Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ban sac van hoa dan toc...

Tài liệu Ban sac van hoa dan toc

.DOC
23
351
126

Mô tả:

1 Bản sắc văn hoá dân tộc trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay Mở đầu Toàn cấu hoá là một xu thế khách quan của thời đại lôi cuốn tất cả các quốc gia dân tộc tham gia, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Toàn cầu hoá như “con dao hai lưỡi” vừa có mặt tích cực lại vừa có mặt tiêu cực, vừa là thời cơ nhưng cũng là những thách thức không nhỏ khi tham gia vào “cuộc chơi chung” này. Toàn cầu hoá nói chung và toàn cầu hoá kinh tế nói riêng lấy tiến bộ khoa học - kỹ thuật làm cơ sở, lấy quốc gia phát triển làm chủ đạo, lấy các công ty đa quốc gia làm động lực chủ yếu thúc đẩy mọi hoạt động trên phạm vi toàn thế giới. Nó cũng lấy kỹ thuật số làm mũi đột phá vào sản xuất, tiêu thụ, tài chính và kỹ thuật. Các công ty xuyên quốc gia thông qua đầu tư quốc tế tăng cường sản xuất, tiêu thụ, từ đó hình thành nên thể chế quan hệ quốc tế, các kết cấu đầu tư và ngành nghề mới. Từ sự phát triển cao của kỹ thuật thông tin mà sức sản xuất xã hội phát triển mãnh liệt; yếu tố thị trường ngày càng tham dự, thẩm thấu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội và phương thức sinh hoạt xã hội, vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước đang phát triển. Nếu tác động của toàn cầu hoá trên; lĩnh vực kinh tế, chính trị là hết sức sôi động và dễ nhận dạng thì trên lĩnh vực văn hoá tuy không kém phần mạnh mẽ nhưng lại mang tính “thẩm thấu” không phải bất cứ ai cũng có thể dễ dàng nhận ra. Bản sắc văn hoá dân tộc là những gì thuần khiết, thiêng liêng, cốt lõi và riêng có của mỗi quốc gia dân tộc, nó như một cái “thẻ căn cước” để 2 phân biệt các quốc gia dân tộc trên thế giới, là động lực nội tại mạnh mẽ nhất thể hiện bản lĩnh và khả năng phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Trước tác động của xu thế toàn cầu hoá, bản sắc văn hoá dân tộc ta đang có những biến đổi phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải nghiêm túc tự xem xét, tự nhận định lại mình để phát huy những tác động tích cực, thể hiện bản lĩnh và bản sắc văn hoá Việt Nam, giữ gìn và phát huy, phát triển những truyền thống tốt đẹp, đưa đất nước ta vững bước trên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. “Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 1 nội dung 1. Toàn cầu hoá và tác động của nó đến bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam hiện nay. 1.1. Toàn cầu hoá là xu thế khách quan của thời đại. Toàn cầu hoá là vấn đề đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử của nhân loại và đã được rất nhiều học giả nghiên cứu, bàn luận dưới những góc độ 1 ĐCSVN, Văn kiện Nghị quyết ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 114. 3 tiếp cận khác nhau. Cho đến nay đã có hàng trăm khái niệm về “toàn cầu hoá” dưới góc độ nghiên cứu khác nhau. Dưới góc độ chính trị - xã hội, chúng ta có thể hiểu toàn cầu hoá, xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới, hay nói như C.Mác, là quá trình lịch sử biến thành lịch sử thế giới. Toàn cầu hoá là giai đoạn mới, giai đoạn phát triển cao của quá trình quốc tế hoá đã diễn ra từ nhiều thế kỷ trước đây. Nói đến toàn cầu hoá là nói đến mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc, sự ràng buộc này được thể hiện trong nội dung của những quy ước, định chế của các tổ chức mang tính chất quốc tế, tạo thành những “luật chơi chung” bắt buộc các quốc gia tham gia phải tuân thủ. Toàn cầu hoá còn là một xu thế mà mỗi quốc gia dân tộc không thể tự tách mình ra khỏi cộng đồng quốc, không thể đơn lập mà có thể phát triển và giải quyết được những vấn đề mang tính chất chính trị - xã hội phức tạp hiện nay. Toàn cầu hoá là xu thế khách quan của thời đại, nó là kết quả tất yếu của quá trình vận động của lịch sử và có nguồn gốc sâu xa, xét đến cùng từ nguyên nhân kinh tế, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc gia và quốc tế, từ nền kinh tế thị trường thế giới. Sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với quá trình biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát triển của công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vũ trụ...) đã làm thay đổi về chất, lượng sản xuất của loài người, đưa loài người từ nền văn minh công nghiệp lên nền văn minh tin học, từ cơ khí hoá sản xuất lên tự động hoá, tin học hoá sản xuất. Cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra sự biến đổi căn bản và sâu sắc không những trong công nghệ, trong sản 4 xuất, mà còn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mà cụ thể là tính chất xã hội hoá ngày càng cao, trình độ phân công lao động ngày càng sâu sắc, càng thúc đẩy nhu cầu hợp tác, liên kết với nhau giữa người lao động, giữa các tổ chức và quốc gia dân tộc trên toàn thế giới. Ngay từ thế kỷ XIX, khi nền đại công nghiệp mới ra đời và đang giai đoạn phát triển, Mác và Ăngghen đã sớm nhận ra xu thế khách quan của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc trên thế giới và khẳng định rằng: chính "đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới", "Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới... Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc.”2. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguyên nhân tất yếu dẫn đến mối liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc. Những mối liên hệ trên trước tiên được thực hiện trên lĩnh vực kinh tế, vì lợi ích kinh tế, tuy nhiên nó lại tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mác và Ăngghen cũng đã chỉ rõ: “sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc, trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc.”3 Trong “dòng chảy” của lịch sử, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển theo xu thế khách quan vốn có của nó. Đến những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, lực lượng sản xuất xã hội lại có những bước phát triển nhảy vọt có tính chất “vạch thời đại”. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, đặc biệt là trên lĩnh vực công nghệ thông tin. Khoa học và công nghệ trở thành “lực lượng sản xuất hàng đầu”, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành chất xúc tác, điều 2 3 C.Mác - Ăngghen toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 601. C.Mác - Ăngghen toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 602. 5 kiện, tiền đề vô cùng thuận lợi cho hoạt động hợp tác và giao lưu quốc tế, thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá và tạo ra hiện thực xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Toàn cầu hoá là một tất yếu khách quan, là sự vận động tất yếu của của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Tuy nhiên, do những biến đổi mau lẹ của lịch sử mà vấn đề toàn cầu hoá hiện nay đang có những biểu hiện hết sức phức tạp, lôi cuốn mọi quốc gia dù muốn hay không muốn cũng phải tham gia với những phạm vi, mức độ khác nhau . Các nước phát triển tham gia toàn cầu hoá với mục đích khai thác nguồn nguyên liệu, nhân lực rẻ từ những nước đang phát triển và chậm phát triển, đồng thời là điều kiện để các nước này mở mang, khai thác thị trường, xuất khẩu vốn và công nghệ để mang lại lợi nhuận cho nước mình; các nước đang phát triển và chậm phát triển lại tham gia với mong muốn tiếp cận, học hỏi và tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, tận dụng nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, tiếp thu kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất, thúc đẩy sản xuất trong nước, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Tuy nhiên, do ưu thế về vốn và khoa học, công nghệ, các nước tư bản phát triển đang lợi dụng xu thế toàn cầu hoá để đặt điều kiện, áp đặt, ràng buộc và khống chế các nước chậm phát triển, buộc các nước này phải đi theo quỹ đạo do chúng vạch ra và dĩ nhiên là có lợi hơn cho các nước phát triển. Do đó, toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay đang mang đậm “màu sắc” tư bản chủ nghĩa. Hiện nay chủ nghĩa tư bản đang thống trị phần lớn thế giới. Sau khi tạm thắng thế trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản đang chuyển sang giai đoạn mới mà có người gọi là giai đoạn “chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá”. Điều trái ngược là trong khi các nhà tư tưởng và chính khách phương Tây cao giọng về cuộc diễu hành thắng lợi của chủ nghĩa tư 6 bản - họ tự gọi là “chủ nghĩa tư bản” không úp mở - thì nhiều người xã hội chủ nghĩa lại phủ nhận tính chất thuần tuý tư bản chủ nghĩa của các “xã hội hiện đại”. Toàn bộ dữ kiện thực tế chứng minh rằng, toàn cầu hoá là xu thế khách quan, bắt nguồn từ sự quốc tế hoá của sức sản xuất dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại; nhưng trong điều kiện hiện nay, xét về quan hệ sản xuất, mặt giai cấp, về cơ bản đó là quá trình tư bản độc quyền bành trướng ra phạm vi toàn cầu. Tính chất tư bản chủ nghĩa của toàn cầu hoá không khó thấy khi các nước tư bản chủ nghĩa giàu có nhất, các công ty tư bản xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất như vốn, kỹ thuật, công nghệ, các tổ chức và thể chế kinh tế tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế để tác động lên toàn thế giới. Họ nắm cả những phương tiện hùng mạnh nhất trong lĩnh vực sản xuất tinh thần và tác động tinh thần, cả những nguồn lực quan trọng nhất về chất xám... Lịch sử đi lên phía trước, thậm chí đi nhanh, với “toàn cầu hoá”. Chủ nghĩa tư bản với toàn cầu hoá - nếu có thể gọi như thế - đó là thứ chủ nghĩa tư bản đang chuẩn bị ngày càng đầy đủ nhất những tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là nhân loại đang đi đến một cái “làng toàn cầu” không giai cấp, không dân tộc, không biên giới quốc gia. Toàn cầu hoá khi ưu thế thuộc về chủ nghĩa tư bản thì về bản chất là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên kết, hội nhập, vừa đấu tranh; trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh quyết liệt vì sự toàn cầu hoá bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc, vì một xã hội quốc tế công bằng, ngày càng thoát khỏi bá quyền áp đặt, thoát khỏi sự khống chế và can thiệp phi đạo lý của các thế lực đế quốc tư bản quốc tế với các dân tộc và nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 7 Từ những lý do trên mà toàn cầu hoá hiện nay mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực; vừa là thuận lợi, thời cơ, vừa là khó khăn, thử thách đối với mọi quốc gia tham gia nhất là đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Nếu run sợ trước những thách thức mà không dám hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá thì sẽ bỏ lỡ thời cơ, không phát huy được ưu thế và nguồn lực để phát triển; ngược lại, nếu hội nhập vội vàng, vô nguyên tắc, thiếu tính toán thì sẽ vấp phải sai lầm, thua thiệt và bị phụ thuộc, thậm chí đổ vỡ là không thể tránh khỏi. Tuy là một xu thế khách quan nhưng việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá như thế nào? tác động của nó theo chiều hướng nào? còn phụ thuộc bản lĩnh và những điều kiện cụ thể của từng quốc gia dân tộc. Dưới quan điểm lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp xem xét khách quan, khoa học. Đảng ta nhận rõ xu thế của thời đại và khẳng định: “Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”4, từ đó Đảng ta thực hiện “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế động thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác.”5. Đây là quan điểm đúng đắn, phù hợp với xu thế khách quan của thời đại và phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực nước ta đã phát huy được lợi thế, tận dụng thời cơ để thu được những thành tựu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, quá trình này cũng đang đặt nước ta trước những thách thức, đòi hỏi chúng ta phải có những 4 5 ĐCSVN, Văn kiện Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 73. SĐD, tr. 120. 8 bước đi phù hợp mới có thể đạt được mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã đặt ra. 1.2. Tác động của toàn cầu hoá đến bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam hiện nay. Bản sắc văn hoá dân tộc là tổng thể những giá trị văn hoá đặc trưng của dân tộc Việt Nam được hình thành, tồn tại và phát triển trong suốt quá trình lịch sử lâu dài của dân tộc. Khi nói đến bản sắc văn hoá dân tộc là nói đến yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc, là động lực nội tại tạo nên bản lĩnh, sức sống, sự từng trải của dân tộc, nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng trường tồn trước những thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Có thể nói, bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam như là “cái căn cước” đặc trưng của dân tộc Việt Nam, cái để phân biệt dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới; mặt khác, chính bản sắc dân tộc Việt Nam lại trở thành động lực bên trong thiêng liêng nhất thúc đẩy con người và cả dân tộc vững vàng trải qua các thử thách lịch sử, trở thành động lực hết sức quan trọng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh rằng: “Trong khi chăm lo phát triển kinh tế, coi đó là nhiệm vụ trung tâm, chúng ta nhận thức sâu sắc rằng động lực tao ra sự phồn vinh và phát triển lâu bền của quốc gia, không chỉ đơn thuần là vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến và tài nguyên thiên nhiên giàu có, mặc dù điều đó là quan trọng; mà chủ yếu là tài trí con người, do khả năng sáng tạo của toàn dân được hình thành từ truyền thống văn hoá Việt Nam. Đó là kho tàng tri thức, tâm hồn, đạo lý, tính cách, lối sống, trình độ thẩm mỹ của từng người và của cả cộng đồng dân tộc.”6 Bản sắc văn hoá dân tộc được thể hiện bởi những truyền thống văn hoá ổn định của dân tộc, được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử dựng 6 Đỗ Mười, Bài phát biểu nhân dịp về giỗ tổ Hùng Vương 1/4/1995, báo nhân dân ngày 8/4/1995. 9 nước và giữ nước của dân tộc ta. Bản sắc văn hoá không phải phép cộng toàn bộ những truyền thống mà dân tộc đã xây dựng được, mà nó là tổng hoà những truyền thống đó hoặc là những truyền thống cốt lõi ít biến đổi trước những thay đổi của lịch sử. Nói như vậy, có nghĩa là, tuy mang tính bền vững, ổn định song bản sắc văn hoá không phải là cái vĩnh hằng, một cái gì “nhất thành bất biến”, nó vận động biến đổi không ngừng cùng với sự biến đổi của lịch sử dân tộc, nó sẽ không ngừng được chọn lọc, bổ sung những giá trị mới do sự thay đổi của thời đại đem lại. Do vậy, việc phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc phải kết hợp với kế thừa và phát triển nó cho phù hợp với điều kiện mới, trong quá trình ấy, văn hoá dân tộc vừa phát huy những giá trị ưu tú vốn có của bản thân, vừa tiếp thu và biến thành của mình những nhân tố mới từ bên ngoài. Với ý nghĩa đó, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc không đồng nghĩa với sự đóng kín kỳ thị đối với nền văn hoá khác. Các nền văn hoá luôn luôn trao đổi với nhau. Lịch sử các nền văn minh nhân loại cho thấy sự giao lưu văn hoá làm cho các nền văn hoá cùng phát triển nhanh hơn. Do đó, việc mở rộng các quan hệ giao lưu, hợp tác về văn hoá giữa các nước trên thế giới nói chung và khu vực nói riêng là rất quan trọng và cần thiết; đồng thời cũng cần phải tránh xu hướng tuyệt đối hoá những giá trị mới, xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm hoà tan bản sắc văn hoá dân tộc và trở thành cái “bóng mờ” của các dân tộc khác, nhất là trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, Đảng ta đã lưu ý rằng: “Đã vào kinh tế thị trường, hiện đại hoá đất nước mà xa rời giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc văn 10 hoá dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.”7 Xây dựng, phát triển văn hoá dân tộc, giữ vững độc lập dân tộc là không dựa vào văn hoá của dân tộc khác và cũng không phải là sự đóng cửa, cô lập. Thông qua mở của, hội nhập, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia không ngừng tăng thêm sức sống của nền văn hoá dân tộc mình, khiến cho văn hoá dân tộc có được tính độc lập và tính chủ động. Xây dựng nền văn hoá dân tộc thính ứng với trào lưu văn hoá nhân loại không phải là sự phủ định tính dân tộc mà còn làm phong phú, phát triển tính dân tộc, làm cho văn hoá dân tộc đạt được tính quy định của thời đại. Trong toàn cầu hoá kinh tế phải thấy được tính dân tộc và tinh thần thời đại, để bổ sung vào hệ giá trị của văn hoá truyền thống. Do đó, phải suy nghĩ đến vấn đề kế thừa truyền thống văn hoá dân tộc và hấp thụ tinh hoa văn hoá thế giới; tham chiếu tiêu chuẩn toàn cầu hoá và dân tộc hoá để nhận ra cần kế thừa cái gì, bổ sung cái gì. Vấn đề kế thừa truyền thống phải nhìn nhận từ yêu cầu thực tiễn đời sống của xã hội hiện nay. Văn hoá truyền thống chính là giá trị lâu đời của dân tộc, nhưng điều quan trọng để xây dựng nền văn hoá dân tộc là phải dựa vào thực tiễn xã hội hiện nay. Không được đồng nhất các giá trị truyền thống với các lệ tục, hủ tục. Mặt khác, cũng không thể không đề phòng sự xâm nhập của nền văn hoá tiêu thụ, lối sống, cách sống thực dụng chạy theo giá trị vật chất, xa lạ với đạo đức, tâm lý, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Như vậy, từ thực tiễn sinh hoạt xã hội, phải tìm được cái gì là lành mạnh, thoả mãn yêu cầu thực tiễn xã hội đương đại, từ đó bổ sung và phát huy hệ giá trị văn hoá dân tộc. Xác định giá trị và ý nghĩa truyền thống 7 ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ VII BCHTW khoá VII, Nxb CTQG, h. 1993, tr. 6. 11 trong quá trình phát triển xã hội đương đại, từ đó xác định nội dung và phương hướng phát triển văn hoá dân tộc. Điều mấu chốt phải làm rõ là trong bối cảnh toàn cầu hoá, trước yêu cầu của thực tiễn xã hội lựa chọn vấn đề phát triển văn hoá và quá trình sáng tạo lại văn hoá, chính là tiếp nhận cái gì hợp lý thích ứng với yêu cầu thời đại và nhiệm vu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tìm ra vấn đề của xã hội đương đại và đặc tính của dân tộc là yêu cầu quan trọng phát triển văn hoá trong giao lưu toàn cầu. Như vậy, giao lưu văn hoá và hội nhập vào thực tiễn toàn cầu hoá kinh tế chính là cơ hội phát triển văn hoá dân tộc. Khi nói đến vai trò của bản sắc văn hoá dân tộc, chúng ta còn phải khẳng định rằng: Bản sắc văn hoá dân tộc chính là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn người con đất Việt, là cơ sở cốt lõi tạo thành khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Thử hỏi? Mấy ai lớn lên mà tâm hồn không được dìu dắt, vun đắp bởi những tiếng ru ngọt ngào thấm đậm đạo lý và tình người của người Việt Nam; mấy ai đi xa quê và trưởng thành có thể dễ dàng quên được hình bóng, hương sắc của nơi “trôn rau cắt rốn” của mình. Thực tiễn đã chứng minh hiện nay chúng ta có hơn 5 triệu đồng bào đang làm ăn, sinh sống ở nước ngoài, nhưng thử hỏi chắc gì đã mấy người quên được những khẩu vị Việt Nam, quên được những hình ảnh quê nhà cho dù bần hàn nhưng đằm thắm tình người - cái mà nơi “đất khách quê người” họ không thể nào cảm nhận được... Cũng chính từ cái bản sắc văn hoá Việt Nam đã làm khơi dậy trong lòng các thế hệ con người Việt Nam, dù đang sinh sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài, dù người già, người trẻ, đàn ông, đàn bà, người có đạo hay không có đạo..., một tình cảm gắn bó, thân thiết với đúng danh nghĩa của từ “đồng bào”. Dù ở một nước tư bản phát triển hay những nước còn đang ở trình độ lạc hậu của nền văn minh, nhưng nếu thấy hình bóng chiếc áo dài, nón lá hay hình ảnh trống đồng là cũng có thể nảy 12 sinh một tình cảm đắc biệt mà chỉ có người Việt Nam mới hiểu hết ý nghĩa gần gũi đích thực của nó. Khó có thể kể hết vai trò của bản sắc văn hoá dân tộc với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, cũng như những đặc trưng cơ bản của nó, bất kỳ ai cũng có thể nhận biết được một cách rõ ràng về văn hoá và truyền thống đậm đà của dân tộc Việt Nam đó là: con người Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, có lối ứng xử trọng tình, trọng nghĩa, tôn trọng đạo lý; cách giao tiếp cởi mở, nồng hậu, dễ dàng tiếp nhận, hoà nhập để “nội địa hoá” yếu tố ngoại lai; là con người có lối sống giản dị, khiêm tốn, kính trên, nhường dưới; là con người có tính cố kết cộng đồng coi nhau trong ý nghĩa “đồng bào”... Cũng có thể có nhiều biểu hiện mà con người của các dân tộc khác cũng có và dường như rất rõ. Nhưng nếu xét chi tiết, những biểu hiện của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam không có dân tộc nào có thể sánh bằng. Nói ví dụ về lòng yêu nước. Đây không phải là sắc thái tình cảm chỉ có người Việt Nam mới có, các nước xung quanh ta như: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên... cũng đều có. Tuy nhiên, sắc thái của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam có những biểu hiện hết sức độc đáo mà các nước kể trên không thể có. Lòng yêu nước của người Việt Nam không chỉ dừng lại ở sự tôn trọng, yêu quý nơi sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn trở thành đạo lý tình người, trở thành “Chủ nghĩa yêu nước” rất Việt Nam, nó không dừng lại ở tình cảm đối với quê hương đất nước mà còn là ý thức tự hào dân tộc, là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Như vậy lòng yêu nước của người Việt Nam đã xuất phát từ tình cảm tôn trọng, yêu quý quê hương và đã được nâng lên thành niềm tin tín ngưỡng, thành đạo lý sống của từng người dân đất Việt. Khi nói về những truyền thống tốt đẹp và tinh thần yêu nước của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nhân dân ta sẵn có truyền thống tốt 13 đẹp là lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, lại có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chúng ta cần phát huy truyền thống và tinh thần ấy.”8 Tóm lại, bản sắc văn hoá dân tộc là yếu tố hết sức quan trọng, là động lực nội tại cao quý và thiêng liêng có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển trường tồn của dân tộc ta. Bản sắc văn hoá dân tộc ta được hình thành và củng cố vững chắc gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đến lượt nó, khi đã hình thành lại trở thành niềm tự hào của con người và cả cộng đồng dân tộc, là động lực thúc đẩy quá trình đựng nước và giữ nước. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là nghĩa vụ, trách nhiệm và niềm vinh dự của các thế hệ Việt Nam, là thể hiện tinh thần, cốt cách và bản lĩnh của dân tộc ta trong mọi thử thách của lịch sử. * * * Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang tác động mạnh mẽ đến mọi yếu tố, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, trong đó có bản sắc văn hoá dân tộc. Nó vừa tạo ra thời cơ, điều kiện thuận lợi cho quá trình bảo tồn, phát huy, phát triển sâu sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trước những nguy cơ có thể “sói mòn”, “mờ nhạt” những truyền thống quý báu đó. Quá trình toàn cầu hoá tạo điều kiện cho đất nước ta hội nhập quốc tế và khu vực, từng bước tiếp cận với nền văn hoá quốc tế, là cơ sở để chúng ta tự khẳng định mình, tiếp xúc, giao lưu, học hỏi làm giàu thêm truyền thống văn hoá dân tộc. Quá trình hội nhập quốc tế và khu vực với lộ trình hợp lý đã thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước lên một tầm cao mới, vị thế của Việt Nam 8 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 6. 14 trên trường quốc tế được nâng lên rõ rệt kéo theo sự khâm phục, kính trọng của nhân loại tiến bộ đối với đất nước, con người và bản sắc văn hoá Việt Nam. Những thành tựu của đất nước trong những năm qua đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên tầm cao hơn - yêu nước gắn với yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, yêu chuộng hoà bình. Thành tựu của công cuộc đổi mới càng củng cố niềm tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng, tin vào con đường cách mạng Việt Nam, giấy lên tự hào ở mỗi người dân Việt Nam; với những tiến bộ đáng khích lệ trên lĩnh vực kinh tế, đời sống văn hoá - tinh thần của người dân cũng được nâng lên rõ rệt. Với quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hàng loạt những hoạt động văn hoá truyền thống dân tộc được phục hồi và phát triển, thể hiện đời sống văn hoá - tinh thần phong phú của nhân dân, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn của dân tộc”. Lễ hội giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch) không chỉ khơi dậy cố kết cộng đồng, tinh thần yêu nước và đạo lý, lẽ sống của con người Việt Nam mà còn là dịp để dân tộc ta thể hiện bản sắc, đạo lý, lẽ sống của dân tộc cho nhân loại thế giới hiểu rõ hơn. Những lễ hội dân gian của các làng quê, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam cũng không ngoài ý nghĩa đó. Xu thế toàn cầu hoá cũng tạo ra cơ hội cho dân tộc ta có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá dân tộc trên thế giới, từ đó tiếp thu có lựa chọn những giá trị tích cực làm phong phú thêm bản sắc văn hoá dân tộc. Thông qua hội nhập, giao lưu quốc tế đã phát huy tính năng động, sáng tạo và bản lĩnh con người Việt Nam trên trường quốc tế. Những giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên, văn hoá nghệ thuật, 15 thể thao... đã chứng tỏ tiềm năng, trí tuệ của con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng đang cho phép chúng ta phát triển mạnh mẽ các thiết chế văn hoá, hiện đại hoá các phương tiện văn hoá thông tin và nâng cao khả năng tổ chức, quản lý các hoạt động văn hoá tinh thần trong toàn xã hội... Bên cạnh những tác động tích cực kể trên, toàn cầu hoá cũng đặt bản sắc văn hoá dân tộc ta trước những khó khăn, thử thách không nhỏ, trong đó nguy cơ về sự băng hoại những chuẩn mực đạo đức lối sống của một bộ phận dân cư là rất đáng lo ngại. Khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, bên cạnh những “luồng gió mát”, cũng có không ít “luồng gió độc” tràn vào nước ta kéo theo những âm mưu phá hoại của kẻ thù làm cho đời sống văn hoá - tinh thần của dân tộc xuất hiện những vấn đề hết sức phức tạp, xuất hiện những lối sống, cách sống xa lạ, trái với những chuẩn mực của xã hội, bất chấp những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Một bộ phần trong các tầng lớp, các thành phần xã hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã trà đạp lên những khuôn mẫu, những giá tri đạo đức đích thực của xã hội. Không ít lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống thực dụng, buông thả sùng bái đồng tiền, quay lưng lại với văn hoá, đạo đức truyền thống. Những phong tục, tập quán được coi là thuần phong mỹ tục, nay được thế hệ trẻ coi là “cổ hủ”. Những hạn chế trong công tác quản lý giáo dục đang tạo ra cho thế hệ trẻ những “lỗ hổng” về lịch sử dân tộc, sự hẫng hụt về đạo đức, lối sống ngay trong tâm hồn người học. Đặc biệt là “tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà trà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng 16 chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và ma tuý phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng”9. Toàn cầu hoá thúc đẩy sự gia tăng các sản phẩm thuộc loại hình văn hoá đại chúng. Nhiều sản phẩm văn hoá ra đời vội vã, chạy theo lợi nhuận và hiệu quả thương mại hoặc chiều theo “thị hiếu đổng đảnh” của người tiếp nhận. Người ta dễ quay lưng lại với những giá trị tinh thần cao đẹp, kéo văn hoá tụt xuống dung tục tầm thường, tạo ra những “chướng ngại” cho sự nâng cao mặt bằng dân trí, làm ô nhiễm môi trường văn hoá. Văn hoá hình chiếm lĩnh hết cả không gian và thời gian, uy hiếp văn hoá đọc, văn hoá chữ, tạo cho thanh, thiếu niên sức ỳ và thói lười biếng. Nhiều người bị chói chặt vào màn hình, màn số, mải mề với thú vui ẩm thực, nhạc nhẹ, nhạc pốp, thời trang và hoa hậu... đang quên đi những lĩnh vực tinh thần phong phú và đa dạng có chiều sâu văn hoá. Văn minh kỹ trị đem lại tiện nghi tiện lợi nhưng cũng dễ đẩy con người vào cực khác: cô đơn, vô cảm, sống gấp, ích kỷ và thờ ơ với tất cả. Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhưng cũng phải chủ động đấu tranh với những hiện tượng phản văn hoá, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc; khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn; kiên quyết đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, trên cơ sở giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Lợi dung các hoạt động hợp tác, liên kết trong mọi lĩnh vực, chủ nghĩa đế quốc đang thực hiện mưu đồ phá hoại đời sống văn hoá - tinh thần của dân tộc ta; lợi dung những sai lầm trong quản lý xã hội để kích động, 9 ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị TW5 khoá VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 137. 17 thổi phồng gây mâu thuẫn trong tầng lớp nhân dân, thực hiện truyền đạo trái phép; tạo hiềm khích gây mất đoàn kết giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam - một nét đẹp của truyền thống dựng nước và giữ nước. Mặt khác, với các chiêu bài cam kết hợp tác đầu tư về kinh tế, các nước tư bản phát triển đang đặt điều kiện, áp đặt các chuẩn mực giá trị Phương Tây vào nước ta, làm mờ đi những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc Việt Nam. Có thể nói “Quá trình toàn cầu hoá nếu ở lĩnh vực này là sự mở rộng những tiến bộ và văn minh, thì ở lĩnh vực khác lại chỉ là thoái bộ, là sự thâm nhập của những điều kỳ quái, thậm chí lạc hậu và vô nhân đạo... Trong trường hợp, toàn cầu hoá còn là sự xâm lược của giá trị này đối với giá trị khác, sự loại bỏ, thậm chí tiêu diệt bản sắc và sự đa dạng về văn hoá”10 Tóm lại, toàn cầu hoá luôn mang tính hai mặt, vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Chống lại toàn cầu hoá là đi ngược lai quy luật khách quan của lịch sử, nhưng khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, chúng ta phải hết sức thận trọng, có tính toán kỹ lưỡng và lộ trình hợp lý để một mặt phát huy những tác động tích cực của nó, hạn chế những tác động tiêu cực để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững hoà bình, ổn định xã hội và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của toàn xã hội. 2. Một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở nước ta hiện nay 1.1. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động văn hoá - xã hội. Đặng Cảnh Khanh, vấn đề toàn cầu hoá và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Tạp chí cộng sản số 14 tháng 7 năm 2000, tr. 83. 10 18 Vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá - xã hội giữ vai trò tiên quyết trong bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Nhà nước quản lý hoạt động văn hoá - xã hội thông qua các chủ trương, chính sách văn hoá và hoạt động của các tổ chức, cơ quan tư tưởng - văn hoá. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá - xã hội trước hết là phải hoàn thiện những chính sách, pháp chế văn hoá để tạo “hành lang pháp lý”, điều kiện thuận lợi để nhân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật; tạo môi trường thuận lợi cho quảng đại quần chúng nhân dân tham gia vào quá trình sáng tạo văn hoá, nghiên cứu, phục hồi và phát triển những truyền thống văn hoá của dân tộc. Đồng thời cũng là cơ sở để nhân dân phân biệt và đấu tranh với những biểu hiện văn hoá xấu độc, đi ngược lại thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hoá của dân tộc. Nhà nước cần có đầu tư thích đáng cho các hoạt động văn hoá truyền thống mang sắc thái đặc trưng của dân tộc như các lễ hội truyền thống, các loại hình nghệ thuật ca ngợi tinh thần yêu nước, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tôn sùng đạo lý, phân biệt cái đẹp, cái tiến bộ, khích lệ niềm tự hào dân tộc và kích thích năng động sáng tạo, đạo lý nhân nghĩa, nhân văn của con người Việt Nam. Phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ và các cơ quan làm công tác văn hoá thông tin; nâng cao chất lượng công tác kiểm duyệt văn hoá, không để các loại hình văn hoá lai căng, độc hại thâm nhập vào đời sống văn hoá - tinh thần của xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền văn hoá, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hoá như hệ thống bảo tàng, nhà văn hoá, thư viện, khu vui chơi giải trí, nhà thông tin, khu thể thao... 19 Trú trọng bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, các danh lam thắng cảnh và khai thác tốt kho tàng văn hoá cổ truyền của dân tộc. Từng bước hiện đại hoá các phương tiện tuyên truyền và quản lý văn hoá nhằm nâng cao trình độ nhận thức và sáng tạo văn hoá của nhân dân. 2.2. Phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong giáo dục đạo đức, lối sống cho xã hội, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Giáo dục đạo đức, lối sống là con đường, biên pháp để xây dựng những thế hệ người Việt Nam phát triển về chính trị, tư tưởng và đạo đức, lối sống, củng cố truyền thống nhân đạo, nhân văn, tôn trọng nghĩa tình và bao dung của người Việt Nam. Trước những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá thì sự “xuống cấp” về đạo đức, lối sống của một bộ phận dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay là rất đáng báo động. Xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, tiến bộ là nội dung hết sức quan trọng trong việc xây dựng đời sống văn hoá - tinh thần của dân tộc, đến lượt nó văn hoá lại trở thành “nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách”11. Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay phải được tiến hành đồng bộ ở cả gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Trong đó gia đình được coi là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người, là môi trường xã hội gần gũi nhất của mỗi cá nhân. Giáo dục gia đình còn là tiền đề xuất phát cho hoạt động giáo dục ở nhà trường và xã hội, là nơi trực tiếp hình thành và phát triển nhân cách con người. Thực tế chỉ ra rằng, 11 ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 114. 20 gia đình có hạnh phúc thì xã hội mới lành mạnh, gia đình càng giữ được gia phong thì kỷ cương xã hội càng nghiêm túc. Kết hợp với giáo dục gia đình, chúng ta cần phải tăng cường giáo dục cho học sinh, sinh viên ở các nhà trường. Có thể nói, nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện và có hệ thống nhất. Bên cạnh trang bị tri thức cho học sinh, sinh viên, các nhà trường cần phải trú trọng giáo dục cho họ những phẩm chất đạo đức, lối sống cần thiết, làm cho họ nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của bản sắc văn hoá dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho họ nhận thức được những giá trị truyền thống như lòng nhân ái, bao dung, tinh thần yêu nước chân chính, đức vị tha, lao động cần cù, tinh thần lạc quan... là những giá trị đích thực và cao đẹp của mỗi con người. Cần có biện pháp hữu hiệu để lấp đầy “khoảng trống” về những kiến thức lịch sử và truyền thống dân tộc, xây dựng ý thức tự giác bảo vệ, phát huy những giá trị trong bản sắc văn hoá Việt Nam, khơi dậy lòng tự hào và yêu quý bản sắc văn hoá dân tộc. Mỗi cá nhân tồn tại và phát triển bao giờ cũng gắn liền với những nhóm, những tổ chức xã hội nhất định và chịu sự tác động của nhóm, tổ chức ấy. Tăng cường giáo dục xã hội chính là tăng cường vai trò giáo dục của các tập thể xã hội. Muốn vậy, phải xây dựng tập thể lành mạnh, cởi mở, dân chủ, thực sự là môi trường giáo dục nhân cách của mỗi cá nhân, chủ động gây dựng những dư luận xã hội lành mạnh, kiên quyết lên án và đấu tranh chống lại những biểu hiện và thái độ đạo đức, lối sống đi ngược lại thuần phong mỹ tục và chuẩn mục đạo đức xã hội. 2.3. Kết hợp giữa việc đẩy mạnh hoạt động giao lưu văn hoá với việc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá. Giao lưu văn hoá là nhu cầu chính đáng của mỗi người. Trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay, bên cạnh nhu cầu hợp tác giao lưu trên lĩnh vực kinh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan