Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài tiểu luận thực trạng giao đất, giao rừng trong lâm nghiệp...

Tài liệu Bài tiểu luận thực trạng giao đất, giao rừng trong lâm nghiệp

.PDF
15
46
115

Mô tả:

ĐẶT VẤN ĐỀ Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của loài người, là điều kiện cần để sinh tồn, để sản xuất, nó không thế thiếu được. Nó là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống và trở thành một tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia. Là nguồn lực để phát triển đất nước, là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp để đáp ứng điều kiện cơ bản tối thiểu của đời sống xã hội loài người đảm bảo cho quá trình sản xuất, xã hội tồn tại và phát triển. Ngoài ra nó còn là giá đỡ của thực vật, nơi sinh tồn của động vật, vi sinh vật. Luật đất đai sửa đổi năm 1993 được Quốc hội thông qua ngày 14/7/1993 có hiệu lực ngày 15/10/1995 đã thừa nhận 5 quyền cơ bản của người sử dụng đất, quan hệ sản xuất nông lâm nghiệp được xác lập trên cơ sỏ giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài đã trở thành động lực thúc đẩy quá trình nông, lâm nghiệp phát triển. Hiệu quả sử dụng đất được nâng cao so với giai đoạn trước. Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt trái đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ củi, điều hoà khí hậu, tạo ra oxy, điều hoà nước, nơi cư trú của động vật và lưu trữ các nguồn gen quí hiếm. Ngoài ra, rừng còn là nơi du lịch, nghỉ ngơi, cung cấp dược liệu… cho con người. Cùng với sự tiến bộ và phát triển của xã hội vai trò của rừng cũng ngày càng được nâng cao đòi hỏi phải được quản lý sử dụng một cách bền vững. Nhận thức được sự quan trọng của rừng, kể từ năm 1994, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật hướng dẫn thực hiện chính sách giao đất giao rừng và quyền hưởng lợi của người nhận đất nhận rừng. Gần đây Quốc hội nước ta đã đưa ra luật đất đai số 13/2003/QHH. Luật này quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quan lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Luật bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 và các văn bản có liên quan đến giao đất giao rừng và hướng dụng rừng như Nghị định 135/2005/NĐCP về giao khoán đất, Quyết định 186/2006/QĐ-TTg về quy chế quản lý rừng, Quyết định 40/2005/QĐ-BNN về quy chế khai thác gỗ và lâm sản. Những chính sách này đã từng bước đáp ứng được nhu cầu về quản lý đất đai, đồng thời đã coi trọng , nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng đất, gắn người lao động với đất đai khi họ thực sự là chủ của từng thửa đất, từ đó việc sử dụng đất có hiệu quả, năng suất cây trồng tăng lên, việc khai thác tài nguyên rừng và đất rừng đã có sự quản lý chặt chẽ, đất đai đã được khai thác một các có hiệu quả, triệt để, tương ứng với tiềm năng. Thực tiễn những năm qua cho thấy, chính sách giao đất giao rừng đã thực sự đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyên vọng của người dân, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống, nhiều hộ nông dân có thu nhập 1 khá từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trên đất được giao. Giao đất khoán rừng và thực hiện cơ chế hưởng lợi là những vấn đề quan trọng đang được xã hội quan tâm. Đây là những vấn đề vừa mang ý nghĩa kinh tế, ý nghiã xã hội và có tính lâu dài. Việc thực hiện chính sách giao đất giao rừng và quyền hưởng lợi đã có những tác động lớn trực tiếp đến đời sống của người dân, chủ yếu là người dân vùng trung du, miền núi. Bên cạnh những thành công, việc thực hiện chính sách giao đất giao rừng và quyền hưởng lợi còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Mặc dù đã có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiều nghiên cứu xung quanh vấn đề này nhưng trên thực tế còn nhiều câu hỏi được đặt ra cần được giải quyết. do vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng giao đất, giao rừng trong lâm nghiệp”. PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước. Nghiên cứu về chính sách giao đất giao rừng, đối tượng hưởng lợi và các chính sách liên quan trong quản lý và sử dụng tài nguyên rừng trên thế giới được đặc biệt quan tâm, nhất là đối với các nước đang phát triển. Đối với vấn đề quyền sở hữu đất đai, do đặc điểm lịch sử và bản chất của giai cấp thống trị nên ở hầu hết các nước trên thế giới quyền sở hữu về rừng và đất rừng phần lớn thuộc quyền sở hữu tư nhân. Ở Phần Lan hiện nay có 2/3 tổng diện tích rừng thuộc quyền sở hữu tư nhân. Cả nước có trên 430 nghìn chủ rừng và trung bình mỗi chủ rừng có khoảng 33 ha. Sở hữu cá nhân về rừng ở Phần Lan mang tính truyền thống và liên quan chặt chẽ đến sản xuất nông nghiệp. Ở Nepal, Chính phủ cho phép chuyển giao một số diện tích đáng kể các khu rừng cộng đồng ở vùng trung du cho các cộng đồng dân cư địa phương, thông qua sử dụng các tổ chức chính quyền ở cấp cơ sở để quản lý rừng. Chính phủ yêu cầu các tổ chức đó phải thành lập một ủy ban về rừng và cam kết quản lý những vùng rừng ở địa phương theo kế hoạch đã thỏa thuận. Tuy nhiên sau một thời gian người ta nhận ra các tổ chức đó không phù hợp với việc quản lý và bảo vệ rừng do các khu rừng nằm phân tán, không theo đơn vị hành chính và người dân có các nhu cầu, sở thích khác nhau. Tiếp theo, Nhà nước đã phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng rừng. quyền sở hữu rừng chia làm hai loại là sở hữu cá nhân và sở hữu nhà nước. Trong sở hữu nhà nước chia rừng thành các quyền sử dụng khác nhau như: rừng cộng đồng theo các nhóm sử dụng, rừng tín ngưỡng, rừng phòng hộ, rừng Nhà nước. Nhà nước công nhận quyền pháp nhân và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng rừng. Trong vòng 14 năm, Nhà nước giao khoảng 9000 ha rừng quốc gia cho các cộng đồng. Từ năm 1993, chính sách lâm nghiệp mới nhấn mạnh đến các nhóm sử dụng rừng, cho phép gia tăng quyền hạn và hỗ trợ các nhóm sử dụng rừng, thay đổi chức năng của các phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng cảnh sát và chỉ đạo sang chức năng hỗ trợ và thúc đẩy cho các cộng đồng, từ đó rừng được quản lý và bảo vệ có hiệu quả hơn. 2 Ở Philippines áp dụng chương trình lâm nghiệp xã hội tổng hợp theo đó Chính phủ giao quyền quản lý đất lâm nghiệp cho cá nhân, các hội quần chúng và cộng đồng địa phương trong 25 năm và gia hạn thêm 25 năm nữa, thiết lập rừng cộng đồng và giao cho nhóm quản lý. Người được giao đất phải có kế hoạch trồng rừng, nếu được giao dưới 300 ha thì năm đầu tiên phải trồng 40% diện tích, 5 năm sau phải trồng được 70% diện tích và 7 năm phải hoàn thành trồng rừng trên diện tích được giao. Những kinh nghiệm ở một số nước khác như: Nam Triều Tiên, Thái Lan… đều có một xu hướng chung là cho phép một nhóm người ở các địa phương có nhiều rừng quyền sử dụng các lợi ích từ rừng và quy định rõ trách nhiệm của họ tương xứng với lợi ích được hưởng. thông thường các nước đều chú ý tăng cường quyển sử dụng gỗ, củi, thức ăn gia súc cần thiết… để người dân tự cung, tự cấp cho nhu cầu hàng ngày của họ, tạo điều kiện cho họ có thêm thu nhập từ rừngvà điều kiện thuê nhân công địa phương đảm bảo quyền sử dụng đất canh tác, tăng cường sự hỗ trợ của chính phủ. Trong thế kỷ 20, nhất là những thập kỷ cuối của thế kỷ này, việc quản lý rừng và xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp trên thế giới đã có nhiều chuyển biến. có thể tóm tắt những xu hướng chủ yếu trong quản lý rừng trong thời gian gần đây như sau: - Chuyển mục tiêu quản lý từ sử dụng rừng sản xuất gỗ chủ yếu sang thực hiện mục tiêu sử dụng rừng kết hợp cả ba lợi ích: kinh tế, sinh thái và xã hội. nhiều nước đã tuyên bố thực hiện, hoặc đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý rừng theo hướng tăng cường bảo vệ rừng như: đình chỉ khai thác gỗ tự nhiên, nâng cao diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, các khu bảo tồn thiên nhiên, phát triển du lịch sinh thái, chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát huy tác dụng sinh thái của rừng. - Phân cấp quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp (phi tập trung hóa), xu hướng là chuyển giao dần trách nhiệm và quyền lực về quản lý rừng từ các cấp trung ương xuống các cấp địa phương và cơ sở. - Xúc tiến giao đất giao rừng cho nhân dân và cộng đồng, giảm bớt can thiệp của nhà nước, thực hiện tư nhân hóa đất đai và các cơ sở kinh doanh lâm nghiệp, tạo điều kiện cho việc quản lý rừng năng động hơn, đem lại nhiều lợi nhuận hơn. - Thu hút sự tham gia của các nhóm dân cư được hưởng lợi trong quá trình xây dựng kế hoạch quản lý rừng, khuynh hướng chung là khi xây dựng kế hoạch quản lý rừng, chủ rừng rất quan tâm thu hút sự tham gia của các bên có liên quan đến quyền lợi từ rừng. - Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào công tác quản lý rừng, xu hướng là phát triển các hình thức tổ chức để thu hút cộng đồng địa phương vào quản lý rừng như: liên kết quản lý rừng, phát triển các chương trình lâm nghiệp cộng đồng, các công trình bảo tồn thiên nhiên theo làng… Về vấn đề hưởng lợi trong quản lý sử dụng rừng, phân tích của Hobley 3 (1996) cho thấy các hệ thống Taungya được áp dụng tại Myanmar từ năm 1850 đã cho phép những người dân du canh được chiếm một diện tích rừng khoảng 3 - 4 ha với điều kiện họ phải trồng và chăm sóc cây con khi chăm sóc cây nông nghiệp. Do vậy, cơ quan lâm nghiệp địa phương có thể kiểm soát những người du canh thông qua hoạt động canh tác của họ cùng với việc tái sinh rừng với các loài cây có giá trị. Tại Ấn Độ, liên kết quản lý rừng đã đem lại những lợi ích nhất định cho cả hai bên: Chính phủ ( cơ quan lâm nghiệp) và cộng đồng địa phương. Chính sách lâm nghiệp quốc gia 1988 khẳng định sự tham gia của người dân vào sự phát triển và bảo vệ rừng và khẳng định một trong những điểm thiết yếu của quản lý rừng chính là các cộng đồng tại rừng phải được khuyến khích để tự nhận biết vai trò của bản thân họ trong phát triển và bảo vệ rừng mà họ được hưởng lợi từ đó. Một số quy định cụ thể về cơ chế hưởng lợi được thể hiện như sau: - Quyền sử dụng đất rừng và các lợi ích khác chỉ dành cho những người hưởng lợi thuộc tổ chức thiết chế làng xã tái tạo và bảo vệ rừng. Những tổ chức này có thể là những tổ chức chính quyền cấp cơ sở hay hợp tác xã hay hội đồng lâm nghiệp làng. Những nhóm hưởng lợi có thể được hưởng những sản phẩm như: cỏ, cành, ngọn, và các vật phẩm khác. Nếu họ bảo vệ rừng thành công, họ coa thể được hưởng một phần từ thu nhập do bán gỗ đã thành thục. - Cùng với cây làm củi, thức ăn gia súc và gỗ, cộng đồng địa phương cũng được phép trồng các cây ăn quả sao cho phù hợp với quy hoạch trồng rừng chung và cả cây bụi, cây họ đậu và cỏ để nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ, bảo vệ đất và nguồn nước, làm giàu rừng. ngay cả cây dược liệu cũng có thể trồng theo yêu cầu. - Cây gỗ chỉ được khai thác cho đến khi cây đã trưởng thành. Các cơ quan lâm nghiệp cũng không được chặt cây trên đất lâm nghiệp đang do cộng đồng bảo vệ trừ trường hợp theo kế hoạch. 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước. Chủ trương giao đất, giao rừng của Đảng đã hình thành từ rất sớm. Ngay từ năm 1983, Ban Bí thư (Khoá V) đã có Chỉ thị 29-CT/TW ngày 12/11/1983 về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng. Chỉ thị nhấn mạnh, “làm cho mỗi khu đất, mỗi cánh rừng, mỗi quả đồi đều có người làm chủ” Trong quá trình triển khai chính sách giao đất, giao rừng theo Nghị định 02/ CP ngày 15/04/1994 (nay là nghị định 163/ CP ra ngày 16/11/1999), Nghị định 01/ CP của chính phủ ngày 04/01/1995, Nhà nước đã ban hành một số chính sách có liên quan đến hưởng lợi của cá hộ gia đình, cá nhân nhận rừng, đất lâm nghiệp. Trong hàng loạt các văn bản chính sách trên có quyết định 178/2001 QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ra ngày 12/11/2001 và thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT – BTC/BNN&PTNT ngày 03/09/2003 về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định 178, đã được thông qua và triển 4 khai rộng rãi. Trong thời gian qua đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu, tổng kết về chính sách giao đất, giao rừng; nghiên cứu đánh giá về cơ chế hưởng lợi từ đất lâm nghiệp như: - Hội thảo quốc gia về chủ rừng và lợi ích của chủ rừng trong kinh doang rừng trồng do BNN&PTNT, tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc (FAO), cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức vào tháng 7 năm 1998. Cuộc hội thảo chỉ quan tâm đến rừng trồng sản xuất còn rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng không được đề cập đến. Nội dung của cuộc hội thảo đề cập đến những vấn đề sản xuất kinh doanh của các chủ rừng kinh doanh rừng trồng sản xuất, lợi ích của các chủ rừng kinh doanh rừng trồng sản xuất, các giải pháp thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh rừng sản xuất. - Từ năm 1998, Chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam – Thụy Điển đã triển khai thử nghiệm một số mô hình quản lý bảo vệ rừng cộng đồng ở tỉnh Yên Bái và Hà Giang. Khi việc thử nghiệm kết thúc người ta đã tiến hành đánh giá mô hình quản lý rừng cộng đồng dựa trên 5 tiêu chí sau: + Trạng thái rừng cho các cộng đồng. + Sự tác động của nhà nước. + Sự tham gia của cộng đồng người dân vào quản lý và bảo vệ rừng. + Quyền sử dụng đất của người dân. + Những lợi ích của cộng đồng được hưởng. Việc đánh giá trên làm cơ sở cho việc đề suất các giải pháp phát triển mô hình quản lý bảo vệ rừng cộng đồng. Nhình chung chương trình thử nghiệm chỉ gói gọn trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng cộng đồng còn các hình thức quản lý bảo vệ rừng khác không được đề cập đến ở đây. - Năm 2005, tiến sỹ Nguyễn Nghĩa Biên và các cộng sự thuộc Trường đại học Lâm Nghiệp đã tiến hành đề tài nghiên cứu: “ Đánh giá tình hình thực hiện Quyết định 178/2001/QĐ-TTg vầ đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách hưởng lợi đối với cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng được giao, được thuê và nhận khoán rừng, đất lâm nghiệp”. Đề tài đã đánh giá tình hình thực hiện chính sách hưởng lợi theo quyết định 178/2001/QĐ-TTg và đề xuất sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện cơ chế hưởng lợi đối với các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. PHẦN II, THỰC TRẠNG GIAO ĐẤT GIAO RỪNG TRONG LÂM NGHIỆP 2.1 Kết quả giao đất giao rừng trong Lâm nghiệp những năm qua. 5 Kết quả theo dõi diễn biến tài nguyên rừng được ban hành tại Quyết định số 2089/QĐ-BNN-TCLN ngày 30/8/2012 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2011, tính đến 31/12/2011 như sau: Tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn quốc là: 16.240.000 ha. Trong đó: Diện tích đất có rừng: 13.515.064 ha (bao gồm cả rừng trồng tuổi 1).Diện tích đất chưa có rừng: 2.724.936 ha. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp nằm trên địa bàn 6.093 xã (trong đó: 238 xã có diện tích 10.000 ha trở lên; 1.048 xã có từ 3.000 đến 10.000 ha; 1.528 xã có 1.000 đến 3.000ha; 1.044 xã có 500 đến 1.000 ha và 2.235 xã dưới 500 ha). Độ che phủ rừng năm 2011 đạt 39,7%. Trong 5 năm (2006 - 2011) diện tích rừng cả nước tăng 0,78 triệu ha, độ che phủ tăng 2,5% (trung bình tăng 0.5 %/ năm). Tổng diện tích rừng đã giao: 11,4 triệu ha, chiếm 84,4% diện tích rừng toàn quốc (13,5 triệu ha) và chiếm 70,3 % so với tổng diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp(16,24 triệu ha). Tổng diện tích rừng chưa giao hiện đang do UBND xã quản lý là 2,1 triệu ha, chiếm 15,6 % ( Diện tích rừng do UBND xã quản lý từ 2,8 triệu ha năm 2005 xuống còn 2,1 triệu ha năm 2011). Đặc biệt một số địa phương có tình hình giao đất giao rừng rất đáng khả quan như: Điện Biên đã rà soát lại 100% diện tích đất đã giao trước đó, đồng thời rà soát xác định diện tích, ranh giới, trữ lượng rừng để làm cơ sở thực hiện việc xây dựng, thẩm định, phê duyệt phương án giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng thôn bản. Theo kết quả rà soát, toàn tỉnh có tổng diện tích đất lâm nghiệp 266.043,51ha. Trong đó, diện tích đã có quyết định giao đất 87.624,64ha; diện tích đã được rà soát nhưng chưa có quyết định giao đất 178.418,87ha. Yên Bái đề án Giao rừng, cho thuê rừng trên địa bàn toàn tỉnh giai đoạn 2012 - 2015 hiện nay là 85.375 ha/181.604,3 ha kế hoạch tại 132 xã, phường trên địa bàn 9 huyện, thị, thành phố. Xác định được quỹ đất có khả năng giao cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư là 37.461,0 ha. Xác định được quỹ đất có khả năng giao cho các tổ chức và doanh nghiệp thuê là 44.185,9 ha. Kiểm tra, rà soát diện tích rừng phòng hộ chuyển sang sản xuất trên địa bàn 50 xã, thuộc 5 huyện là: Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên, Yên Bình và Lục Yên. Hà Tĩnh trong công tác giao đất, giao rừng, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp, đến nay toàn tỉnh có 143 xã đã và đang thực hiện đo đạc bản đồ địa chính, đánh giá đặc điểm khu rừng với diện tích 46.176ha/18.877 hộ, cộng đồng, đạt 85 % so với phương án. Sở TN & MT đã phê duyệt 28 xã thuộc 5 huyện, thị xã, với diện tích 10.801ha của 5.196 hộ, cộng đồng; thẩm định hồ sơ cho 4.801 hộ, cộng đồng, với diện tích 9.589ha; đã cấp GCNQSDĐ cho 2.841 hộ, cộng đồng, với diện tích 5.946 ha, đạt 55% diện tích phê duyệt bản đồ và 10,8% diện tích phương án. Toàn tỉnh đã thu hồi 21.300,94 ha của 9 chủ rừng bàn giao về địa phương quản lý. Tuyên Quang Tính đến nay, có 98 xã thuộc 7 huyện, thành phố đã hoàn thành việc xây dựng phương án giao rừng, với tổng số 18.611 ha; trong đó có 97 6 xã đã thông qua Hội đồng nhân dân xã (riêng xã Yên Lâm chưa thông qua); 79 xã đang tiến hành thẩm định và 6 xã đã được phê duyệt phương án giao đất gắn với giao rừng. Theo Sở Nông nghiệp và PTNT, đến ngày 9-8-2015, toàn tỉnh trồng mới 10.524,1 ha rừng, bằng 68% kế hoạch. Trong đó có 9.947,2 ha rừng tập trung và 576,9 ha trồng cây phân tán (quy ra diện tích). Thực hiện kế hoạch trồng rừng, hiện thành phố Tuyên Quang đã hoàn thành 105,8% kế hoạch; Sơn Dương thực hiện được 67,7% kế hoạch; Yên Sơn đạt 91%; Hàm Yên đạt 69,3%; Chiêm Hóa đạt 60,7%; Lâm Bình 46,7% và Nà Hang đạt 65%. diện tích trồng rừng tăng lên 4.143 ha. Tuy nhiên, so với chỉ tiêu kế hoạch trồng rừng trên địa bàn còn chậm, nhất là diện tích đất lâm nghiệp bị lấn chiếm, sử dụng sai mục đích, ở một số cơ sở chưa giải quyết triệt để Trên địa bàn huyện Đắk Nông hiện nay, việc giao đất cho cộng đồng quản lý được thực hiện tập trung ở các xã như Đắk Som, Đắk P’lao, Quảng Sơn, Đắk Ha… Trong đó, mô hình quản lý rừng cộng đồng do khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng đã tiến hành giao khoán bảo vệ cho 167 hộ của 3 xã là Đắk Som (Đắk Glong), Phi Liêng, Đạ K’Nàng, huyện Đam Rông (Lâm Đồng) và tại 17 tiểu khu, với tổng diện tích hơn 7.961 ha. Nếu như năm 2007, tổng diện tích rừng trên địa bàn là 103.275 ha, diện tích rừng tự nhiên 98.448 ha, diện tích rừng trồng là 4.879 ha, độ che phủ là 71,28% thì đến năm 2013, diện tích có rừng đã giảm xuống còn 85.000 ha, trong đó, diện tích rừng tự nhiên gần 78.000 ha, diện tích rừng trồng 6.800 ha, độ che phủ xuống mức 58,6%. Theo UBND tỉnh Đắk Nông, tính đến thời điểm hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có 48 tổ chức, đơn vị được tỉnh giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp thực hiện 49 dự án đầu tư sản xuất nông-lâm nghiệp, trong đó có 48 dự án của 47 đơn vị thuê đất, một dự án của một đơn vị được giao đất với tổng diện tích đất lâm nghiệp đã giao và cho thuê là hơn 51 nghìn ha, bao gồm cho thuê đất 40.740 ha và giao rừng 9.417,24 ha. Ngoài ra, các đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh còn thực hiện 21 hợp đồng liên doanh, liên kết với diện tích hơn 6.000 ha; đồng thời tổ chức ký kết 339 hợp đồng giao khoán quản lý, bảo vệ rừng theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP cho 367 hộ dân với tổng diện tích giao khoán là hơn 4.000 ha… 2.2 Những hiệu quả và thuận lợi của chính sách giao đất giao rừng trong Lâm nghiệp. Trước khi giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, phần lớn đất đai cảu các hộ gia đình sử dụng nằm trong sử quản lý của các HTX. Từ đó đất đai quản lý không chặt chẽ, khai thác và sử dụng còn bừa bãi, manh mún, không có quy hoạch và kế hoạch cụ thể, đất chưa thực sự trở thành một tư liệu, nguồn nhân lực quan trọng trong sản xuất nông lâm nghiệp. Bên cạnh đó phải nói đến sự hạn chế về trình độ khoa học kỹ thuật, vốn đầu tư, ý thức, thái độ của con người trong việc khai thác sử dụng đất. Cùng với nó là sự tác động của chính sách đất đai giai đoạn này chưa thực sự làm thay đổi được tư tưởng và thái độ của người sử dụng đất để họ thực sự an tâm đầu tư sản xuất, khai thác mở rộng tiềm năng đất đai. Từ đó gây ra tình trạng đất đai bị bỏ 7 hoang, xói mòn, rửa trôi, rừng bị khai thác bừa bãi, nạ cháy rừng, chặt phá rừng thường xảy ra dẫn đến thu nhập của người dân thấp, đời sống khó khăn vất vả, quá trình sản xuất không đáp ứng được yêu cầu của xã hội và mỗi gia đình. Hiệu quả của chính sách giao đất giao rừng là: Giải quyết việc làm cho lao động trong gia đình và ngoài xã hội: Ở nông thôn do trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế, công việc thu hoạch nông sản thì phải đến thời vụ do đó thời gian rảnh rỗi rất nhiều nên thường xuyên tụ hợp nảy sinh mâu thuẫn và dẫn đến con đường tệ nạn xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm cho bà con nông dân là cả một vấn đề nan giải. Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là giải pháp quan trọng để ổn định an ninh chính trị, đẩy lùi các tệ nạn xã hội đang có nguy cơ xâm nhập vào tầng lớp lao động nông thôn khi thiếu việc làm. Từ đó, chính sách giao đất, giao rừng đã giải quyết được phần nào về việc làm cho lao động nông thôn. Qua đó cũng để nhằm ổn định an ninh chính trị, đẩy lùi tệ nạn xã hội, nhờ có chính sách đúng đắn nên hầu hết các gia đình đã tận dụng được nguồn lao động chính để sản xuất tăng gia do đó thời gian nông nhàn rất ít. Nhờ công tác quản lý sử dụng đất chặt chẽ nên người dân an tâm đầu tư chăm bón và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho hộ gia đình và toàn xã hội. Tuy nhiên, việc sử dụng lao động trong gia đình hiện nay còn có một số vấn đề tồn tại cần giải quyết như: vấn đề đào tạo tay nghề, nâng cao khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật cho lao động nông thôn, thời gian làm việc còn quá nhiều trong ngày, vấn đề an toàn lao động chưa được chú ý đã dẫn đến những thiệt hại, rủi ro đáng tiếc trong quá trình sản xuất cũng như nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. b. Hiệu quả của chính sách giao đất, giao rừng trong việc duy trì các phong tục tập quán và bản sắc dân tộc, cùng với việc đẩy lùi các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, tiến tới xây dựng gia đình và làng xóm văn hóa. Chính sách giao đất, giao rừng đã tác động tích cực đến việc xây dựng, củng cố nâng cao trình độ dân trí người dân. Từng bước đẩy lùi được các phong tục lạc hậu trong đời sống cảu người dân, đặc biệt là bà con dân tộc thiểu số. Các phong tục lạc hậu như: Phong tục đốt nương làm rẫy, phong tục bắt ma cho người ốm,… Tuy nhiên, trong quá trình đó các dân tộc vẫn giữ được bản sắc riêng của dân tộc mình như: Trong sinh hoạt phong tục uống rượu của người Thái vẫn được phát huy, trong sản xuất vẫn duy trì giống lúa nương bản địa… Qua thực tế điều tra phỏng vấn cán bộ văn hóa xã cho biết số hộ gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa ở các xóm năm 2011 tăng lên 30% so với năm 2005. Chính sách giao đất, giao rừng đã có tác động tích cực đến việc giao dục và nâng cao nhận thức của tầng lớp thanh thiếu niên trong việc tránh xa các tệ nạn xã hội Chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ và phát triển rừng đang được đẩy mạnh, đây là bước chuyển biến căn bản trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, làm cho rừng có chủ thực sự, gắn quyền lợi với trách nhiệm, tạo điều kiện để người dân bảo vệ được rừng, yên tâm quản lý, đầu tư phát triển rừng trên diện tích rừng được giao. Công tác bảo vệ và phát triển rừng đã nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp, nhiều chính sách ưu tiên, hỗ trợ 8 cho người làm nghề rừng và đồng bào các dân tộc miền núi đã được ban hành, vì thế đời sống của người dân được cải thiện, nhận thức được nâng cao. Giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp đến hộ gia đình, cá nhân đã tạo được tâm lý phấn khởi vì có được một tài sản và nguồn lực đầu tiên để các hộ gia đình có điều kiện sử dụng lao động của hộ gia đình tham gia quản lý, bảo vệ, phát triển rừng. 2.3 Những khó khăn, tồn tại, hạn chế của chính sách giao đất giao rừng trong Lâm nghiệp. Mặc dù trên danh nghĩa, phần lớn các diện tích rừng đã được giao cho các chủ quản lý, sử dụng, nhưng thực tế công tác giao rừng, cho thuê rừng còn có những hạn chế sau: Tỷ lệ diện tích rừng do các doanh nghiệp Nhà nước, UBND các cấp quản lý chiếm khoảng 50%, trong khi đó tỷ lệ diện tích rừng giao cho các hộ gia đình, cá nhân thấp (27,5%), làm giảm hiệu quả xã hội của chính sách giao rừng, cho thuê rừng của Nhà nước và chưa huy động được nguồn lực to lớn trong dân. Nhiều nơi diện tích rừng giao cho chủ rừng và người dân chưa xác định cụ thể trên bản đồ và thực địa; hồ sơ giao đất, giao rừng thiếu nhất quán, quản lý không chặt chẽ và không đồng bộ. Có những diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao/quản lý đã bị chuyển đổi mục đích khác nhưng không bị xử lý hoặc làm ngơ. - Diện tích rừng có chủ thực sự rất thấp, dẫn đến tình trạng rừng chưa được bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả. Qua đánh giá của một số địa phương hiệu quả sau giao rừng chỉ đạt 20% - 30%. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước quản lý diện tích rừng lớn nhưng không có khả năng kinh doanh và chưa được tạo điều kiện để sản xuất kinh doanh có hiệu quả các diện tích rừng được giao. Các diện tích rừng do UBND các cấp quản lý thì cơ bản vẫn trong tình trạng vô chủ hoặc không được bảo vệ, quản lý tốt. Nhiều diện tích rừng giao cho các hộ gia đình, cá nhân chưa phát huy hiệu quả kinh tế, người dân vẫn chưa sống được bằng nghề rừng. Việc buông lỏng quản lý trong công tác cho thuê đất lâm nghiệp đang khiến hàng chục nghìn ha đất lâm nghiệp bị lấn chiếm trái phép, đất rừng bị tàn phá, phát sinh tranh chấp và kiện cáo. Hàng chục nghìn ha đất lâm nghiệp bị lấn chiếm trái phép, qua kiểm tra, rà soát mới đây của các ngành chức năng của tỉnh đã phát hiện nhiều đơn vị, doanh nghiệp được Nhà nước cho thuê đất, giao rừng đã buông lỏng quản lý dẫn đến diện tích rừng tự nhiên bị chặt phá với diện tích lớn; tình trạng người dân xâm canh, lấn chiếm đất lâm nghiệp trái phép với diện tích lên đến hàng chục nghìn ha nhưng các chủ rừng, đơn vị được giao quản lý, bảo vệ rừng, sử dụng đất lâm nghiệp không quản lý được và chưa có giải pháp khắc phục gây 9 tổn thất lớn đến tài nguyên và ảnh hưởng nghiêm trọng môi trường sinh thái. Một số đơn vị triển khai các hạng mục dự án chậm tiến độ hoặc không triển khai và triển khai không đúng quyết định phê duyệt của dự án; thậm chí các cá nhân, hộ gia đình tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất không đúng quy định, lấn chiếm đất, tự ý chuyển mục đích sử dụng đất trái phép… Trên cơ sở kiểm tra, rà soát, các ngành chức năng đã tham mưu cho UBND tỉnh Đác Nông ra quyết định thu hồi 13 dự án đầu tư sản xuất nông-lâm nghiệp, trong đó tám dự án bị thu hồi toàn bộ và năm dự án bị thu hồi một phần với diện tích thu hồi là hơn 9.000 ha. UBNB tỉnh cũng chỉ đạo các đơn vị thanh lý 14 hợp đồng liên doanh, liên kết sai quy định, không hiệu quả với diện tích hơn 4.387 ha. Ngoài việc các đơn vị, doanh nghiệp được giao đất, giao rừng đã buông lỏng quản lý dẫn đến diện tích lớn rừng tự nhiên bị chặt phá, các ngành chức năng của tỉnh còn phát hiện 1.653 vụ lấn chiếm đất lâm nghiệp với diện tích 2.681 ha và 127 vụ tự ý chuyển đổi mục đích trái phép với diện tích 28 ha, trong đó các cơ quan có thẩm quyền chỉ mới xử phạt vi phạm hành chính 16 vụ. Hạn chế lớn nhất trong công tác quản lý rừng, đất lâm nghiệp là hiện tượng buông lỏng quản lý trong công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn của các cơ quan chức năng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn. Bên cạnh đó, chính quyền cơ sở chưa nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong công tác quản lý, bảo vệ rừng; công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương thiếu chặt chẽ, không đồng bộ trong việc giao đất, giao rừng. Công tác thẩm định dự án của các cơ quan chuyên môn chưa chặt chẽ, không căn cứ hiện trạng rừng, đất lâm nghiệp trong thực tế mà chỉ căn cứ số liệu thống kê do chủ dự án lập. Trong khi đó, các doanh nghiệp không có năng lực tài chính, chuyên môn, nhân lực nên khi được Nhà nước cho thuê đất, giao rừng không triển khai dự án dẫn đến rừng bị chặt phá, lấn chiếm, xảy ra tranh chấp, thậm chí có doanh nghiệp thế chấp dự án để vay ngân hàng lấy tiền sử dụng cho mục đích khác. Sau khi thuê đất, đã không triển khai thực hiện dự án, không xây dựng phương án quản lý bảo vệ rừng, cải tạo rừng tự nhiên, trồng rừng nguyên liệu, mà buông lỏng công tác quản lý bảo vệ rừng... dẫn đến hàng trăm ha rừng bị mất trắng, xóa sổ hoàn toàn. Thêm vào đó là việc ban hành các cơ chế, chính sách hưởng lợi từ việc giao đất, giao rừng đối với doanh nghiệp thực hiện dự án quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Ngoài ra, công tác quản lý rừng, đất lâm nghiệp của các chủ rừng còn nhiều yếu kém. Ngay cả các ngành chủ quản, chính quyền địa phương cũng còn nhiều yếu kém, tắc trách, buông lỏng quản lý trong việc giao rừng và giữ rừng. Thực trạng tồn tại hiện nay là các công ty lâm nghiệp được giao đất, giao rừng và giữ rừng chủ yếu là trên giấy chứ chưa giao theo thực tế ngoài thực địa. 10 Nhiều diện tích người dân đã sử dụng ổn định , trồng cây công nghiệp dài ngày từ nhiều năm nay nhưng trên bản đồ hiện trạng khi giao đất, giao rừng, để quản lý vẫn thể hiện đất có rừng. Mặt khác, thời gian qua ngoài việc dân di cư tự do từ các tỉnh, thành phố ồ ạt kéo đến đến Đác Nông làm ăn, sinh sống, tạo áp lực lớn về đất ở, đất sản xuất là do giá các loại nông sản tăng cao dẫn đến một số đối tượng kéo nhau đi phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp, sau đó chuyển nhượng lại cho các hộ dân để thu lợi bất chính. Người dân địa phương nghe tin các dự án nông-lâm nghiệp có chủ trương hoặc thông tin về vị trí dự án trên phần diện tích rừng nghèo chuyển đổi sang trồng một số loại cây công nghiệp đã cố tình vào khu vực dự án để phá rừng canh tác nhằm được bồi thường thiệt hại về cây trồng và được hỗ trợ về công khai phá. Một số nơi, các tổ chức, cá nhân lợi dụng mối quan hệ với các công ty lâm nghiệp đã ký hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp để cùng thực hiện dự án. Tuy nhiên, nhiều trường hợp sau khi ký hợp đồng các đối tượng không chịu đầu tư mà chỉ chờ thời cơ để chuyển nhượng hợp đồng trái phép cho người khác để kiếm lời. Đặc biệt, một số đơn vị mới được UBND tỉnh đồng ý chủ trương cho thực hiện dự án trồng rừng và cây công nghiệp nhưng đã tự ý đến bao chiếm đất, đuổi các hộ dân đang sử dụng đất để thực hiện dự án, trong khi các đơn vị này chưa thỏa thuận với các hộ dân và chưa được UBND tỉnh ban hành quyết định cho thuê đất… Quá trình giao đất, giao rừng mới chỉ thực hiện được giao phần diện tích và vị trí lô đất ở ngoài thực địa cho các hộ gia đình, nhưng chưa xác định được rõ ràng ranh giới và vị trí lô đất trên bản đồ. Lý do là khi giao đất, giao rừng việc trích lục thửa đất chưa đầy đủ, thiếu các thửa đất giáp ranh, bên cạnh đó chưa giải thích cho người dân được rõ ràng. Công tác tổ chức quản lý sản xuất sau khi giao đất của Nhà nước còn có nhiều hạn chế, việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất diễn ra còn chậm hoặc chưa thực hiện được, việc tổ chức tập huấn hướng dẫn khoa học kỹ thuật cho người dân chưa kịp thời và thường xuyên. Dẫn đến tình trạng sau khi nhận đất nhận rừng người dân rất lúng túng để lựa chọn một hình thức sản xuất hợp lý ở thời gian đầu, hiệu quả sản xuất của một số hộ gia đình rất thấp, đất đai bị thoái hóa, rửa trôi, rừng không được bảo vệ tốt. Theo quy định của Nghị định 64/CP diện tích mỗi hộ được giao không quá 2 ha còn đối với diện tích vượt hạn điền thì chuyển sang hình thức thuê đất. Song trên thực tế một số hộ ở vùng cao diện tích vượt hạn mức lên tới 3-5 ha nhưng nếu thuê thì khó áp dụng. Vì đời sống kinh tế của các hộ vùng này lại khó khăn, hơn nữa tập quán canh tác của người dân tộc còn nặng nề, do đó quy định này đã không khuyến khích được người dân tham gia nhận rừng để chăm sóc quản lý. Thủ tục hành chính về vay vốn, thủ tục về giao đất, thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn rườm rà, chưa có biện pháp nhằm hạn chế 11 các thủ tục này. Cùng với việc trình độ nhận thức của người dân còn nhiều hạn chế. Từ đó, đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không khuyến khích được người dân thế chấp vay vốn để đầu tư phát triển sản xuất. Công tác dự báo định hướng sản xuất thực hiện chưa tốt, sản phẩm đầu ra của nhân dân chưa bảo đảm chất lượng cũng như số lượng một cách thường xuyên và hợp lý, dẫn đến tình trạng thừa thiếu, giá cả bấp bênh. Từ đó, gây ảnh hưởng rất lớn đến tam lý sản xuất của người dân, các nhà máy chế biến nông sản. Những tồn tại về phía hộ gia đình nhận đất: - Năng lực tổ chức và quản lý sản xuất nông, lâm nghiệp của một số hộ gia đình còn nhiều hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất. Song họ lại nhận và thuê quá nhiều đất dẫn đến tình trạng hiệu quả kinh tế xã hội không cao, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, lãng phí tài nguyên đất, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. - Do trình độ nhận thức của một số hộ gia đình còn hạn chế, nên họ chưa hiểu được hết các quy định của việc giao đất, giao rừng. Do vậy, khai thác rừng bừa bãi, tự do chuyển mục đích sử dụng đất, trong sản xuất chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế ít chú ý đến bảo vệ môi trường. Công tác giao đất, giao rừng và quản lý đất lâm nghiệp được đánh giá mang lại hiệu quả nhất định, góp phần phục hồi tài nguyên rừng, nâng cao độ che phụ và tăng cường bảo vệ, phát triển rừng ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế như: Quy hoạch 3 loại rừng chưa sát với mục đích sử dụng, một số nơi diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp nhưng nhân dân không trồng rừng, đất không quy hoạch thì lại trồng rừng; công tác bảo vệ, phát triển rừng gặp khó khăn, tình trạng xâm lấn, tranh chấp, khai thác, phá rừng trái phép vẫn xảy ra, quỹ đất sản xuất thiếu tập trung chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển vùng nguyên liệu; rừng sản xuất, rừng phòng hộ xen lẫn nhau; rừng đặc dụng vẫn có người sinh sống, lao động sản xuất… PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT 3.1 Một số giải pháp thực hiện đối với công tác giao đất, giao rừng trong Lâm nghiệp Để khắc phục tình trạng chồng lấn, chồng chéo quyền quản lý rừng, đất lâm nghiệp giữa các chủ rừng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển rừng, tại buổi tọa đàm, các đại biểu tham luận và kiến nghị một số giải pháp như: Cần xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất giữa các đơn vị; có quy chế phối hợp giữa các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; đối với diện tích cấp chồng chéo cần thu hồi lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cộng đồng; đối với diện tích không tranh chấp cần cấp lại giấy chứng 12 nhận quyền sử dụng đất; tiến hành dồn điền, đổi thửa tạo quỹ đất tập trung, tạo vùng nguyên liệu đủ lớn… Ban nghiên cứu liên minh các tổ chức Cirum, Code, Speri, Cendy khuyến nghị, tỉnh cần khẩn trương triển khai công tác rà soát; trong điều kiện một số huyện của tỉnh có bình quân đất nông nghiệp trên hộ rất thấp phương án tối ưu nhất là chuyển giao toàn bộ diện tích lâm nghiệp của Ban Quản lý rừng phòng hộ cho người dân địa phương quản lý để tổ chức sản xuất, ổn định cuộc sống; Ban Quản lý rừng phòng hộ chuyển sang làm vai trò dịch vụ, hướng dẫn người dân địa phương phục hồi và phát triển rừng. Cấp Trung ương tiếp tục chỉ đạo các địa phương còn rừng và đất lâm nghiệp chưa giao, cho thuê tiếp tục thực hiện công tác giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp, đảm bảo mọi diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn đều có chủ thật sự. - Tiến hành rà soát, đánh giá việc sử dụng rừng và đất lâm nghiệp của các chủ rừng (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân); kiên quyết thu hồi những diện tích quản lý sử dụng không hiệu quả để tiếp tục giao cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng khác quản lý, sử dụng hiệu quả hơn. - Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật về giao đất, giao rừng cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay; đồng thời có chính sách hưởng lợi thích hợp khuyến khích mọi thành phần tham gia nhận đất, nhận rừng để quản lý bảo vệ và sản xuất kinh doanh hiệu quả. - - Xây dựng, lập kế hoạch bố trí đủ nguồn kinh phí cho công tác giao đất, giaorừng và cho thuê rừng theo tiến độ kế hoạch đề ra. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về Luật BV&PT Rừng, Luật đất đai và các văn bản liên quan đến chủ trương, chính sách giao rừng, cho thuê rừng đến mọi tầng lớp nhân dân, để nhân dân tham gia nhận rừng, thuê rừng quản lý, sử dụng. - Xây dựng phần mềm quản lý thành quả giao rừng, thuê rừng gắn với giao đất, thuê đất lâm nghiệp toàn quốc. Quy định rõ ràng chế độ quản lý hồ sơ giao và cho thuê rừng, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng của các chủ rừng sau khi được giao, cho thuê rừng. - Tổ chức tập huấn, nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn kỹ thuật cho cán bộ cấp cơ sở về giao rừng, cho thuê rừng. - Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định thống nhất việc quản lý đất và quản lý rừng tự nhiên sau khi giao . - Chỉ đạo quyết liệt việc giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp, nếu không kết hợp được với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vẫn tiến hành giao rừng, cho thuê rừng và cấp giấy chứng nhận 13 quyền sử dụng rừng. - Các hộ gia đình, cá nhân sinh sống ở miền núi đa số là hộ nghèo, quan tâm hàng đầu của họ là sản xuất lương thực để bảo đảm cuộc sống. Họ không có điều kiện để sản xuất, kinh doanh nghề rừng trên diện tích rừng, đất lâm nghiệp được giao, vẫn phải chờ đợi sự trợ giúp của nhà nước. 3.2 Kiến nghị và đề xuất 3.2.1 Cấp trung ương Đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp toàn quốc giai đoạn 2012-2017. - - Đề nghị Chính phủ ban hành bổ sung về cơ chế, chính sách hưởng lợi cho các tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân tham gia nhận đất, nhận rừng và thuê rừng. Đồng thời quy định chế tài xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo qui định của pháp luật. - Đề điều tra, đánh giá hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của các chủ rừng khi được giao đất giao rừng trên phạm vi toàn quốc để có chính sách quản lý phù hợp. - Chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạoquyết liệt các cơ quan liên quan của địa phương tổ chức, thực hiện công tác giao đất, giao rừng, cho thuê rừng gắn liền vói cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn đạt kết quả cao nhất. 3.2.2 Ở địa phương Chính quyền các địa phương thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các ngành liên quan thực hiện việc giao đất, giao rừng và cho thuê rừng. - - UBND các tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương chủ động rà soát, đánh giá hiệu quả diện tích đất và rừng đã giao, cho thuê trên địa bàn quản lý. Xây dựng phương án, kế hoạch cụ thể để tiếp tục thực hiện công tác giao đất, giao rừng và cho thuê rừng đạt hiệu quả cao nhất. - Xây dựng, lập kế hoạch, bố trí các nguồn kinh phí của địa phương và trung ương vào kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng hàng năm để thực hiện đề án giao rừng, cho thuê rừng đáp ứng tiến độ đề ra. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,vận động người nhân dân về giao đất, giao rừng, cho thuê rừng để mọi người dân hiểu và thực hiện. 14 KẾT LUẬN Giao đất giao rừng là một trong những chính sách lớn của Nhà nước ta nhằm hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống và góp phần bảo vệ rừng. Do vậy, để chính sách phát huy hiệu quả hơn nữa, cần có hệ thống chính sách toàn diện và dài hạn phù hợp với từng nhóm dân tộc thiểu số. Nhà nước không thể quản lý toàn bộ hệ thống rừng do không đủ nguồn lực để thực thi luật hiệu quả. Sự tham gia của dân địa phương là yếu tố căn bản, có tính quyết định trong công tác bảo vệ, phát triển rừng. Do đó, cần cơ chế để huy động sự tham gia hiệu quả của người dân, chung tay vào quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững trong bối cảnh hiện nay. Để chính sách giao đất giao rừng thực sự phát huy hiệu quả, cần triển khai đồng bộ các giải pháp, trong đó, cần thống nhất và bổ sung thêm quy định của pháp luật liên quan tới vấn đề này theo hướng tạo điều kiện tốt hơn cho người nhận đất, nhận rừng. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương khuyến khích, hỗ trợ phát triển các hoạt động phi nông nghiệp như thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển các hoạt động dịch vụ gắn với rừng như du lịch sinh thái, mạo hiểm, văn hóa, nghỉ dưỡng… đào tạo chuyển đổi nghề gắn với tái định cư, xây dựng nông thôn mới, tạo cơ hội xuất khẩu lao động đối với nhóm dân tộc thiểu số thích hợp. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng