MỞ ĐẦU
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi thế giới. Đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay
gắt. Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế khách quan lôi cuốn hàng trăm quốc gia
dân tộc khác nhau về chế độ kinh tế xã hội, trình độ phát triển tham gia hội nhập
nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy quá trình tham gia hội nhập kinh tế, mỗi nước đều
theo đuổi nhưng mục tiêu khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Các nước tư bản phát triển tham gia hội nhập không chỉ theo đuổi mục tiêu
lợi nhuận thuần tuý mà còn tìm cách chi phối, khống chế thị trường, áp đặt chính
trị, chuyển hoá nền kinh tế các nước đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa (TBCN).
Các nước kinh tế đang phát triển tham gia hội nhập để tận dụng cơ hội phát
triển, thoát khỏi đói nghèo lạc hậu. Đồng thời tập hợp lực lượng đấu tranh chống
lại chính sách cửa quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự
kinh tế quốc tế bình đẳng công bằng.
Các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) chủ động hội nhập để tranh thủ những
mặt có lợi trên thị trường thế giới, phát huy lợi thế, phục vụ mục tiêu phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa hơn về kinh tế, rút ngắn, trình độ phát triển so với các nước phát triển trên
thế giới.
Điều đó chứng tỏ xu thế hội nhập kinh tế phản ánh cục diện vừa đẩy mạnh
hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt. Nó vừa có tác động tích cực và tiêu cực đến
toàn bộ đời sống kinh tế chính trị xã hội, an ninh quốc gia của mỗi nước.
1
NỘI DUNG
I. NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ ĐẾN AN
NINH QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM
An ninh quốc gia là: "Trạng thái của quốc gia có sự ổn định về mọi mặt,
các lợi ích quốc gia được toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc bị đe doạ..." có
nước quan niệm an ninh quốc gia bao gồm có quốc phòng.
An ninh quốc gia cần phải được hiểu với nghĩa rộng bao gồm cả kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội... Một nước có sự an ninh quốc gia được bảo đảm là nước
có trạng thái ổn định trên các mặt đó và các lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội được bảo vệ toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc đe doạ. Theo đó, hội nhập kinh
tế có tác động tích cực đến tăng cường an ninh quốc gia trên những vấn đề sau đây:
Một là: Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới tạo cơ hội cho Việt Nam mở
rộng thị trường, thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến
phát triển kinh tế tăng cường an ninh quốc gia.
Thị trường có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Việc mở rộng và khai thông thị trường quốc gia với quốc tế sẽ cho phép
bổ sung những mặt yếu, thiếu, phát huy những lợi thế của nền kinh tế trong
nước. Dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, các thị
trường thế giới (vốn, tài chính, thương mại...) từng bước được thống nhất và
phát triển. Xu thế này sẽ loại bỏ dần các rào cản thương mại (thuế, chính sách
bảo hộ) và điều chỉnh các quy tắc vận hành. Các dòng vốn, kỹ thuật công
nghệ, tri thức, hàng hoá, dịch vụ ngày càng mở rộng và đẩy nhanh tốc độ.
Theo đó, nước ta là nước đang phát triển, chủ động hội nhập nền kinh tế toàn
cầu sẽ từng bước mở rộng thị trường ra bên ngoài và có thêm cơ hội thu hút
và sử dụng các dòng vốn khu vực và quốc tế, đồng thời mở ra điều kiện thực
hiện các dự án đầu tư ra nước ngoài theo lợi thế của ta.
Thực tế cho thấy, với một đất nước có số dân khoảng 90 triệu người như
nước ta, thu nhập bình quân đầu người 2.228 USD thì dung lượng thị trường
2
trong nước sẽ là nhỏ so với khả năng phát triển. Do đó, tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế để mở rộng thị trường có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Bên cạnh cơ hội tận dụng và nâng cao khả năng sử dụng vốn, nước ta còn
được thụ hưởng những thành quả tiến bộ của khoa học - công nghệ thế giới,
thông qua chuyển giao công nghệ để đổi mới kỹ thuật công nghệ, đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm đổi mới vừa qua chúng ta
đã tận dụng được cơ hội đó, nền kinh tế tăng trưởng cao, hạ tầng công nghệ
thông tin được đánh giá là một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh
nhất, kinh tế chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được tăng cường.
Trạng thái đó phản ánh tính vững chắc của an ninh quốc gia.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thế đan cài lợi ích kinh tế quốc phòng
an ninh giữa các nước trong khu vực và thế giới, cho phép nước ta có thể kết
hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hội nhập kinh tế gắn kết nền kinh tế của mỗi nước với hệ thống kinh tế khu
vực và thế giới. Mức độ gắn kết phụ thuộc vào chính sách mở cửa của mỗi quốc
gia. Sự hưng thịnh, khủng hoảng hay suy thoái kinh tế của nước này đều có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến trạng thái phát triển kinh tế và an ninh kinh tế
của các nước khác trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng và
khả năng ứng phó trước những chấn động kinh tế, chính trị, xã hội bên ngoài
đến đâu là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, dữ trữ ngoại tệ và sức gắn kết kinh tế
của mỗi nước trong khu vực và thế giới. Thực tế những thập kỷ qua cho thấy
một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn, sẽ có sức chịu
đựng cao hơn các nền kinh tế lạc hậu khác. Chẳng hạn, sức cạnh tranh của các
nền kinh tế Hồng Kông, Singapo lớn, lại có dự trữ ngoại tệ lớn nên đã hạn chế
được tác động xấu của cuộc khủng hoảng khu vực năm 1997. Một nước có nền
kinh tế hội nhập quốc tế cao, lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ với lợi ích của
nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế, thì sẽ có nhiều khả năng kết hợp
3
sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất nước tốt hơn. Trong cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực 1997, các quốc gia Thái Lan, Hàn Quốc, Inđônêxia
vì là thành viên của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và lợi ích của các quốc gia này đã
liên kết khá chặt chẽ với lợi ích quốc tế, nên quỹ tiền tệ quốc tế đã hỗ trợ tài
chính cho các quốc gia này khá lớn, giúp nền kinh tế các nước này nhanh chóng
phục hồi thoát ra khỏi khủng hoảng.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện nay, mọi nền kinh tế
đều tuỳ thuộc nhiều hơn vào bền ngoài. Nhưng nếu sự tuỳ thuộc nhiều hơn đó
đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì không có lý gì lại không chấp
nhận. Theo đó, nền kinh tế nước ta ngày càng tích cực tham gia hội nhập vào
nền kinh tế khu vực, thế giới và cũng ngày càng tuỳ thuộc hơn vào nền kinh tế
bên ngoài. Lợi ích kinh tế của nước ta đang từng bước đan cài và gắn kết với
nền kinh tế khu vực và thế giới, nhất là từ sau khi khởi xướng đường lối đổi mới
"Mở cửa" hội nhập, Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á, ký
hiệp ước song phương, đa phương và nhiều nước trên thế giới. Điều đó được thể
hiện rõ trong lượng vốn đầu tư của các nước vào Việt Nam và kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam tăng lên đáng kể. Đầu tư vào nước ta không chỉ có các
nước trong khu vực mà còn có nhiều nước tư bản phát triển khác như: Mỹ, Pháp,
Đức, Nhật.v.v... làm cho lợi ích các nước và nước ta đan xen vào nhau, tạo lên
sự tương đồng nhất định về lợi ích. Do đó, để tồn tại phát triển đòi hỏi các nước
phải hợp tác, đấu tranh bảo đảm môi trường an ninh, hoà bình, ổn định, để bảo
vệ lợi ích các bên tham gia. Sự đe doạ độc lập chủ quyền an ninh quốc gia của
Việt Nam cũng gián tiếp đe dọa lợi ích kinh tế và an ninh của các quốc gia khác
trong cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có nhiều điều kiện hợp tác, giao
lưu kinh tế, văn hoá, tri thức, thông tin với các nước trong khu vực và thế giới.
Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao, quốc
phòng an ninh được giữ vững và tăng cường.
4
Toàn cầu hoá kinh tế - Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tự do hoá
thương mại, tự do hoá tài chính và đầu tư, kéo theo đó là sự mở rộng giao lưu
văn hoá, thông tin tham gia Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA), thực
hiện lịch trình cắt giảm thuế quan, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào các
nước thành viên có sức cạnh tranh cao hơn. Mặt khác, hàng hoá Việt Nam nhập
từ các nước thành viên (bao gồm cả hàng hoá tiêu dùng và hàng hoá là yếu tố
đầu vào của sản xuất) sẽ rẻ hơn. Khi hàng hoá tiêu dùng rẻ thì người tiêu dùng
càng có lợi, đời sống sẽ được cải thiện và nâng cao. Khi hàng hoá là yếu tố đầu
vào của sản xuất sẽ làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống, sức cạnh tranh của
hàng hoá nước ta trên thị trường thế giới tăng lên đáng kể, lợi nhuận siêu ngạch
qua đó tăng lên tương ứng, an ninh kinh tế được tăng cường.
Ngày nay trong môi trường toàn cầu hoá, cùng với việc xuất hiện của
mạng Internet, các thông tin, tri thức mới lan truyền nhanh chóng giữa các
quốc gia dân tộc, sự ngăn cách về không gian, thời gian không còn ý nghĩa.
Các phương tiện hiện đại đã giúp các nước trên các Châu Lục khác nhau, các
vùng xa xôi hẻo lánh tiếp cận với tri thức văn hoá tiên tiến, giúp cho sự hoà
hợp, hiểu biết lẫn nhau tin tưởng nhau hơn. Trên cơ sở đó xây dựng môi
trường hoà bình ổn định và hợp tác.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các nước cùng nhau
hợp tác giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu để giữ gìn hoà bình ổn định
quốc gia, khu vực và thế giới.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy kinh tế
phát triển nhanh chóng, đồng thời cũng nảy sinh những vấn đề toàn cầu mới, đe
doạ nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định và an ninh của mỗi quốc gia như: Chiến
tranh công nghệ cao, phòng chống tội phạm, quốc tế, ma tuý, môi trường sinh
thái.v.v.. Những vấn đề có tính toàn cầu đó không một quốc gia riêng lẻ nào có
thể tự giải quyết được mà phải có sự hợp tác, các quốc gia phải chủ động tham
gia vào các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề đó.
5
Mặt khác thông qua các tổ chức này, các nước trao đổi thông tin, kinh
nghiệm, phối hợp hành động để phòng chống giữ vững hoà bình ổn định, an
ninh để phát triển.
II. NHỮNG THÁCH THỨC VỀ AN NINH QUỐC GIA TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh
mang tính giai cấp sâu sắc. Nên nó không chỉ tạo cơ hội để giữ vững hoà bình an
ninh ổn định mà còn tạo ra những thách thức đối với an ninh quốc gia của mỗi
nước tham gia hội nhập.
1. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường
thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các nước thù địch thực hiện chiến lược
"diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế giữa
các nước, đồng thời cũng tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho các thế lực thù
địch đứng đầu là Mỹ lợi dụng thân thiện hợp tác để thực hiện chiến lược "diễn
biến hoà bình". Chống phá các nước có xu hướng phát triển tiến bộ đi theo quỹ
đạo TBCN, lập lại trật tự kinh tế, chính trị thế giới mới do Mỹ đứng đầu.
Đối với nước ta hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi
dụng chính sách "mở cửa", hội nhập của Đảng và Nhà nước ta để tiến hành diễn
biến hoà bình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị , tư tưởng văn hoá, nhất là
về kinh tế. Chúng đánh giá rất cao vai trò của kinh tế tư nhân, cơ chế thị trường.
Các chính khách chóp bu trong các nước tư bản phát triển đều cho rằng: "Chìa
khoá cải cách chính trị ở Việt Nam là doanh nghiệp tư nhân. Chủ nghĩa Cộng
sản Việt Nam đã chống lại một cách oanh liệt và giành thắng lợi vĩ đại trước
cuộc tấn công bằng sức mạnh quân sự của Pháp, Mỹ. Nhưng nó không thể tồn
tại lâu dài trước những cơ hội tích cực do doanh nghiệp tư nhân mở ra". Vì vậy
chúng luôn khuyến khích hỗ trợ đầu tư, viện trợ cho thành phần kinh tế tư nhân
phát triển để lấn át các thành phần kinh tế khác, phủ nhận vai trò chủ đạo của
6
kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế xã hội cho các tổ chức chính trị phản động
hoạt động chống phá, làm chuyển hoá tận gốc chế độ XHCN, định hướng nền
kinh tế nước ta phát triển theo con đường TBCN.
Tận dụng ưu thế sức mạnh kinh tế trong xu thế "mở cửa" hội nhập, chủ nghĩa
đế quốc, đứng đầu là Mỹ tìm mọi cách chi phối đầu tư từ các nước tư bản phát triển
và các tổ chức kinh tế quốc tế vào Việt Nam để xâm nhập, lũng đoạn. Chúng chủ
định đầu tư không theo vùng lãnh thổ để gây mất cân đối giữa các vùng miền ở
nước ta. Hạn chế đầu tư vào các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, khu vực sản xuất làm
cho hiệu quả đầu tư vào Việt Nam thấp. Lợi dụng những yếu kém về nghiệp vụ và
sự thoái hoá của một số cán bộ tiếp nhận đầu tư và nhận chuyển giao công nghệ, để
chuyển giao vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, kìm hãm sự phát triển kinh tế của
nước ta. Đồng thời tác động xấu đến tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế, dòng vốn lưu chuyển thông qua đầu tư viện trợ
giữa các quốc gia tham gia hội nhập ngày càng gia tăng. Đó là quan hệ kinh tế
tất yếu trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ của nhau. Song hội nhập quốc tế trong bối cảnh kinh tế chính trị thế
giới phức tạp hiện nay, Mỹ và các thế lực thù địch lại sử dụng đầu tư, viện trợ
như là một công cụ để thâm nhập phá hoại các nước khác. Đầu tư, viện trợ bao
giờ cũng kèm theo điều kiện chính trị hết sức nghiệt ngã, thúc đẩy nền kinh tế
thị trường các nước XHCN phát triển theo hướng thị trường tự do, thoát ly dần
sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước. Chuyển hoá dần nền kinh tế các nước đi
theo quỹ đạo TBCN. Năm 1989 trong " Báo người bảo vệ" của Anh đã công
khai tuyên bố "Nguyên tắc cơ bản nhất của chủ nghĩa Bush là: Mục tiêu viện trợ
của Phương tây là phải thúc đẩy và khen thưởng quá trình đa nguyên hoá chính
trị và kinh tế thị trường tự do trong các nước XHCN. Về kinh tế thực hiện đa
nguyên hoá, tức là tự do hoá nền kinh tế, chấp nhận kinh tế thị trường tự do
hoàn toàn..." theo họ, nếu ai đi theo hướng đó, thì người đó mới nhận được sự
ủng hộ đầu tư và cho vay của Mỹ; "Nước nào chấp nhận đầu tiên thì nước đó
đầu tiên nhận được viện trợ". Trong bài bình luận đăng trên báo Lơ - pi - ga - rô
7
của Pháp ngày 14 tháng 12 năm 1989 khi đề cập đến vấn đề các nước Phương
Tây dùng đô la Mỹ để ủng hộ công cuộc cải cách "mở cửa" của các nước
XHCN, đã dẫn lời của Brê - dên - Sky lộ rõ thực chất của khoản viện trợ này "là
khoản tiền an táng, tiền tuốt hợp với lễ nghi chế độ Cộng sản". Điều đó chứng tỏ
Mỹ và các nước Phương Tây luôn dùng viện trợ làm mồi nhử, viện trợ bao giờ
cũng gắn với điều kiện chính trị hết sức phản động để can thiệp ngày càng sâu
vào các nước XHCN để chuyển hoá dần chế độ, tạo thời cơ cho bọn phản động
trong nước gây bạo loạn lật đổ chính quyền. ý đồ thâm độc đó thể hiện rõ nét
qua sự viện trợ của Mỹ và Phương Tây cho các nước Đông Âu khi cải cách, mở
cửa, hội nhập. Gần đây, trước khi ký hiệp ước thương mại song Phương Việt Mỹ đặt những điều kiện chính trị "luật nhân quyền" hết sức thô bạo.
Lợi dụng sức mạnh kinh tế và Liên Hiệp - Quốc, Mỹ khống chế các nước
và các tổ chức kinh tế quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế , ngân hàng thế giới, tổ
chức thương mại thế giới trong việc đầu tư, viện trợ cho vay và buôn bán với
Việt Nam. Mặt khác, lợi dụng "mở cửa" hội nhập, giao lưu kinh tế, các thế lực
thù địch truyền bá văn hoá xấu độc, tư tưởng phản động, kích động tôn giáo,
chia rẽ dân tộc, gây xung đột sắc tộc tôn giáo.v.v..
Thực trạng trên đây phản ánh quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
đang đặt ra thách thức lớn đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ chế độ XHCN và đe doạ đến hoà bình, an ninh, ổn định chính trị - xã
hội của nước ta. Do đó, giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN về kinh
tế, chính trị trong môi trường hội nhập sẽ gặp vô vàn khó khăn.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng cạnh tranh quyết liệt hơn, an
ninh kinh tế bị đe doạ.
Hội nhập kinh tế quốc tế với sự tham gia của nhiều chủ thể quốc gia có chế
độ chính trị, trình độ phát triển khác nhau vào thị trường khu vực và thế giới
thống nhất sẽ làm cho cạnh tranh quyết liệt hơn. Nền kinh tế của các nước kinh
tế chậm phát triển sẽ dễ bị tổn thương do áp lực kinh tế từ bên ngoài. Các luồng
8
vốn, công nghệ, hàng hoá dịch vụ sẽ chạy đến nơi nào có môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn. Những hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, giá cả thấp hơn thoả
mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn sẽ chiến thắng trong cạnh tranh, chiếm lĩnh
thị trường, mở rộng thị phần ngoài nước. Ngược lại những nước kinh tế kém
phát triển chất lượng hàng hoá dịch vụ thấp giá cả cao sẽ thất bại trong cạnh
tranh và thu hẹp thị phần. Theo đó, cạnh tranh trở thành động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, nhưng cũng là nguyên nhân đổ vỡ, thua thiệt của các nước
kinh tế lạc hậu khi tham gia hội nhập.
Nước ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế từ một điểm xuất phát thấp,
khoảng cách chênh lệch và trình độ, phát triển giữa nước ta với các nước trong
khu vực và các nước phát triển trên thế giới khá lớn. Tuy chúng ta đang trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng thực chất vẫn là nền kinh
tế nông nghiệp (75% lao động trong nông nghiệp). Hệ thống kỹ thuật công nghệ
lạc hậu từ 2 - 4 thế hệ so với thế giới, năng suất lao động thấp, chất lượng sản
phẩm một số hàng hoá còn thấp. Do đó, sức cạnh tranh hàng hoá của ta kém,
khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị phần trong nước và ngoài nước còn rất hạn
chế. Đây thực sự là một nguy cơ, một áp lực lớn khi ta đẩy nhanh nhịp độ mở
cửa hội nhập, an ninh kinh tế sẽ bị đe doạ. Mặt khác chúng ta đang trong quá
trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Các yếu
tố của thị trường mới đang được hình thành, chưa hoàn chỉnh. Các luật chơi
trong toàn cầu hoá và hội nhập ta chưa thạo, nguy cơ kiến thức về kinh tế thị
trường cũng còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chưa thật sự
sẵn sàng và chưa đủ đáp ứng yêu cầu cao của hội nhập. Việc thiếu hiểu biết về
thị trường khu vực và thế giới, thiếu công cụ, phương tiện trong giao dịch, thanh
toán quốc tế... là thách thức lớn trong tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Bên
cạnh đó, tình trạng tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy quản lý đang trở thành
quốc nạn, tạo môi trường cho sự xâm nhập bằng kinh tế để phá hoại gây mất ổn
định, chuyển hoá chế độ. Điều đó sẽ gây khó khăn không nhỏ cho chúng ta trong
bảo vệ an ninh kinh tế, chính trị quốc gia.
9
3. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự lệ thuộc nền kinh tế nước ta
vào nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ và định hướng XHCN nền kinh tế
sẽ đứng trước thách thức lớn.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh
tế. Một quốc gia có tỷ lệ ngoại thương cao, thu hút được vốn đầu tư từ ngoài
nước sẽ tạo điều kiện tốt cho phát triển, tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng gia
tăng sự bất ổn từ bên ngoài đưa lại do phụ thuộc vào vốn và thị trường nước
ngoài. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Nhật bản là nước có sự phát triển tăng
trưởng cao nhất thế giới do hoạt động ngoại thương đem lại, đến đầu những năm
70 do khủng khoảng của nền kinh tế thế giới đã đẩy Nhật vào tình thế khó khăn
suy thoái nghiêm trọng. Năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á
bắt đầu nổ ra ở Thái Lan đã nhanh chóng lan rộng sang các nước Inđônêxia, Hàn
quốc, Malaixia .v.v.. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế còn làm tăng nợ
nước ngoài, nhất là các nước lại thường xuyên xảy ra những chấn động kinh tế
do thiên thai, hoặc có những sai lầm về chính sách vĩ mô.Như Braxin năm 1987
nợ nước ngoài lên tới 124 tỷ USD số lãi phải trả (1980 - 1988) là 91 tỷ USD, nợ
nần lớn đã gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, an ninh tài chính bị đe doạ
nghiêm trọng, đẩy nền kinh tế Braxin đứng trước sự đổ vỡ và lệ thuộc vào nước
ngoài ngày càng gia tăng.
Ở nước ta, mức độ nợ tính đến cuối năm 2001, tổng dư nợ so với GDP
khoảng 43%; Tổng dư nợ so với xuất khẩu khoảng 89%; Nghĩa vụ nợ so với
xuất khẩu khoảng 11%. Theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, mức độ
này còn trong "giới hạn an toàn" nhưng cũng đã gần tới cận "an toàn".
Tuy nhiên, từ sự lệ thuộc của những nền kinh tế nêu trên cho thấy toàn cầu
hoá kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới phần nào đã làm giảm vai trò điều tiết
của các Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là với nhà nước ở các nước đang
phát triển, làm tăng sự lệ thuộc vào các nền kinh tế lớn, tăng nguy cơ bất ổn.
Một trong những lý do là sự tồn tại, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia,
10
sự vận động của các luồng tài chính, hàng hoá toàn cầu, sự tồn tại của các quy
tắc, luật lệ của các tổ chức kinh tế, các thể chế điều tiết kinh tế toàn cầu lại chưa
hoàn chỉnh bị chi phối khống chế bởi các nước lớn... Đặc điểm này đang là
những thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập. Vì
vậy phải tăng cường nội lực và phải giữ được vai trò điều tiết, quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế, đây là cơ sở để bảo vệ độc lập, chủ quyền và định
hướng XHCN của đất nước.
III. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
1. Những quan điểm cơ bản
Để thực hiện thắng lợi đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
Đảng giữ vững an ninh quốc gia, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây:
Một là: Giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, kiên định mục tiêu xã
hội chủ nghĩa
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Đây là chủ
trương hết sức đúng đắn, cần được quán triệt sâu sắc trong quá trình hội nhập.
Có thể nói rằng toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu dẫn
đến sự ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc. Tham gia vào
bất cứ tổ chức quốc tế nào, hay cam kết thực hiện một hiệp định song phương
hoặc đa phương nào thì các nước thành viên đều phải tuân thủ những quy ước,
những thông lệ quốc tế theo nguyên tắc đồng thuận, trong đó có cả những điều
khoản quy ước hạn chế phần nào tính độc lập tự chủ của mỗi quốc gia thành
viên, nhất là các thành viên có nền kinh tế chưa phát triển. Mặt khác, toàn cầu
hoá hiện nay đang bị quan hệ sản xuất TBCN và pháp quyền Tư sản chi phối.
Do đó trong quá trình hội nhập vừa phải tuân theo những vấn đề có tính nguyên
11
tắc chung đó, nhưng vẫn phải giữ vững được độc lập chủ quyền, an ninh quốc
gia và định hướng XHCN trong phát triển kinh tế; kiên quyết đấu tranh chống
lại âm mưu lợi dụng hội nhập để tiến hành chiến lược "diễn biến hoà bình"
chống phá cách mạng nước ta của Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Không chấp nhận đầu tư viện trợ có kèm theo điều kiện chính trị làm phương
hại đến an ninh quốc gia.
Hai là: Hội nhập kinh tế là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân.
Một trong những hạn chế của thực hiện chủ trương mở cửa hội nhập của
nước ta trong những năm qua là: Không ít người coi hội nhập là của Nhà nước
Trung ương, vì vậy các cấp, các ngành, nhất là các doanh nghiệp chưa sẵn sàng
hội nhập, đã làm giảm sức mạnh quốc gia trong hội nhập. Do đó, cần phải quán
triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm hội nhập là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
Quá trình hội nhập kinh tế phải phát huy mọi tiềm năng thế mạnh của mọi thành
phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo
để định hướng các thành phần kinh tế khác. Chỉ có như vậy, chúng ta mới phát
huy được hết lợi thế so sánh trong khu vực và thế giới, nâng cao hiệu quả kinh tế
xã hội trong hội nhập, đẩy lùi nguy cơ đe doạ độc lập chủ quyền, an ninh quốc
gia do tác động của hội nhập.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và
cạnh tranh, phải khôn khéo tận dụng tối đa những mặt có lợi, hạn chế tối thiểu
những mặt có hại, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải có cái nhìn đúng đắn, thấy rõ
được tính chất hai mặt của hội nhập, có cái được nhưng cũng có cái thiệt.
Được, thiệt như thế nào là tuỳ thuộc vào năng lực và hiệu quả tham gia hội
nhập của mỗi nước. Nhưng không có cái gì được cả hay mất cả. Vấn đề quan
trọng là phải làm thế nào để tận dụng tối đa cơ hội, đẩy lùi thách thức để đỡ
thua thiệt. Muốn vậy, khi tham gia hội nhập phải hết sức tỉnh táo, khôn khéo
linh hoạt trong xử lý tính hai mặt của hội nhập. Tính toán được, mất phải trên
12
quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể, đấu tranh với mọi quan điểm phiến diện
khi hội nhập chỉ thấy thời cơ không thấy được những thách thức đặt ra, hoặc
chỉ nhấn mạnh lợi ích kinh tế không chú ý đến vấn đề an ninh quốc gia, dẫn
đến mất cảnh giác để kẻ địch lợi dụng xâm nhập.
Bốn là: Chủ động hội nhập với lộ trình hợp lý.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ những đặc điểm kinh tế xã hội nước ta, chủ
động đề ra kế hoạch và lộ trình hội nhập hợp lý vừa phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế đất nước, vừa đáp ứng yêu cầu định chế của các tổ chức kinh tế
quốc tế mà nước ta tham gia; Tranh thủ được các ưu đãi giành cho các nước
đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao
cấp sang kinh tế thị trường.
Hội nhập kinh tế nhưng không bị động, lôi cuốn chạy theo, nhưng không
do dự, bỏ lỡ cơ hội, thậm chí phải biết sử dụng hội nhập kinh tế quốc tế làm
động lực thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của nền kinh tế
Nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trong điều kiện trình độ phát
triển kinh tế và công nghệ còn thấp. Vì vậy, phải tiến hành hội nhập từng bước,
dần dần mở cửa thị trường. Không nên nóng vội quá mức vượt khả năng chịu
đựng của nền kinh tế sẽ dẫn đến thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt
khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên,
kết hợp kinh tế - xã hội với Quốc phòng - an ninh không nên kéo dài lộ trình hội
nhập sẽ dẫn đến tình trạng duy trì quá lâu chế độ bảo hộ, bao cấp của Nhà nước,
gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế càng lớn trước sự phát
triển nhanh của các nền kinh tế khác. Chương trình hội nhập phải phù hợp với
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phải đáp ứng yêu cầu của
những định chế kinh tế quốc tế mà nước ta cam kết.
Những quan điểm cơ bản trên đây thể hiện sự thấu suốt đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta. Đảm bảo cho chúng ta giữ vững được độc lập, chủ
quyền, an ninh quốc gia và định hướng XHCN.
13
2. Những giải pháp cơ bản
Để vượt qua được những thử thách của quá trình mở cửa hội nhập giữ vững
an ninh quốc gia độc lập chủ quyền tàon vẹn lãnh thổ và định hướng XHCN, cần
thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
Một là: Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Tuyên truyền sâu rộng trong các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và
mọi người dân Việt Nam nhận thức đúng đắn về toàn cầu hoá kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế, tác động của nó đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
quốc phòng, an ninh của nước ta. Tránh nhận thức, coi hội nhập là của Trung
ương, chỉ thấy thuận lợi, thời cơ của hội nhập mà không thấy hết được
những thách thức đặt ra, hoặc lẫn lộn giữa toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập
kinh tế quốc tế với toàn cầu hoá nói chung, hội nhập tất cả. Phải khẳng định
rõ rằng: Toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu
nổi bật của thời đại ngày nay. Đảng ta chủ trương mở cửa hội nhập kinh tế
quốc tế nhưng phải trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, an ninh
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, hai bên cùng
có lợi. Hoà nhập nhưng không hoà tan, giữ vững độc lập chủ quyền quốc
gia. Phải thiết lập và vận hành mạng lưới thông tin toàn cầu để mọi người
dân, mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp tiếp cận với những kiến thức
cập nhật, xác thực về những diễn biến của nền kinh tế toàn cầu, để có đối
sách hội nhập hợp lý.
Giáo dục nâng cao cảnh giác cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân, nhận
thức ngày càng đầy đủ hơn âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch lợi dụng
toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế để tiến hành chiến lược "Diễn
biến hoà bình" chống phá cách mạng nước ta, lái nền kinh tế nước ta đi theo con
đường TBCN. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đến việc bảo vệ an
ninh quốc gia trong quá trình hội nhập.
14
Hai là: Xây dựng một chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế gắn với giữ vững
ổn định chính trị, an ninh quốc gia.
Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế là cụ thể hoá đường lối "mở
cửa" hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Chiến lược đó phải được xây dựng trên
nguyên tắc độc lập tự chủ và thể chế của các tổ chức kinh tế quốc tế, khả năng
tham gia hội nhập của nền kinh tế nước ta ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể để xác
định bước đi và kế hoạch triển khai thực hiện, tăng cường ký các hiệp định song
phương đa phương với các nước trong khu vực và thế giới.
Kết hợp chặt chẽ xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế với xây
dựng các biện pháp phòng ngừa như: Phòng ngừa chiến tranh, phòng ngừa
những cuộc khủng hoảng từ bên ngoài tác động, phòng ngừa các biến động về
chính trị kinh tế. Để có được các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, chúng ta
phải có chính sách ngoại giao phòng ngừa, quá trình hội nhập kinh tế phải đi
đôi với việc tăng cường các cuộc tiếp xúc trao đổi, các hội nghị hiệp thương,
hội nghị các cấp, hội nghị các chuyên gia để trao đổi thông tin, thảo luận
những vấn đề bất đồng, thảo luận các chính sách, các giải pháp an ninh quốc
tế và khu vực để tránh các cuộc xung đột có thể xảy ra, tạo môi trường hoà
bình ổn định cho kinh tế phát triển.
Xây dựng hệ thống các giải pháp ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng kinh tế,
đặc biệt là lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tăng cường tư vấn và hỗ trợ về tài chính
của các tổ chức IMF, WB, làm tăng thêm nguồn vốn và khả năng sử dụng hiệu
quả nguồn vốn vào việc phát triển kinh tế, giữ vững an ninh tài chính, tiền tệ.
Có chiến lược dự trữ quốc gia hợp lý, trong đó dự trữ ngoại tệ là quan
trọng nhất, đề phòng bao vây cấm vận, vẫn có thể mua được các hàng hoá
dịch vụ cần thiết. Dự trữ các sản phẩm thiết yếu như xăng, dầu, gạo... bảo
đảm an ninh lương thực.
Trong xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế cần phải thực hiện hệ thống
chính sách gắn kết lợi ích của nước ta với lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt
15
là các trung tâm kinh tế lớn, các nước láng giềng, các tổ chức kinh tế quốc tế,
tạo nên sự tương đồng về lợi ích. Sự gắn kết này sẽ ràng buộc các quốc gia khác,
để bảo vệ được lợi ích của mình, họ phải tham gia bảo vệ lợi ích của nước ta.
Đây là kế sách bảo vệ an ninh quốc gia, hạn chế sự đe doạ từ bên ngoài.
Ba là: Đẩy mạnh đất nước, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao
động, chất lượng, hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Để bảo đảm an ninh hàng hoá dịch vụ và sự tồn tại của các doanh nghiệp
trên thương trường trong quá trình hội nhập, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải
đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Hiện
nay, ở nước ta có một số hàng hoá dịch vụ có chất lượng cao, ngày càng chiếm
lĩnh thị trường, mở rộng thị phần trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, không ít sản
phẩm hàng hoá dịch vụ đang đứng trước nguy cơ bị xâm thực thị phần, ngay cả
thị phần trong nước cũng không giữ được, mà nguyên nhân chủ yếu là do chất
lượng kém, giá thành cao, sức cạnh tranh thấp.
Nhà nước cần phải có một chiến lược công nghệ, lựa chọn và nhận chuyển
giao công nghệ mới nhất tạo ra sự đột biến về năng suất, chất lượng những hàng
hoá ta có lợi thế cạnh tranh để có thể chiến thắng trên thương trường, giữ vững
và mở rộng thị phần trong và ngoài nước.
Lộ trình thực hiện AFTA đang diễn ra rất khẩn trương, Hiệp định thương
mại Việt - Mỹ đã ký kết, khi AFTA và Hiệp định thương mại có hiệu lực hoàn
toàn thì hầu hết các doanh nghiệp nước ta sẽ không được bảo hộ bằng thức và
các biện pháp phi thức quan. Trong điều kiện tự do hoá thương mại như vậy, đòi
hỏi các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế phải khẩn trương đầu tư đổi mới
thiết bị và công nghệ theo hướng hiện đại. Đồng thời phải rà soát, kịp thời điều
chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy các nguồn vốn trong nước để giảm sự
lệ thuộc vào nợ và viện trợ của nước ngoài. Không ngừng nâng cao khả năng
cạnh tranh trên cả ba mặt: Sản phẩm hàng hoá (chất lượng, giá cả); Doanh
nghiệp (năng lực công nghệ, trình độ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh);
16
Tổng thể nền kinh tế (kinh tế vĩ mô ổn định, phát triển nhanh và bền vững). Ra sức
xây dựng doanh nghiệp, công ty, nhất là doanh nghiệp Nhà nước thành những đơn
vị mạnh về công nghệ, giỏi về quản lý, năng động sáng tạo trong làm ăn. Khẩn
trương tiến hành cải cách, đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước dựa trên tư
duy mới về vai trò, vị trí và trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước, về cơ chế
quản lý, chứ không chỉ dừng lại ở sắp xếp đơn giản, thuần tuý về sản lượng.
Bốn là: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu lực
quản lý của nhà nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, chúng ta phải tuân theo
những thông lệ và cam kết song phương, đa phương. Mặt khác, hệ thống luật
pháp nước ta còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Do đó, cần phải
tích cực xây dựng khung thể chế "kinh tế thị trường định hướng XHCN" bao
gồm thị trường hàng hoá, vốn, tiền tệ, lao động, công nghệ bất động sản... Đặc
biệt phải xây dựng khẩn trương các định chế để hình thành thị trường vốn. Hoàn
thiện các chính sách tiền tệ, hướng các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ giá theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Bổ sung, từng bước hoàn chỉnh hệ
thống Luật pháp vừa phù hợp với thông lệ, định chế quốc tế, vừa giữ vững được
độc lập tự chủ.
Để thích ứng với yêu cầu hội nhập, phải đổi mới cơ chế quản lý đáp ứng
các cam kết của nước ta về mở cửa thương mại, đầu tư, dịch vụ, về thuế và phi
thức..., trong đó cần đặc biệt chú ý vấn đề "đối xử quốc gia", cạnh tranh lành
mạnh theo Pháp luật, không cho phép hình thành các tập đoàn độc quyền tư
nhân trong nước hay của nước ngoài. Tăng cường vai trò kiểm soát của Nhà
nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tích cực sử dụng các phương
tiện kỹ thuật hiện đại vào công tác quản lý. Tổ chức tốt việc đào tạo bồi dưỡng
nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ. Biết vận dụng những luật chơi
quốc tế để thực hiện mục tiêu của mình là yếu tố quan trọng để các doanh
nghiệp đứng vững trong hội nhập.
17
Năm là: Tăng cường hoạt động an ninh trong quá trình hội nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh quốc tế ngày càng phức tạp. Sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu làm thay đổi so sánh lực lượng về
cơ bản bất lợi cho đất nước ta. Trong một thế giới mà trật tự cũ đã biến mất, trật
tự mới còn chưa định hình, một thế giới mà những lợi ích của các quốc gia, các
khu vực đan xen vào nhau hơn bao giờ hết, vừa có mặt thống nhất, vừa có mặt
xung đột. Đó là môi trường thuận lợi cho các hoạt động phá hoại an ninh của các
thế lực thù địch đối với nước ta. Do đó, hơn bao giờ hết, nước ta phải luôn gắn
xây dựng với bảo vệ.
Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có thuận lợi, thời cơ mà còn
có cả những thách thức to lớn. Thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế, các thế
lực thù địch lợi dụng những yếu kém, sơ hở của ta để tiến hành "Diễn biến hoà
bình, bạo loạn lật đổ". Vì vậy, cần phải tăng cường các hoạt động an ninh trong
hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoạt động an ninh trong quá trình hội nhập được thực hiện trong mọi hoạt
động kinh tế xã hội, cần đấu tranh khắc phục tư tưởng lợi ích kinh tế thuần tuý,
không dự kiến hết những phương hại về an ninh có thể xảy ra trong qúa trình hội
nhập. Lực lượng Công an nhân dân và các cơ quan bảo về Pháp luật nhà nước
cùng với Quân đội là lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia trong quá
trình hội nhập. Phát hiện kịp thời những âm mưu, thủ đoạn xâm nhập phá hoại
của các thế lực thù địch.
Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, nhằm nâng cao
vị thế của nước ta trên chính trường quốc tế, đồng thời tạo thế đứng vững chắc,
có lợi của nền kinh tế nước ta trên thương trường toàn cầu và khu vực.
18
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng,
vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ
động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Các bộ, các cấp, các ngành cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế
nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà
nước ta tham gia.
Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững
an ninh quốc gia, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những
mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ "diễn biến hoà bình" đối với
nước ta.
CHỮ VIẾT TẮT
- ASEAN:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
- AFTA:
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
- IMF:
Quỹ tiền tệ quốc tế
- WB:
Ngân hàng thế giới
- APEC:
Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
- XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
- TBCN:
Tư bản chủ nghĩa
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Quốc phòng, Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954 -1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006.
2. Bộ Quốc phòng, Giáo trình giáo dục quốc phòng (Tài liệu bổ trợ) dùng
cho đối tượng 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
4. Học viện Chính trị Quân sự, Đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ
thống giáo dục quốc gia, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002.
5. Luật Nghĩa vụ quân sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.
6. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp lý luận
chính trị khối kiến thức hai, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
tập 7, Hà Nội, 2014.
7. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân sự Việt
Nam tập 14, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014.
20
- Xem thêm -