Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên ...

Tài liệu Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận ba đình

.PDF
69
77921
174

Mô tả:

LUẬN VĂN: Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình Lời nói đầu Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ quan trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Như vậy, có thể thấy rằng Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước. Song để biện pháp đó đạt hiệu quả sẽ rất cần đến một bộ phận chuyên trách, chất lượng trong quá trình quản lý và hành thu. Nhận thức được điều này, đồng thời để bắt nhịp được với bước chuyển biến về cơ cấu, thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi cải cách hệ thống Thuế bước hai. Trong đó, nổi bật nhất là việc thay thế 2 sắc thuế Doanh thu và thuế Lợi tức bằng thuế Giá trị gia tăng và thuế Thu nhập doanh nghiệp được thông qua tại kỳ họp thứ 11 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Đây là bước đi vô cùng quan trọng, thể hiện sự mạnh dạn của Đảng ta trong công cuộc đổi mới nền kinh tế. Tuy nhiên sự khởi đầu nào cũng đều có những chắc trở không thể tránh khỏi, nhất là ở khu vực kinh tế cá thể cả nước nói chung và đặc biệt ở Quận Ba Đình nói riêng. Để có thể tháo gỡ được những khó khăn này và tìm ra hướng đi mới là cả một vấn đề nan giải đối với Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế và các cơ quan hữu quan. Quận Ba Đình là một trong 7 Quận nội thành của thành phố Hà nội. Quận Ba Đình không rộng về diện tích nhưng có nhiều trụ sở, cơ quan trung ương của Đảng, chính phủ, các cơ quan ngoại giao, đại sứ quán. Tuy nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh ở đây cũng rất phong phú. Qua thời gian thực tập ở Chi cục Thuế quận Ba đình, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo và các cán bộ công tác tại Chi cục, tôi đã đi sâu nghiên cứu và phân tích tình hình thực tế quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba đình trong những tháng đầu triển khai luật thuế mới này.Từ đó cũng xin được đưa ra một số phương hướng nhằm tăng cường công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể, góp phần tăng thu cho Ngân sách nhà nước. Bắt nguồn từ những lí do trên nên đề tài có tên gọi là: “Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình" . Toàn bộ đề tài được trình bày theo kết cấu sau: Phần I: Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể hiện nay. Phần II: Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình trong quý I năm 2003 Phần III: Một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở quận Ba đình. Mục lục Phần I: Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể hiện nay. I. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường: 1. Khái niệm, đặc điểm của thuế. 2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường. II. Sự cần thiết phải áp dụng thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay: 1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế Giá trị gia tăng thay cho thuế Doanh thu. 2. Thuế Giá trị gia tăng và những ưu điểm nổi bật. 3. Nội dung cơ bản của luật thuế giá trị gia tăng. III. ý nghĩa của công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế cá thể: 1. Vị trí, vai trò của kinh tế cá thể trong nền kinh tế thị trường. 2. ý nghĩa của việc tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế cá thể. Phần II: Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình quý I năm 2003. I. Đặc điểm kinh tế xã hội và tình hình quản lý thu thuế trên địa bàn quận Ba Đình: 1. Một số nét về đặc điểm kinh tế xã hội. 2. Công tác tổ chức bộ máy thu thuế trên địa bàn quận Ba Đình. II. Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng với các hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba Đình trong những tháng đầu thực hiện luật thuế mới: 1. Quản lý đối tượng nộp thuế. 2. Quản lý căn cứ tính thuế. 3. Quản lý khâu thu nộp tiền thuế. Phần III: Một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế ở khu vực kinh tế cá thể tại Quận Ba Đình. I. Quản lí đối tượng nộp thuế: 1. Quản lý những hộ đã quản lý được . 2. Quản lý những hộ chưa quản lý được. II. Quản lý về căn cứ tính thuế: III. Một số biện pháp quản lý thu nộp trên thuế: 1. Công tác xây dựng kế hoạch. 2. Công tác đôn đốc thu nộp thuế. 3. Công tác kiểm tra và thanh tra thuế. IV. 1. Các biện pháp về tổ chức cán bộ: Chấn chỉnh bộ máy hoạt động của Chi cục thuế Quận Ba Đình. 2. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ một cách có hệ thống. 3. Có chính sách về lương thoả đáng đối với cán bộ thuế. 4. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan thuế và các cấp, các ngành có liên quan. V. Một số biện pháp khác: 1. Từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào quản lý thu thuế như ứng dụng công cụ tin học. 2. Làm thay đổi thói quen của người dân về việc sử dụng hoá đơn, chứng từ. 3. Kiến nghị về văn bản luật, chính sách của Nhà nước. Phần I Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể. I. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường: 1. Khái niệm, đặc điểm của Thuế: Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và sự phát triển tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước sử dụng thuế như một công cụ để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Lịch sử càng phát triển, các hệ thống thuế khoá, các hình thức thuế khoá và pháp luật thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các khoản đóng góp của người dân cho Nhà nước được xác định và được quy định công khai bằng luật pháp của Nhà nước . Các khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà nước. Cùng với sự hoàn thiện chức năng của Nhà nước, phạm vi sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở rộng. Nó không chỉ đảm bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà nước, mà còn để chi tiêu cho các nhu cầu phúc lợi chung và kinh tế. Như vậy gắn liền với Nhà nước, thuế luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với các hoạt động kinh tế xã hội và với mọi tầng lớp dân cư. Có rất nhiều các quan điểm nhìn nhận thuế dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đứng trên góc độ tài chính, có thể xem xét thuế dưới khái niệm như sau: Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng phi hình sự của Nhà nước nhằm động viên một số bộ phận thu nhập từ lao động, từ của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà nước để trang trải các khoản chi phí cho bộ máy nhà nước và các nhu cầu chung của xã hội. Các khoản động viên qua thuế được thể chế hoá bằng luật. Với nhận thức như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với các hình thức phân phối khác dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau đây:  Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng sự bắt buộc này là phi hình sự. Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang tính hình phạt. Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, việc đóng góp thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định. * Đặc điểm thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính bắt buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên nền tảng kinh tế-xã hội của người làm nhiệm vụ đóng thuế, do đó thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội. + Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu người của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó, cũng như chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế của mình. + Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội. Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các vấn đề kinh tế, xã hội của quốc gia đó. * Đặc điểm thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Nghiã là khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là một khoản vay mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng. Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí được coi là một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải trả một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi này thường không tuân thủ theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị trường. Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí không thể thiếu được trong công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 2. Vai trò của Thuế trong nền kinh tế thị trường: Sử dụng cơ chế thị trường để giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền kinh tế (sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai) là phát kiến vĩ đại của nhân loại, cơ chế thị trường thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hiệu quả, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất. Bên cạnh những ưu điểm đó, cơ chế thị trường có nhược điểm là gây cho xã hội những lãng phí về lao động, tài nguyên, vốn dẫn đến độc quyền thủ tiêu cạnh tranh. Với cơ chế phân phối qua thị trường thường khoét sâu hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo, tạo sự bất ổn định về kinh tế xã hội. Từ những ưu, nhược điểm đó cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình kinh tế -xã hội để phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế tối đa những nhược điểm của chúng. Để quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế xã hội, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ như: Kế hoặch hoá, pháp luật, các chính sách tài chính tiền tệ..vv.. Trong các công cụ trên thì chính sách tài chính tiền tệ đóng vai trò quan trọng nhất và Thuế là một công cụ quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ, thuế được nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội. Có thể thấy rõ vai trò của Thuế nổi bật ở các mặt sau: * Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước: Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác..vv.. Song thực tế các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng. ở nước ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước từ năm 1990. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng số thuế trong tổng thu ngân sách . Biều 1: Tình hình tỉ lệ thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà nước ta trong thời gian qua ( Tài liệu của Tổng cục thuế ). Năm Tổng số thuế và phí % So với tổng thu % So với GDP ( tỷ đồng) NSNN 1990 5906 73.7 14.0 1991 9844 92.7 12.83 1992 18514 88.0 16.75 1993 28695 90.5 21.0 1994 36629 89.6 21.51 Qua biểu trên ta thấy số thu thuế và phí đã chiếm phần chủ yếu trong tổng thu NSNN và tăng nhanh qua các năm, đã bảo đảm về cơ bản yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của NSNN, giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, giành một phần để tăng chi cho tích luỹ. Như vậy, chứng tỏ thuế là nguồn thu quan trọng nhất của NSNN. * Thuế, một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, hướng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trọng tâm của mọi chính phủ. Sự thành công hay thất bại của việc quản lý Nhà nước, nền kinh tế là giải quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta thường xác định 4 mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô mà mọi chính phủ phải theo đuổi. Bốn mục tiêu đó là: - Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý . - Tạo được công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động. - ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát. -Thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Với 4 mục tiêu trên ta có thể thấy rõ Thuế là một công cụ hết sức quan trọng nhằm biến 4 mục tiêu đó thành hiện thực. 1. Thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm: Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà nước sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồn hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường. Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu dùng đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích tiêu dùng. - Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản xuất ra để khuyến khích tạo lợi nhuận, kích thích việc đầu tư vào sản xuất. - Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích tiêu dùng. - Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa vào đầu tư, có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập về tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế “nóng” phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà nước dùng thuế để giảm tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng của xã hội. Song việc tăng thuế phải được xem xét trong một giới hạn cho phép để đảm bảo vừa tăng nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu ngành nghề hợp lý. Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện định hướng phát triển sản xuất. Chính sách thuế có định hướng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ kinh doanh đó là chu kỳ dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát, sự ổn định nền kinh tế với tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm, lạm phát ở mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững là hướng phấn đấu nỗ lực của mọi chính phủ nhằm san bằng chu kỳ kinh doanh, đưa giá cả về mức ổn định. 2. Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công bằng xã hội: Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này có những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế-xã hội. Do vậy, cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội. Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng. Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho người nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại những mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh thu nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm giảm khát vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của đất nước. 3. Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát: Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động. 4. Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hoà nhập nền kinh tế thế giới: Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc kiệt từ bên ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản xuất được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ. Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong khu vực và trên thế giới. Sự ưu đãi, các hiệp định về thuế, tính thông lệ quốc tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh tế giữa một số quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế. Trước sự đổi mới mạnh mẽ của cơ chế thị trường đòi hỏi hàng loạt các chính sách kinh tế, tài chính phải thay đổi cho phù hợp, trong đó có chính sách thuế khoá. Kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã thông qua hai luật thuế quan trọng là Luật thuế Giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 thay thế cho Luật thuế doanh thu, lợi tức. Vấn đề đặt ra là ngành thuế cũng như các đối tượng sản xuất kinh doanh phải nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh 2 luật thuế này giúp cho Thuế ngày càng có sức khả thi, hiệu quả hơn trong nền kinh tế thị trường. II. Sự cần thiết phảI áp dụng thuế thuế Giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay: 1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế Giá trị gia tăng thay cho thuế Doanh thu: Chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội và nguồn thu cho NSNN. Do đó, Nhà nước có trách nhiệm quan tâm, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất phát triển, lưu thông được thông suốt. Một môi trường đầu tư được coi là thuận lợi nếu trong đó, những cơ chế chính sách được quy định phù hợp, rõ ràng, ổn định, ít có biến động để tạo cho doanh nghiệp yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. ở nước ta, đến thời điểm này, Nhà nước thấy cần thiết phải áp dụng thuế Giá trị gia tăng để thay thế cho thuế doanh thu vì các lý do sau: Với Việt Nam, Thuế doanh thu đã được áp dụng từ rất lâu, trước đây có tên là Thuế doanh nghiệp, từ khi cải cách thuế bước một (từ năm 1990) được đổi tên là Thuế doanh thu. Thuế doanh thu có đặc trưng cơ bản là có nhiều mức thuế suất, phân biệt theo nghành hàng và mặt hàng. Thuế thu hàng tháng và tính trên tổng doanh thu bán hàng, không có khấu trừ thuế đã nộp ở khâu trước. Thuế suất được quy định thấp. Thuế doanh thu có ưu điểm là tính toán đơn giản, thu dứt điểm từng lần bán hàng mà không phải theo dõi thoái trả số thuế đã nộp ở khâu trước. Vì vậy, nguồn thu của các cấp ngân sách và giữa các địa phương cũng tương đối ổn định. Tuy nhiên, thuế doanh thu có nhiều nhược điểm, trong đó, nhược điểm lớn nhất là thu thuế trùng lắp. Thuế doanh thu quy định cứ mỗi lần bán hàng là một lần phải nộp Thuế doanh thu nên càng chuyên môn hoá sâu thì càng phải nộp nhiều thuế. Ngược lại, nếu tổ chức sản xuất khép kín kiểu tự cấp tự túc thì phải nộp ít thuế hơn. Do đó, thuế doanh thu không phù hợp với yêu cầu Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá. Mặt khác, cơ chế thuế có nhiều mức thuế suất để bảo hộ đến từng ngành hàng, mặt hàng chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoặch hoá, thời kì mà giá cả đại bộ phận hàng hoá đều do Nhà nước thống nhất quản lý.Việc quy định quá nhiều thuế suất làm cho sắc thuế phức tạp, tạo kẽ hở để trốn thuế, lách thuế. Mặt khác thuế Doanh thu quy định quá nhiều các trường hợp miễn giảm thuế, nhiều khi không đúng tính chất của thuế gián thu, gây phức tạp cho quá trình thực hiện, quản lý. Sang cơ chế kinh tế thị trường, giá cả hàng hoá do cung- cầu trên thị trường quyết định, nếu vẫn duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo nhiều kẽ hở cho trốn lậu thuế... Chính vì vậy, trong cải cách thuế bước II này, Quốc hội đã quyết định ban hành thuế Giá trị gia tăng để áp dụng từ 1/1/2003 thay thế cho thuế doanh thu. 2. Thuế Giá trị gia tăng và những ưu điểm nổi bật: Thuế Giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Vì chỉ tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ ở từng khâu bán hàng, không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu trước, cho nên cách tính thuế Giá trị gia tăng là rất khoa học, rất cần thiết đối với phát triển sản xuất theo hướng Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá và phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Với bản chất đó, Thuế Giá trị gia tăng có nhiều ưu điểm hơn so với thuế doanh thu, như sau: + Thuế Giá trị gia tăng không thu trùng lắp cho nên góp phần khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. + Thuế Giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm, không tính vào vốn, nên góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian tới. + Thuế Giá trị gia tăng góp phần khuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng xuất khẩu, vì hàng hoá xuất khẩu chẳng những không phải chịu thuế Giá trị gia tăng ở khâu xuất khẩu mà còn được thoái trả lại toàn bộ số thuế đã thu ở các khâu trước. + Thuế Giá trị gia tăng được thu tập trung ngay ở khâu đầu tiên là khâu sản xuất hoặc khâu nhập khẩu hàng hoá và thu ở mỗi khâu đều có thể kiểm tra được việc thu nộp thuế ở khâu trước, cho nên hạn chế được thất thu hơn so với thuế doanh thu. + Thuế Giá trị gia tăng được thực hiện thống nhất và chặt chẽ theo nguyên tắc căn cứ vào hoá đơn mua, bán hàng để khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước. Điều đó có nghĩa là, nếu không có hoá đơn mua hàng ghi rõ số thuế Giá trị gia tăng đã nộp ở khâu trước thì không được khấu trừ thuế. Vì vậy, Thuế Giá trị gia tăng khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh khi mua hàng phải đòi hoá đơn, và khi bán hàng phải có hoá đơn theo đúng quy định. Với nguyên tắc thuế thu ở khâu sau được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước, Thuế Giá trị gia tăng sẽ góp phần hạn chế được những sai sót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn. Hoạt động mua-bán hàng hoá, cung ứng lao vụ, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ được đưa vào nề nếp thành thói quen trong nền kinh tế sẽ là tiền đề cho việc tin học hoá quá trình quản lý sản xuất kinh doanh, hạn chế bớt những sai sót, tiêu cực và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. + Thuế Giá trị gia tăng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho Việt nam hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Rõ ràng, thuế Giá trị gia tăng có nhiều ưu điểm nổi trội hơn thuế doanh thu. Mục đích chủ yếu của việc áp dụng thuế Giá trị gia tăng là tạo thêm thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát triển, chứ không nhằm tăng mức động viên, càng không phải là làm cho doanh nghiệp khó khăn. 2. Nội dung cơ bản của Luật thuế Giá trị gia tăng: Theo luật thuế Giá trị gia tăng đã được quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 11. Nghị định số 28/2003/NĐ-CP. Thông tư số 89/2003/TT-BTC.  Phạm vi áp dụng : a. Đối tượng chịu thuế : Hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt nam là đối tượng chịu thuế Giá trị gia tăng, trừ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế đã quy định trong luật. Do những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định trong từng thời kỳ, luật thuế Giá trị gia tăng quy định 26 nhóm, mặt hàng không thuộc diện chịu thuế Giá trị gia tăng. Đặc điểm của những hoạt động không phải chịu thuế Giá trị gia tăng là: - Những hoạt động nhà nước cần khuyến khích phát triển nhưng đang gặp khó khăn. Ví dụ: Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước do nhà nước bán cho người đang thuê. - Những hoạt động liên quan đến vốn đầu tư. Ví dụ: Dịch vụ tín dụng và quỹ đầu gồm hoạt động cho vay vốn, cho thuế tài chính.. - Những hoạt động sản xuất hàng hoá dịch vụ thiết yếu. Ví dụ: Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế.. - Những hoạt động không mang tính kinh doanh. Ví dụ: Vũ khí, khí tài phục vụ quốc phòng an ninh.. - Những hoạt động cần ưu đãi nhưng ở mức độ vừa phải. Ví dụ: Hàng miễn thuế bán tại cảng, ga, sân bay.. - Những hàng hoá mang tính chất xử lý về mặt kĩ thuật đánh thuế. Ví dụ: Hàng hoá dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. - Những hàng hoá không mang tính chất gia tăng, tiêu dùng tại Việt nam hoặc theo những quan hệ kinh tế đối ngoại. Ví dụ: Hàng chuyển khẩu, quá cảnh.. Những hàng hoá thuộc diện chịu thuế Giá trị gia tăng không phải nộp thuế Giá trị gia tăng đầu vào, nhưng không được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu ra. b. Đối tượng nộp thuế: Các tổ chức cá nhân, sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế Giá trị gia tăng ( gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế Giá trị gia tăng.  Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế: a. Căn cứ tính thuế Giá trị gia tăng : là giá tính thuế và thuế suất: - Giá tính thuế : Nguyên tắc chung: Giá tính thuế là giá chưa có thuế Giá trị gia tăng + Đối với hàng hoá dịch vụ do cơ sở sản xuất kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác, giá tính thuế Giá trị gia tăng là giá bán chưa có thuế Giá trị gia tăng. + Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu. + Đối với hàng hoá dịch vụ để trao đổi sử dụng nội bộ biếu tặng, giá tính thuế Giá trị gia tăng được xác định theo giá tính thuế của từng hàng hoá dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các loại hoạt động này. + Đối với hoạt động cho thuê tài sản, giá tính thuế Giá trị gia tăng là tiền cho thuê trong từng kỳ. + Đối với gia công hàng hoá, giá tính thuế Giá trị gia tăng là giá gia công chưa có thuế bao gồm: Tiền công, tiền nhiên liệu, động lực vật liệu phụ và chi phí khác để gia công. + Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt giá tính thuế Giá trị gia tăng là giá xây dựng, lắp đặt chưa có thuế Giá trị gia tăng. + Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng, giá tính thuế Giá trị gia tăng là tiền công hoặc tiền hoa hồng đựơc hưởng chưa trừ khoản phí tổn nào. + Đối với hoạt động vận tải, bốc xếp giá tính thuế Giá trị gia tăng là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế Giá trị gia tăng. + Đối với hàng hoá, dịch vụ đặc thù được xác định như sau: Giá tính thuế giá trị gia tăng - Giá thanh toán = ------------------------------------1+ Thuế suất(%) thuế GTGT Thuế suất: Luật thuế Giá trị gia tăng quy định 4 mức thuế suất: 0%,5%,10%,20%. Mục đích của việc quy định 4 mức thuế suất này là nhằm khắc phục nhược điểm của thuế Doanh thu, là một bước giảm bớt đáng kể sự phức tạp và kém hiệu quả của cơ chế đa thuế suất. Đồng thời thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá, dịch vụ của nhà nước. + Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu. + Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng. + Mức thuế suất 10% là thuế suất phổ thông áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ thông thường nhằm đảm bảo số thu cho NSNN. + Mức thuế suất 20% áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ không thiết yếu mà nhà nước cần điều tiết: . Vàng bạc đá quý do cơ sở kinh doanh mua vào bán ra. . Khách sạn du lịch ăn uống . Xổ số kiến thiết. . Đại lý tàu biển. . Dịch vụ môi giới. b. Phương pháp tính thuế: Có 2 phương pháp tính thuế Giá trị gia tăng: Phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên Giá trị gia tăng. @ Phương pháp khấu trừ thuế: - Đối tượng và điều kiện áp dụng: Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho tất cả các cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các quy định của chế độ hoá đơn, chứng từ. - Cách tính thuế GTGT phải nộp: Thuế Giá trị gia tăng phải nộp Thuế GTGT = Thuế Giá trị gia tăng đầu ra = đầu vào - đầu vào Giá tính thuế của = Thuế Giá trị gia tăng đầu ra Thuế GTGT HH,DV bán ra Thuế suất thuế x gtgt HH,DV đó. Tổng thuế GTGT đã thanh toán ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá, nhập khẩu @ Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: - Đối tượng và điều kiện áp dụng: Là các cá nhân, tổ chức kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ, các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đã quý, ngoại tệ. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn bán hàng là giá đã có thuế GTGT. - Cách tính thuế : Số thuế GTGT phải nộp GTGT của hàng hoá = dịch vụ chịu thuế Thuế suất GTGT x của hàng hoá DV Trong đó: GTGT của hàng hóa Giá thanh toán của = dịch vụ c. Giá TT của hàng hoá - hàng hoá DV bán ra DV mua vào tương ứng Khấu trừ thuế Giá trị gia tăng đầu vào: + Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng thì được khấu trừ toàn bộ . + Thuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng đồng thời cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng. + Thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó. + Thuế đã trả cho hàng hoá, vật tư, tài sản cố định, dịch vụ mua vào để sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế Giá trị gia tăng thì không được khấu trừ. + Riêng với tài sản cố định, nếu có số thuế đầu vào được khấu trừ lớn thì được phép khấu trừ dần hoặc được hoàn thuế.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng