Chí Minh khẳng định, “lấy gương người tốt việc tốt để
hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng,
xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(11).
Đồng thời, trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn là một tấm gương
sống động về rèn luyện nhân cách phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, tình cảm, lòng nhân ái không chỉ là nhân tố làm nên ý nghĩa
cuộc sống con người, là điều không thể thiếu được đối với con người như là con
người có nhân cách; tình cảm, lòng nhân ái còn góp phần tạo nên sự sáng suốt và
niềm tin cho con người. Đây chính là sự kế thừa một truyền thống văn hoá phương
Đông mà theo đó, khi cái tâm trong sáng thì người ta nhìn đời trong sáng, thấy được
phải trái, tốt xấu. Chính vì có cái tâm trong sáng, vì yêu thương con người, vì khát
vọng giải phóng đồng bào và Tổ quốc mà Hồ Chí Minh bôn ba tìm đường cứu nước.
Như chính Người bộc bạch, “lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là
chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(12). Như vậy,
tình cảm, lòng yêu nước cháy bỏng đã mách bảoNgười con đường đến với chân lý,
đến với chủ nghĩa Lênin. Cũng chính vì lòng yêu nước, thương dân mà Hồ Chí Minh
đã có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của nhân dân, tiền đồ của dân tộc. Ngay từ
năm 1921, trong tình thế rất khó khăn, Người vẫn tin rằng, “Người Đông Dương
không chết, người Đông Dương vẫn đang sống, sống mãi mãi... Đằng sau sự phục
tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, gào thét và sẽ bùng
nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”(13). Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
của mình, Người luôn tin tưởng vào sức mạnh, tính chủ động và sáng tạo của quần
chúng nhân dân; đồng thời, coi đó như là một nguyên tắc một biện pháp khắc phục
bệnh quan liêu, mệnh lệnh; bởi Người hiểu rằng, không thương yêu nhân dân và không
tin cậy nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh này. Chính vì vậy, cùng với việc để lại
muôn vàn tình thân yêu cho toàn Đảng, toàn dân, Người đã đặt niềm tin sắt đá thông qua
điều mong muốn cuối cùng là toàn Đảng, toàn dân “đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Không chỉ góp phần khẳng định ý nghĩa cuộc sống, sự sáng suốt trong cách nhìn, tầm
nhìn, tình cảm lớn trong nhân cách Hồ Chí Minh còn tạo nên ở Người một ý chí mãnh
liệt, một nghị lực phi thường. Chính là xuất phát từ sự đau xót trước cảnh thống khổ của
đồng bào mà Người nung nấu một ý chí, một hoài bão tìm đường cứu dân, cứu nước.
Tình cảm yêu nước và thương dân đã tạo nên ham muốn tột bậc ở Người, đó là ham
muốn “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(14). Ham muốn ấy đã theo suốt cuộc đời
Người, làm nên mục đích và động lực hoạt động cách mạng của Người. Người đã từng
làm bồi bàn, quét tuyết, phụ bếp, hoặc như Người nói, “những khi tôi phải ẩn nấp nơi
núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”(15).
Toát lên từ Di chúc cũng như toàn bộ tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh là
lòng yêu dân, yêu nước, là tình người, lòng yêu thương con người. Tình cảm lớn đó
không chỉ góp phần tạo nên một nhân cách lớn - một bậc đại Nhân, đại Trí, đại
Dũng, mà còn tạo ra một thời đại mang tên Người - thời đại Hồ Chí Minh.
*
* *
Đáp lại tình cảm và thực hiện lòng mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày nay,
chúng ta đang tiến hành xây dựng đất nước và con người trong điều kiện mới, điều
kiện của kinh tế thị trường. Nếu như “Vô luận việc gì đều do người làm ra, và từ nhỏ
đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”(16) thì việc xây dựng con người, tình người là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện nay. Bởi từ tư tưởng và sự trải nghiệm tình
người, lòng yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã cho thấy tầm quan trọng và
tính cấp thiết của việc đẩy mạnh công tác xây dựng tình cảm đạo đức. Không chỉ
thế, tính cấp thiết này còn bị quy định bởi điều là, trong công tác xây dựng con người
thì tình cảm đạo đức là lĩnh vực chịu nhiều thách thức nhất từ mặt trái của kinh tế thị
trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế giả định và khuyến khích lợi ích cá nhân. Cố nhiên,
chúng ta nói khuyến khích là muốn nói đến khuyến khích lợi ích cá nhân hợp pháp.
Tuy vậy, khi quá chạy theo các lợi ích cá nhân hợp pháp, con người vẫn có thể có xu
hướng trở nên ích kỷ, nghĩa là chỉ biết đến mình; đồng thời, tình cảm mà biểu hiện
của nó là sự quan tâm đối với xã hội, đối với người khác, thậm chí đối với người
thân cũng trở nên suy giảm. Trong điều kiện của kinh tế thị trường, hoạt động của
quy luật giá trị khiến cho con người một khi đã tham gia vào quan hệ thị trường là
phải chấp nhận cạnh tranh. Trong cạnh tranh, con người luôn phải khẳng định sự
hiện diện của mình, phải vượt trội người khác. Điều này là có ý nghĩa tích cực, vì nó
kích thích con người nỗ lực tự vượt lên trên bản thân mình. Tuy vậy, nó cũng dễ dẫn
đến sự xem thường và không quan tâm đến người khác. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, thành công của một chủ thể kinh tế hoặc của một con người là điều quan
trọng; sự thất bại của đối thủ hay người khác chẳng có ý nghĩa gì. Kinh tế thị trường
cũng luôn đặt ra yêu cầu mở rộng sản xuất và rút ngắn chu trình sản xuất. Để quá
trình này được thực hiện thì phải khuyến khích tiêu thụ. Khuyến khích tiêu thụ từ chỗ
là một yêu cầu của sản xuất lại dẫn tới sự hình thành lối sống tiêu thụ đặc trưng cho
xã hội hiện đại. Lối sống tiêu thụ trước hết được thể hiện ở tầng lớp giàu có; nó dẫn
đến sự đối lập và tâm lý bất bình ở tầng lớp nghèo khó. Đồng thời với tư cách là đặc
trưng của xã hội hiện đại, lối sống tiêu thụ cũng ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội, kể cả
người nghèo. Con người khi quá quan tâm đến hưởng thụ để khẳng định sự “sành
điệu” của mình thì có nghĩa là nó đã trở nên ích kỷ và không biết đến người khác.
Những nhân tố trên và nhiều nhân tố khác nữa đã và đang làm cho tình thương, trách
nhiệm dường như là một cái gì xa lạ đối với con người trong điều kiện kinh tế thị
trường. Nhận xét về tình trạng này, nhà văn Elie Wiesel, người nhận giải thưởng
Nôben về hoà bình năm 1986, cho rằng, nghịch lý của xã hội hiện đại là ở chỗ, “con
người đi lên đến tận mặt trăng nhưng không nhích gần lại đồng loại của mình. Con
người thăm dò đáy biển và giới hạn của vũ trụ trong khi người láng giềng liền cửa
đối với mình vẫn là một kẻ xa lạ. Chúng ta sống đến tuổi già nhưng tuổi già trở thành
một gánh nặng và một điều nguyền rủa”(17). Tương tự như vậy, một tác giả vô danh
năm 2001 đã nhận xét trên internet rằng, ngày nay, chúng ta có những con đường cao
tốc dài rộng hơn, nhưng quan điểm lại hẹp hòi hơn; có căn nhà to hơn nhưng gia đình
lại nhỏ đi; số của cải tăng lên nhưng giá trị của mình lại giảm xuống; lợi nhuận tăng
cao nhưng quan hệ giữa người và người rất hời hợt; con người thích những hoạt động
cộng đồng nhưng lại quên đi người thân đang ốm.
Với nước ta hiện nay, sự suy giảm tình cảm đang là vấn đề nổi cộm. Sự suy giảm này
vừa là nguyên nhân, vừa biểu hiện trong những hiện tượng xuống cấp về mặt đạo
đức đang diễn ra khá phổ biến. Trong kinh tế, đó là việc làm ăn phi pháp, trốn thuế,
lừa đảo, làm hàng giả…; trong các cơ quan công quyền, đó là tình trạng quan liêu,
tham nhũng, lãng phí…; trong gia đình, đó là bạo lực và tình trạng vô trách nhiệm…
Những sự suy giảm này cũng được phản ánh trong sự xuống cấp của dư luận xã hội.
Nói cụ thể hơn, dư luận xã hội dường như thờ ơ hơn đối với những hiện tượng tiêu
cực. Tất cả những điều đó cho thấy, tình cảm, sự quan tâm lẫn nhau, trách nhiệm
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội đã có một sự suy giảm đáng
quan ngại. Vì vậy mà “không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên
tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp”(18).
Sự suy giảm tình cảm, trách nhiệm giữa người với người không chỉ là chỉ báo sự
xuống cấp nhân cách con người, mà còn là một trong những tác nhân quan trọng dẫn
đến sự chia rẽ cộng đồng, ảnh hưởng bất lợi đến sự đồng thuận xã hội, đến khối đại
đoàn kết dân tộc trong quá trình phát triển đất nước.
Vì vậy, một trong những vẫn đề của phát triển hiện nay, đặc biệt là của sự nghiệp
trồng người, đó là khắc phục tình trạng vô cảm, sự xuống cấp về mặt tình cảm của
con người, làm cho con người quan tâm và gắn kết với nhau hơn. Đây là công việc
vừa cấp thiết vừa lâu dài; bởi tình cảm lúc nào cũng là một trong những cơ sở tâm lý
không thể thiếu được của hoạt động người, là nhân tố gắn kết con người với con
người trong mọi lĩnh vực của đời sống. Tình cảm, xét đến cùng, chính là sự biểu hiện
về mặt cảm xúc của con người đối với những điều kiện kinh tế - xã hội của con
người. Việc xây dựng tình cảm tốt đẹp cho con người hiện nay cần được đặt trong
tương quan với tổng thể các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, tăng
cường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội là đảm bảo
chung cho việc xây dựng đạo đức, tình cảm đạo đức của con người. Tuy nhiên, tình
cảm đạo đức là lĩnh vực có tính độc lập, có đặc trưng và tính nhạy cảm nhất định.
Bởi vậy, đẩy mạnh giáo dục tình cảm đạo đức tức là giáo dục tình người, lòng nhân
ái có ý nghĩa trực tiếp và rất cấp thiết.(18)
Giáo dục tình cảm, lòng nhân ái không chỉ là giáo dục vai trò, ý nghĩa của nó. Sự
giáo dục này đương nhiên là cần thiết, nhưng như những trải nghiệm và sự giáo dục
bởi Hồ Chí Minh, nêu gương là cách tốt nhất, có hiệu quả nhất. Hiện nay, chúng ta
đang đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Cuộc vận động này đang được triển khai cả về bề rộng lẫn bề sâu và đang đi
vào thực chất. Cần đẩy mạnh hơn nữa Cuộc vận động này, triển khai nó bằng chính
sự thương yêu lẫn nhau để mở rộng sự thương yêu lẫn nhau, bằng chính sự gương
mẫu để mở rộng sự gương mẫu thông qua các phong trào, các hoạt động cụ thể, thực
tế. Đó là tinh thần, là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, tấm gương Hồ Chí Minh về
giáo dục tình cảm và giáo dục đạo đức, đồng thời là đảm bảo cho hiệu quả của sự
nghiệp này.q
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Đạo đức học - Mỹ học, Viện Triết học, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.512.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.512.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.241.
(4) Hồ Chí Minh., Sđd., t.12, tr.559.
(5) Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nxb Sự
Thật, Hà Nội, 1988, tr.13.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr. 457.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.251.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.544.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.263.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.386.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.558.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.128.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.28.
(14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.161.
(15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.240.
(16) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.241.
(17) Người đưa tin UNESCO, số 5, 1988, tr.18.
(18) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1988, tr.46.
TIẾP CẬN TRIẾT HỌC TRONG NGHIÊN CỨU CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LẠI QUỐC KHÁNH (*)
Bài viết trình bày cách tiếp cận mới trong nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh - cách tiếp cận triết học. Cụ thể, tác giả đã vận dụng phương pháp tiếp cận
của triết học Mác - Lênin để nghiên cứu, làm rõ thêm cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như bối cảnh lịch sử của sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh. Theo tác giả, khi nghiên cứu vấn đề này, cần đặc biệt coi trọng sự nhận
thức tự giác và chủ động của Hồ Chí Minh về hoạt động thực tiễn, về các tư liệu tư
tưởng và bối cảnh lịch sử.
Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động”(1). Do đó, việc đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành một
nhiệm vụ quan trọng mà giới nghiên cứu lý luận ở Việt Nam, trong đó có giới nghiên
cứu triết học, phải thực hiện. Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu
các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh có một vị trí quan trọng, mà theo cách
nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là giúp chúng ta “hiểu bản chất tư tưởng Hồ Chí
Minh”(2).
Những nghiên cứu trong và ngoài nước về cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh đã
đạt được nhiều kết quả, từ đó hình thành nên khung tri thức về vấn đề này. Tuy nhiên,
khi đi sâu xem xét những tài liệu trong đó trình bày các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh, chúng ta sẽ thấy vấn đề phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu vấn đề này
cần phải được đặt ra. Nếu không giải quyết thấu đáo điều đó sẽ đưa tới tình trạng lý
giải tùy tiện, tức là không làm rõ được thực chất của các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh và do vậy, sẽ rất khó khăn cho việc nhận thức bản chất tư tưởng Hồ Chí
Minh. (1)
Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là mộtnghiên cứu triết học, là
một trường hợp trong nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học. Vì thế, nó đòi hỏi phải áp
dụngphương pháp tiếp cận triết học, mà đối với chúng ta, đó là phương pháp tiếp cận
của triết học Mác - Lênin.
Vận dụng phương pháp tiếp cận của triết học Mác - Lênin về vấn đề cơ bản của triết
học vào nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khẳng
định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ những cơ sở thực tiễn, cơ sở lý
luận và dựa trên bối cảnh lịch sử cụ thể. Đây là chỉ dẫn quan trọng; tuy nhiên, cần
phải hiểu rằng, chỉ dẫn đó chỉ là một giả thuyết mang tính định hướng. Tự nó không
phải là câu trả lời cho vấn đề cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó không thể
giải đáp được câu hỏi: cơ sở hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh là gì?
Trong hầu hết các công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, dù nhiều hay ít,
dù trực tiếp hay gián tiếp đều có trình bày các cơ sở và bối cảnh lịch sử của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nhưng tại sao cùng trình bày về cơ sở và bối cảnh của tư tưởng Hồ
Chí Minh, song giữa sự trình bày của các nhà nghiên cứu, hay thậm chí giữa sự trình
bày của cùng một nhà nghiên cứu ở những thời điểm khác nhau lại có sự khác biệt
nhất định, nhất là khi luận giải cơ sở và bối cảnh của những vấn đề cụ thể? Thực ra,
sự khác biệt đó là đương nhiên, bởi đã là trình bày cơ sở và bối cảnh của tư tưởng Hồ
Chí Minh thực chất là sự trình bày nhận thức về cơ sở và bối cảnh ấy. Nếu đó là
nhận thức thuần túy của nhà nghiên cứu thì giữa các nhà nghiên cứu khác nhau, hay
giữa các thời kỳ khác nhau trong quá trình nghiên cứu của cùng một tác giả có sự
khác biệt về nhận thức là điều dễ hiểu, bởi trình độ và năng lực nhận thức cũng như
phông tri thức của các nhà nghiên cứu, hay của cùng một nhà nghiên cứu ở các thời
kỳ khác nhau là không giống nhau. Nhưng chính sự khác nhau đó là một dấu hiệu
cho thấy, cơ sở và bối cảnh của tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được nhận thức và trình
bày thật chính xác.
Vậy làm thế nào để xác định và trình bày đúng cơ sở và bối cảnh của tư tưởng Hồ Chí
Minh? Để lý giải vấn đề này, cần trở lại cách tiếp cận của triết học Mác - Lênin.
Về cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Ý thức [das Bewubtsein] không bao giờ có thể là cái gì
khác hơn là sự tồn tại được ý thức [das bewubt sein], và tồn tại của con người là quá
trình đời sống hiện thực của con người”(3). Điều đó có nghĩa cơ sở thực tiễn của ý
thức, tư tưởng con người là “tồn tại của con người” và “tồn tại của con người” chính là
“quá trình đời sống hiện thực” của họ. Ý thức, do vậy, không có gì khác hơn chính là
“quá trình đời sống hiện thực của con người” đã “được ý thức”.
Vận dụng quan điểm đó của C.Mác và Ph.Ăngghen, chúng ta có thể khẳng định, cơ
sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là “quá trình đời sống hiện thực” của
Hồ Chí Minh. Và việc trình bày cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là
trình bày “quá trình đời sống hiện thực” của Hồ Chí Minh.
Nhưng trình bày “quá trình đời sống hiện thực” của Hồ Chí Minh là trình bày cái gì?
Đó chính là “sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát triển
của con người”(4), tức là “miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự
phát triển” của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sự miêu tả gắn với các thao tác như “quan
sát”, “sắp xếp”, “trừu tượng hóa”, v.v. thì điều đó có nghĩa là sự trình bày dựa
trên nhận thức của người nghiên cứu. Ở đây, nảy sinh mấy vấn đề nan giải, mà nếu
không nhận thức rõ ràng, thì rất có thể sự trình bày của người nghiên cứu về “quá
trình đời sống hiện thực” của Hồ Chí Minh sẽ biến thành sự trình bày chủ quan, áp
đặt.
Thứ nhất, có một điều chắc chắn là “quá trình đời sống hiện thực”, tức là hoạt động
thực tiễn của Hồ Chí Minh không phải là tập hợp các sự kiện và hoạt động của Hồ
Chí Minh, mà là một chỉnh thể sống động xuyên qua các sự kiện và hoạt động. Vì
thế, sự trình bày “quá trình đời sống hiện thực” không phải là một bản biên niên các
sự kiện và hoạt động, mà phải là sự trình bày sao cho các sự kiện và hoạt động bộc lộ
ra “sự phát triển lịch sử” của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn của con người nói chung, của Hồ Chí Minh nói riêng,
luôn là thể thống nhất của cái chủ quan và cái khách quan. Tính khách quan trong
hoạt động thực tiễn của con người thể hiện ở chỗ, con người hoạt động trong
những thể chế xác định, với công cụ và quan hệnhất định, mà những thể chế, công cụ
và quan hệ này hầu hết là tồn tại độc lập với ý chí chủ quan và quy định hoạt động
của chủ thể hoạt động. Tính chủ quan trong hoạt động thực tiễn của con người biểu
hiện ở chỗ, bất chấp tất cả những thể chế, quan hệ và công cụ mang tính khách quan
như vậy, chủ thể vẫn hành động dựa trên tư tưởng chủ quan của mình, dựa trên sự
nhận thức và lý giải mang tính chủ quan của mình về những nhân tố khách quan nói
trên. Sự nhận thức và lý giải đó có thể hoàn toàn đúng, có thể đúng một phần, có thể
hoàn toàn sai, song dù sao, đó vẫn là động cơ trực tiếp chỉ đạo hoạt động của con
người. Trong xã hội, mỗi cá thể xây dựng cho mình một hình ảnh chủ quan về thế
giới, và đúng như C.Mác nói, với sự tồn tại của con người thì không có cái gọi là thế
giới khách quan thuần túy, tức là mỗi cá thể dựa trên sự nhận thức và lý giải của
riêng mình mà tiến hành hoạt động. Do vậy, sự nhận thức cũng như hoạt động của
các cá nhân trong xã hội là vô cùng phong phú và đa dạng. Chính vì hoạt động thực
tiễn của con người nói chung, của Hồ Chí Minh nói riêng không thể được coi là một
hoạt động thuần túy khách quan (bởi như vậy sẽ mắc phải sai lầm của chủ nghĩa duy
vật tầm thường - thứ chủ nghĩa mà khuyết điểm lớn nhất của nó đã được C.Mác chỉ
ra là “sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của
con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan”(5) - tức là không
nhận thức được hoạt động thực tiễn của con người là thể thống nhất chủ - khách
quan), cho nên, khi trình bày về hoạt động ấy cần phải chú ý đến mặt chủ quan, tức
là ý thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh khảm nhập trong đó. Không chú ý đến mặt chủ
quan của Hồ Chí Minh chứa đựng trong hoạt động thực tiễn của Người, thì không vì
thế mà sẽ có được một sự trình bày “khách quan”, thậm chí không tránh khỏi “lén
lút” đưa ý thức, tư tưởng chủ quan của người nghiên cứu vào trong sự trình bày; do
vậy, cái được trình bày sẽ không còn là hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh với tư
cách cơ sởcủa tư tưởng Hồ Chí Minh nữa.
Thứ ba, hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh đóng vai trò là nguồn gốc, động lực và
tiêu chuẩn của ý thức, tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua quá trình nhận thức của
Người về hoạt động thực tiễn ấy. Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể sẽ kiểm chứng
tính đúng - sai của nhận thức, tư tưởng của mình khảm nhập trong hoạt động ấy, và
từ đó, hoặc là củng cố và phát triển nhận thức, tư tưởng đã có của mình, hoặc là điều
chỉnh, thậm chí vứt bỏ nhận thức, tư tưởng đó để xây dựng những nhận thức, tư
tưởng mới. Tuy nhiên, bản thân cái gọi là củng cố, phát triển, điều chỉnh hay vứt bỏ
cũng là hoạt động nhận thức. Nói cách khác, hoạt động thực tiễn của chủ thể luôn
diễn ra đồng thời với hai quá trình song trùng là nhận thức của chủ thể về hoạt động
thực tiễn của mình và nhận thức của chủ thể về nhận thức của mình thể hiện trong
hoạt động thực tiễn ấy. Chính vì vậy, khi trình bày hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh, cần phải chú ý không chỉ đến nhận thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh trong hoạt
động ấy, mà còn phải chú ý đến nhận thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh về hoạt động
ấy.
Nói tóm lại, việc trình bày cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh phải chú trọng
làm rõ tính chất “cơ sở” của hoạt động thực tiễn ấy đối với tư tưởng Hồ Chí Minh,
mà tính chất cơ sở ấy gắn liền với nhận thức và tư tưởng của Người. Nhận thức và tư
tưởng của Hồ Chí Minh trong và vềhoạt động thực tiễn của Người chính là một phần
của hoạt động thực tiễn Hồ Chí Minh, của “quá trình đời sống hiện thực của Hồ Chí
Minh”.
Tìm ra những luận
điểm thể
hiện nhận thức của Hồ Chí
Minh trong và về hoạt động thực tiễn của Người là một căn cứ quan trọng để xác
định, đồng thời cũng chính là một phần của sự trình bày về cơ sở thực tiễn của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu các tác phẩm mà Hồ Chí Minh để lại, chúng ta có thể tìm ra được một số
luận điểm mang tính phản tư về cuộc đời của chính Người, chẳng hạn: “Cả đời tôi chỉ có
một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những
khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì
mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi
gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó.
Ngày nay vâng lệnh Chính phủ, theo ý quốc dân, tôi phải xa xôi ngàn dặm, tạm biệt
đồng bào, cùng với đoàn đại biểu qua Pháp - cũng vì mục đích đó. Bất kỳ bao giờ, bất
kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”(6).
Như vậy, hoạt động thực tiễn, “quá trình đời sống hiện thực” của Hồ Chí Minh là sự
thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc
dân”, đồng thời thông qua quá trình hoạt động thực tiễn ấy, qua “quá trình đời sống
hiện thực ấy” mà tư tưởng Hồ Chí Minh về “quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc
của quốc dân” ngày càng được phát triển. Theo đó, việc trình bày cơ sở thực tiễn,
“quá trình đời sống hiện thực” của Hồ Chí Minh cần phải xoay quanh “mục đích”
duy nhất này.
Về cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh
Tiếp cận triết học Mác - Lênin về cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh còn đòi
hỏi phải làm rõ các cơ sở lý luận.Ph.Ăngghen đã viết: “... bất cứ học thuyết nào, ...
trước hết phải xuất phát từ những tư liệu tư tưởng đã tích luỹ từ trước, mặc dù gốc rễ
của nó nằm sâu trong những sự kiện kinh tế vật chất”(7).
Các nhà nghiên cứu nói chung cũng nhất trí cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh hình
thành và phát triển dựa trên những cơ sở lý luận nhất định. Vấn đề đặt ra ở đây là xác
định được những “tư liệu tư tưởng đã tích lũy từ trước” đóng vai trò cơ sở của tư
tưởng Hồ Chí Minh và trình bày những tư liệu đó với tư cách cơ sở lý luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Để tránh mắc phải sai lầm, hoặc rơi vào sự tùy tiện khi xác định và trình bày những
cơ sở lý luận này (mà những sai lầm hoặc sự tùy tiện ở đây còn dễ mắc phải hơn so
với khi trình bày hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh), chúng tôi cho rằng, cũng
cần phải chú ý đến nhận thức của Người về các tư liệu tư tưởng này, cụ thể là Hồ Chí
Minh nói đếnnhững tư liệu tư tưởng nào và hiểu như thế nào về các tư liệu ấy. Nói
cách khác, phải xuất phát từ những “dấu vết” mà các tư liệu tư tưởng đã để lại trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, thông qua các bài nói, bài viết của Người, để truy nguyên,
xác định và trình bày những tư liệu tư tưởng ấy.
Xuất phát từ quan điểm của triết học Mác - Lênin, chúng ta đều thừa nhận rằng, tư
tưởng của một cá nhân, nhất là tư tưởng ở trình độ khái quát cao về lý luận như tư
tưởng Hồ Chí Minh, bao giờ cũng bắt nguồn từ những “tư liệu tư tưởng đã tích lũy từ
trước”. Song, không phải “tư liệu tư tưởng đã tích lũy từ trước” nào cũng đóng vai
trò cơ sở lý luận cho tư tưởng của chủ thể. Tư liệu nào và tư liệu ấy đóng vai trò cơ
sở lý luận cho tư tưởng của chủ thể như thế nào, điều đó được quyết định một phần
quan trọng bởi sự nhận thức của chủ thể về tư liệu ấy. Nhận thức của chủ thể sẽ
quyết định việc chủ thể có tiếp nhận hay không, tiếp nhận đến đâu những nội dung tư
tưởng chứa đựng trong tư liệu ấy. Giữa các chủ thể khác nhau, hoặc thậm chí ở cùng
một chủ thể nhưng trong những thời kỳ khác nhau, thì sự nhận thức về các “tư liệu tư
tưởng đã tích lũy từ trước” có thể và thường là khác nhau. Chính vì vậy, tư tưởng của
các chủ thể hoặc của một chủ thể nhưng ở những thời kỳ khác nhau hình thành trên
cơ sở nhận thức khác nhau ấy cũng khác nhau.(7)
Trước hết, chúng ta thấy rằng, những giá trị tư tưởng - văn hóa truyền thống của dân
tộc Việt Nam đã hình thành và tồn tại trước Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cùng với
nhiều nhà yêu nước Việt Nam khác cùng hướng vào nhận thức và khai thác các giá
trị ấy. Song, rõ ràng là Hồ Chí Minh đã thành công hơn so với nhiều nhà yêu nước
Việt Nam khác. Giáo sư Trần Văn Giàu đã từng nhận xét rằng, trước Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam, thế hệ các nhà yêu nước tiền bối đã huy động tất cả
mọi “vũ khí”, tức là các giá trị tư tưởng - văn hóa truyền thống, mà cha ông chúng ta
tích lũy được trong lịch sử để chống thực dân Pháp, song đều không thành công. Đến
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng nhân dân Việt Nam ấy, cũng truyền
thống Việt Nam ấy, song đã làm nên những kỳ tích được đánh giá là để lại dấu ấn
trong quá trình phát triển lịch sử dân tộc và nhân loại. Điều đó cho thấy, Hồ Chí
Minh nhận thức về các giá trị truyền thống có ít nhiều khác biệt so với thế hệ các nhà
yêu nước tiền bối. Cũng chính vì có sự nhận thức khác nên mới có tư tưởng Hồ Chí
Minh và cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh mới thành công.
Điều này cũng đúng với các cơ sở lý luận khác của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối
với chủ nghĩa Mác - Lênin, nội dung và giá trị lớn nhất của học thuyết này, theo Hồ
Chí Minh, là “phương pháp làm việc biện chứng”. Chính từ cách hiểu như vậy, Hồ
Chí Minh đã chú trọng kế thừa phương pháp biện chứng - duy vật của học thuyết
Mác - Lênin, trên cơ sở đó xây dựng nên phương pháp tư duy, phương pháp hành
động và hệ thống tư tưởng mang tính biện chứng sâu sắc của mình. Đối với các giá
trị tư tưởng - văn hóa phương Đông, chẳng hạn như Khổng giáo, Hồ Chí Minh đã
đánh giá rằng bên cạnh những hạn chế, Khổng giáo còn chứa đựng nhiều giá trị,
trong đó nổi bật là tư tưởng đề cao lôgíc “tu, tề, trị, bình”. Trong bối cảnh Khổng
giáo bị phê phán đến mức cực đoan ngay trên quê hương của nó, Hồ Chí Minh vẫn
khẳng định: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có
nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì ta nên học”(8). Đối với
các giá trị tư tưởng - văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đặc biệt đánh giá cao tư
tưởng - văn hóa dân chủ. Chính vì thế, trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề
dân chủ có vai trò cực kỳ quan trọng, v.v..
Như vậy, việc chú trọng sự nhận thức của Hồ Chí Minh về các “tư liệu tư tưởng đã
tích lũy từ trước” là một căn cứquan trọng để xác định, đồng thời là một phần của sự
trình bày về cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không chú trọng điều này thì
sẽ rơi vào trình bày nhận thức riêng của nhà nghiên cứu về các “tư liệu tư tưởng đã
tích lũy từ trước”. Mà như vậy thì không phải là trình bày cơ sở lý luậncủa tư tưởng
Hồ Chí Minh, mà thực chất là trình bày cơ sở lý luận của tư tưởng của nhà nghiên
cứu.
Về bối cảnh của tư tưởng Hồ Chí Minh
Tương tự như việc xác định và trình bày các cơ sở thực tiễn và lý luận của tư tưởng
Hồ Chí Minh, việc trình bày bối cảnh lịch sử của sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng đòi hỏi phải chú trọng sự nhận thức của Người về bối cảnh ấy. Tuy nhiên,
điều đáng tiếc là một số tài liệu trình bày về bối cảnh lịch sử của tư tưởng Hồ Chí
Minh thể hiện sự tùy tiện, trong đó người viết trình bày về bối cảnh ấy bằng những tri
thức của ngày hôm nay (đầu thế kỷ XXI) và vớinhận thức của người nghiên cứu về
bối cảnh ấy.(8)
Chúng ta đều biết rằng, trước cùng một bối cảnh lịch sử, mỗi chủ thể có cách nhận
thức riêng và từ đó, hình thành nên tư tưởng của mình. Cùng bối cảnh lịch sử Việt
Nam và thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nhà yêu nước Việt Nam đã có
những cách nhận thức riêng của mình và từ đó rút ra những kết luận lý luận khác
nhau. Chẳng hạn, cùng nhận thức về cơ cấu xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, cụ Phan
Bội Châu cho rằng sự phân hóa giai cấp trong nội bộ dân tộc Việt Nam là chưa triệt
để và do vậy, không thể vận dụng quan điểm giai cấp để giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, bởi như thế chỉ đưa tới sự chia rẽ và làm suy yếu sức mạnh
đoàn kết của dân tộc. Trái lại, Hồ Chí Minh cho rằng, việc vận dụng quan điểm giai
cấp để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng
trong tư duy, bởi quan điểm ấy không chỉ giúp thấy được quan hệ giai cấp trong nội
bộ nhân dân Việt Nam, mà còn thấy được quan hệ giai cấp giữa các tầng lớp nhân
dân lao động Việt Nam với thực dân Pháp, thấy được áp bức giai cấp là bản chất của
áp bức dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thấy được quan hệ biện chứng giữa
dân tộc và giai cấp. Nghĩa là, việc áp dụng quan điểm giai cấp vào nhận thức hiện
thực và vạch ra đường lối cách mạng không những không làm suy yếu, mà còn tăng
cường sức mạnh đoàn kết, sức mạnh đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Cần nhớ
rằng, Hồ Chí Minh đến với học thuyết Mác - Lênin không phải để tìm trong đó
những lời giải có sẵn cho cách mạng Việt Nam, mà là đến với một công cụ nhận thức
giúp nhận thức đúng đắn về hiện thực xã hội, và thông qua nhận thức đúng đắn mà
vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy, ngay từ
những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tập trung phân tích hiện thực xã hội
Việt Nam và thế giới, phát hiện ra trong đó những vấn đề mang tính bản chất, quy
luật của sự tồn tại và biến đổi, từ đó khái quát nên những luận điểm quan trọng về
cách mạng Việt Nam. Chẳng hạn, xem xét sự kiện tháng 11 năm 1922, khi 600 thợ
nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Kỳ) tiến hành bãi công vì bị bớt lương và kéo theo cuộc
đấu tranh của công nhân ở nhiều địa phương khác, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở sự
kiện này “dấu hiệu của thời đại” - thời đại mà “khắp nơi giai cấp công nhân cũng bắt
đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình”(9) - dấu hiệu mà không phải chủ thể
nhận thức nào ở thời kỳ ấy cũng có thể nhận ra.
Mặt khác, việc chú ý đến nhận thức của Hồ Chí Minh về bối cảnh lịch sử là rất cần
thiết. Người không đứng ngoài bối cảnh ấy như một nhà nghiên cứu tiến hành hoạt
động nhận thức, mà tích cực tham gia vào bối cảnh, tạo nên bối cảnh và để lại dấu ấn
chủ quan của mình trong đó. Do vậy, sự nhận thức về bối cảnh của Hồ Chí Minh
càng có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành tư tưởng của Người. Có thể nói,
để xác định và trình bày được bối cảnh lịch sử với tư cách bối cảnh lịch sử của tư
tưởng Hồ Chí Minh, cần phải chú ý đến sự nhận thức của Người về bối cảnh này.
Tóm lại, chúng tôi cho rằng, nếu nhận thức của Hồ Chí Minh về các cơ sở thực tiễn, cơ
cở lý luận và bối cảnh lịch sử có vai trò quan trọng trong sự hình thành tư tưởng của
Người, thì rõ ràng những luận điểm thể hiện nhận thức nói trên của Hồ Chí Minh là
những căn cứ để xác định và trình bày đúng các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nhận thức của Hồ Chí Minh về các cơ sở thực tiễn, lý luận và bối cảnh dĩ nhiên
không phải là chính các cơ sở thực tiễn, lý luận và bối cảnh ấy, song thực tiễn, lý luận và
bối cảnh đóng vai trò cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh một phần quan trọng, chủ yếu là
thông qua sự nhận thức của Hồ Chí Minh về chúng.(9)
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm nhiều cấp độ và vì thế, phương thức tác động của
các cơ sở thực tiễn, lý luận và bối cảnh đến tư tưởng của Người cũng có nhiều cấp
độ. Song, nếu xét tư tưởng Hồ Chí Minh ở cấp độ một hệ thống lý luận được xây
dựng một cách chủ động và tự giác, thì rõ ràng sự nhận thức tự giác và chủ động của
Người về hoạt động thực tiễn, về các tư liệu tư tưởng và về bối cảnh lịch sử có vai
trò rất quan trọng đối với sự hình thành hệ thống tư tưởng ấy. Vì vậy, những nhận
thức đó của Hồ Chí Minh cần được coi là căn cứ xác định và là một phần trong sự
trình bày của người nghiên cứu về các cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và bối cảnh lịch
sử hình thành hệ thống tư tưởng của Người.q
(*) Tiến sĩ, Bộ môn Khoa học chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.
(2) Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.47.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.37.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.39.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.9.
(6) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.240.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.19. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.275.
(8) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.6. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.46.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.2, tr.114.
VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM
NGUYỄN ĐỨC SỰ (*)
Bài viết chỉ ra rằng, kể từ khi vào Việt Nam (thế kỷ I TCN.), một mặt, Nho giáo là
công cụ thống trị của chính quyền đô hộ và phục vụ cho chính quyền đô hộ; mặt
khác, sự truyền bá Nho giáo cùng với việc phổ biến chữ Hán đã đưa tới Việt Nam
một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên. Nho giáo ở Việt Nam đã từng có vị trí
độc tôn (ở thế kỷ XV) và có những vai trò đáng kể đối với sự phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội Việt Nam, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu nhằm xây dựng và bảo
vệ chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam. Song, Nho giáo cũng có
không ít nhược điểm và do vậy, đối với những tàn dư của Nho giáo ở Việt Nam hiện
nay, chúng ta cần phải biết tiếp thu có chọn lọc.
Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I TCN; khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại
tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị đất Giao Châu. Nhưng,
trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam còn rất
hạn chế. Đa phần sự ảnh hưởng đó chỉ có ở các đô thị, gắn liền với sinh hoạt của
- Xem thêm -