Bài tập nhóm tổng hợp đề tài 1 đo lường chất lượng dịch vụ phương pháp tiếp cận hệ thống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ
-----
-----
BÀI TẬP NHÓM TỔNG HỢP:
ĐỀ TÀI 1:
Đo lường chất lượng dịch vụ:
Phương pháp tiếp cận hệ thống.
ĐỀ TÀI 2:
Đánh giá chất lượng dịch vụ của việc phục vụ
thức ăn nhanh tại chỗ dành cho sinh viên
UEH tại siêu thị Family mart tại chi nhánh
Nguyễn Tri Phương.
TP.HCM 03/2016
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
BÀI TẬP NHÓM SỐ 1:
ĐỀ TÀI:
ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ:
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN HỆ THỐNG
2
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ: PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN HỆ THỐNG
Rose L. Johnson, Michael Tsiros and Richard A. Lancioni
Giới thiệu
Với sự thành lập của giải thưởng Malcolm Baldrige năm 1986 và tiêu chuẩn ISO 9000
năm 1988, doanh nghiệp quan tâm đến chất lượng sản phẩm nhiều hơn. Nhiều công ty đã
thay đổi và chú trọng đến chất lượng hơn. Nhiều biện pháp đo lường đã được phát triển để
giám sát chất lượng sản phẩm, tiêu biểu là các hệ phương pháp kiểm soát quá trình của
Deming và Juran. Các doanh nghiệp bắt đầu mở rộng các cuộc khảo sát khách hàng hàng
tháng để theo dõi hiệu suất của họ
Thất bại trong việc đo lường và kiểm soát chất lượng
Thất bại trong sự đo lường và kiểm soát chất lượng dịch vụ có thể được gây ra bởi 2 yếu
tố.
Thứ nhất, không dễ dàng để can thiệp vào hầu hết các dịch vụ vì nó có thể gây ra nhiều
khó khăn và làm cho kết quả nghiên cứu không đáng tin cậy. Những sự nhận thức về chất
lượng dịch vụ có thể khác nhau rất nhiều qua các mẫu quan sát, điều này có thể liên quan
đến sự khác nhau trong thực tế về dịch vụ, sự khó khăn của việc ghi nhận kết quả định
tính cuối cùng cũng có thể bị sai lệch.
Thứ hai, chất lượng dịch vụ không thể được mô phỏng theo bất kỳ kiểu mẫu nào, bởi vì
rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của một cá nhân về chất lượng dịch vụ. Các nhà
nghiên cứu đã nhận ra rằng rất khó khăn để loại bỏ bớt những yếu tố đó.
Tập trung vào kết quả cuối cùng
Ban đầu, đã có nhiều nổ lực nhằm đưa đo lường chất lượng dịch vụ thành khuôn khổ
trong ngành công nghiệp sản phẩm. Kết quả là, các nổ lực đó có xu hướng tập trung chủ
yếu vào kết quả cuối cùng, hoặc đầu ra của quá trình sản xuất. Ví dụ, tập đoàn Ameritech
3
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
ở Chicago đã tiến hành một cuộc nghiên cứu toàn diện về chất lượng dịch vụ được cung
cấp cho khách hàng sử dụng dịch vụ điện thoại bàn của họ (Theo Ameritech, năm 1993).
Công ty đã xem xét đầu ra của hệ thống dịch vụ như hiệu suất thiết bị, hiệu quả của hệ
thống sửa chửa và bảo trì, độ rõ của giọng nói được truyền tải trên điện thoại, và độ chính
xác của hệ thống thanh toán hóa đơn. Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu đã thất bại trong việc
xem xét các khía cạnh của dịch vụ sản xuất chẳng hạn như đào tạo nhân viên phục vụ và
chất lượng của sự tương tác giữa nhân viên với khách hàng.
Không quan tâm đến các phân đoạn riêng biệt
Có thể nói ví dụ trên chỉ là cố gắng để đo lường chất lượng dịch vụ, nhưng nó cho thấy
đây là đại diện điển hình của nhiều sự cố gắng tương tự. Kết quả chỉ ra rằng khi nhiều
doanh nghiệp đo lường chất lượng dịch vụ, họ tập trung chủ yếu vào kết quả cuối cùng và
có xu hướng bỏ qua các thành phần cấu thành dịch vụ, những điểm đóng ghóp vào các kết
quả cuối cùng. Tập đoàn Ameritech đã tập trung vào đầu ra của hệ thống dịch vụ của
mình và đo lường chúng.
Tuy nhiên, những công ty bắt đầu có cái nhìn toàn diện hơn về quá trình sản xuất dịch vụ.
Ví dụ, McDonald’s kiểm toán trên 12,000 nhà hàng hoạt động dưới hình thức nhượng
quyền thương mại trên toàn thế giới trên cơ sở hàng quý. Một cuộc kiểm toán bao gồm
các điểm như là: một sự đánh giá về cơ sở vật chất và các nguồn lực sản xuất dịch vụ
khác (ví dụ như bầu không khí, sự sạch sẽ, sự sắp sếp chỗ ngồi, và giờ hoạt động), những
tương tác với khách hàng của nhân viên (chẳng hạn như sự lịch sự, thân thiện, và lịch
thiệp của nhân viên bán hàng), và kết quả cuối cùng (như sự chính xác của đơn đặt hàng,
chất lượng và hương vị của thực phẩm, tốc độ đặt hàng và xử lí, theo Tập đoàn
McDonald’s năm 1992).
Điều cần thiết cho các công ty dịch vụ
Khả năng có thể đo lương tất cả các khía cạnh liên quan đến dịch vụ sản xuất là rất cần
thiết với một công ty dịch vụ. Với những khách hàng thì sự tương tác giữa nhà cung cấp
4
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
dịch vụ và các khách hàng là một phần không thể thiếu trong dịch vụ sản xuất, rõ ràng đo
lường nhận thức của họ trong cả 3 khía cạnh là rất cần thiết. Một điểm thiết yếu nữa là
khả năng phân biệt rạch ròi được những khía cạnh khác nhau để đánh giá chúng riêng
biệt, bởi vì công ty có thể thực hiện tốt được chỉ trong 1 phạm vi nhất định. Bằng cách sử
dụng các biện pháp đo lường khác nhau, doanh nghiệp có thể xác định nhân tố phù hợp
nhất và các nguồn lực có thể được phân bổ hiệu quả hơn trong suốt quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, quan điểm của toàn bộ bức tranh vẫn không bị thay đổi
Một công cụ được phát triển để đáp ứng những mục tiêu trong đo lường chất lượng dịch
vụ là Parasuraman et al.’s (1988) SERVQUAL scale. Cái mô hình này mô tả chất lượng
dịch vụ là sự khác biệt giữa kỳ vọng và nhận thức của khách hàng dành cho hiệu suất thực
tế với 5 chiều hướng – hữu hình, độ tin cậy, sự đáp ứng, bảo đảm, và sự đồng cảm.
Trong khi mô hình đã cố gắng để cung cấp mộ biện pháp đo lường khái quát chất lượng
dịch vụ, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tuyên bố như vậy có thể không thích hợp (ví dụ
như Babakus và Boller, năm 1992; Brensinger và Lambert, năm 1990; Carman, năm
1990). Và gần đây, mô hình SERVQUAL đã bị chỉ trích trên cả hai nền tảng về khái niệm
và phương pháp (ví dụ như e.g. Brown et al., 1993; Cronin and Taylor, 1994; Teas, 1994).
Nhiều nhà tiếp thị khác đã gợi ý đến sự tồn tại của nhiều yếu tố trong xây dựng chất
lượng dịch vụ. Ví dụ như, Sasser et al. (1978) đã đề xuất 3 khía cạnh của chất lượng dịch
vụ: nguyên vật liệu, trang thiết bị và nhân sự. Lehtinen và Lehtinen (1982) đã giới thiệu
rằng chất lượng dịch vụ gồm các thiết bị được sử dụng, hình ảnh và uy tín của công ty, và
sự tương tác giữa các nhân viên liên lạc và khách hàng.
Grönroos (1984) đã cho rằng chất lượng là một chức năng của những gì người tiêu dùng
thực sực nhận được và cách thức dịch vụ được cung cấp v.v…
Cung cấp dịch vụ là đa phương diện
Những khuôn khổ này thể hiện quan điểm rằng cung cấp dịch vụ là đa phương diện. Mặc
dù nhiều hệ thống các kiểu hình đã được giới thiệu, tuy nhiên, không ngoại trừ
5
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
SERVQUAL đã nhận được kiểm tra thực nghiệm rộng rãi. Vì vậy, các công ty dịch vụ vẫn
đang phải đối mặt với sự không chắc chắc khi cố gắng xác định một biện pháp thích hợp
về chất lượng dịch vụ. Do tầm quan trọng của việc đo lường và kiểm soát chất lượng dịch
vụ và những thiếu sót của các nỗ lực hiện có, công việc phát sinh trong lĩnh vực này có vẻ
như vẫn còn khá nhiều.
Mục đích của bài viết này là nhằm mô tả và kiểm tra một khuôn khổ cho việc đo lường
nhận thức khách hàng đối với chất lượng dịch vụ. Áp dụng lý thuyết hệ thống tổng hợp,
chúng ta sẽ thảo luận về những đóng ghóp của các quá trình dịch vụ đầu vào, và kết quả
đầu ra để nhận thức chất lượng tổng thể. Sau đó, chúng tôi sẽ trình bày các kết quả của hai
nghiên cứu khám phá sự phù hợp trong khuôn khổ. Cuối cùng, sự liên quan quản lý và ý
nghĩa của phương pháp tiếp cận của chúng tôi sẽ được mô tả.
Một hệ thống tổng quát tiếp cận đến các dịch vụ
Lý thuyết các hệ thống tổng quát nói chung là một mô hình nghiên cứu. Mô hình này cố
gắng tạo ra thuận lợi cho việc khái quát các nguyên tắc ứng xử trên một phạm vi rộng của
các tổ chức (Sirgy, 1984). Lý thuyết chỉ ra rằng một tổ chức, chẳng hạn như một công ty
dịch vụ, bao gồm sự sắp sếp của các hệ thống cấp dưới nhỏ hơn (như các phòng ban) và
hoạt động trong một hệ thống lớn hơn – môi trường. Hai trong số những chủ đề trọng tâm
của lý thuyết các hệ thống tổng quát là sự tương tác của các đơn vị nhỏ hơn trong một hệ
thống và sự tương tác của hệ thống với môi trường của nó (Kast và Rosenzweig, 1972).
Hệ thống lý thuyết
Trong trường hợp của một hoạt động sản xuất, lý thuyết các hệ thống giải thích bằng cách
nào các yếu tố đầu vào được thu nhận từ môi trường; phân bổ vào chu kỳ sản xuất, nơi sự
chuyển đối của các kết quả nguyên vật liệu thô trong thành phẩm; và thành phẩm được
quảng bá đến khách hàng như là đầu ra của công ty.
Theo khung hệ thống, đầu vào, quá trình, và đầu ra, mỗi loại đều đóng vai trò qua trọng
trong vận hành thành công của doanh nghiệp. Điều này là đúng cho các doanh nghiệp sản
6
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
xuất ở chỗ các thiết bị lạc hậu hoặc bảo trì kém có thể gây ra mức độ không thể chấp nhận
trên các sản phẩm lỗi. Tuy nhiên, các hệ thống tiếp cận, đặc biệt có liên quan đến các
nghiên cứu các dịch vụ và chất lượng dịch vụ.
Trong việc đánh giá chất lượng của hàng hóa vật chất, người tiêu dùng quan tâm chủ yếu
đến chính bản thân hàng hóa (hệ thống đầu ra). Tuy nhiên, bởi vì các tính chất độc đáo
của nhiều dịch vụ, người tiêu dùng bị vạch trần và ảnh hưởng bởi đầu vào của tổ chức và
các quá trình cũng như đầu ra của nó. Như vậy, một thước đo chất lượng dịch vụ tổng thể
nên bao gồm sự phán quyết của tất cả khía cạnh của các dịch vụ: đầu vào, quá trình, và
đầu ra (xem sơ đồ 1).
Như một kết quả của việc đồng thời sản xuất và sử dụng dịch vụ, người tiêu dùng thường
xuyên ghóp mặt trong các cơ sở sản xuất dịch vụ và nhận thức được chất lượng của các
thiết bị và môi trường tổng thể xung quanh. Chất lượng đầu vào, yếu tố đầu tiên, là thành
phần của việc đánh giá chất lượng tổng thể của người tiêu dùng, bao gồm việc xem xét
các yếu tố vật chất và nguồn lực sản xuất, cả hữu hình và vô hình.
Đánh giá chất lượng đầu vào
Ví dụ, đánh giá về chất lượng đầu vào sẽ bao gồm việc xem xét liệu các thiết bị dường
như vẫn còn hạn sử dụng và làm việc tốt; liệu khu vực chờ đã được trang bị một cách
thích hợp, sạch sẽ, và đủ ánh sáng; và liệu rằng các nhà cung cấp dịch vụ chúng tôi có
được bố trí đồng phục lao động phù hợp. Các kiến thức và kỹ năng sở hữu bởi nhân viên
đại diện cho các yêu tố đầu vào quan trọng đến sản xuất dịch vụ. Các yếu tố đầu vào có
thể được lấy từ các hệ thống đã nghiên cứu hoặc từ các hệ thống khác (Schoderbek et al.,
1990).
Khía cạnh chất lượng thứ 2, chất lượng quy trình, đề cập đến chất lượng của các tương tác
giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng, đó là cách thức thế nào dịch vụ được cung cấp. Bởi
vì sản xuất dịch vị và tiêu dùng là không thể tách rời, nên người tiêu dùng thường phản
tương tác với nhân viên phục vụ. Như vậy, người tiêu dừng thường trực tiếp bị ảnh hưởng
7
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
bởi quá trình sản xuất dịch vụ. Tiếp cận dịch vụ và tính sẵn sàng và sự lịch thiệp, thân
thiện, và sẵn lòng trả lời câu hỏi của nhà cung cấp, chính là các khía cạnh của chất lượng
quy trình.
Chất lượng đầu ra, yếu tố thứ 3, là thước đo của những gì được sản xuất như là kết quả
của việc cung cấp dịch vụ. Chất lượng đầu ra bao gồm các lợi ích vô hình cũng như bất kỳ
kết quả vô hình của dịch vụ, và hầu hết nó liên quan đến một sự thay đổi trong trạng thái
thể chất hoặcc tinh thần của người tiêu dùng hoặc một sự thay đổi trong vài sở hữu của
người tiêu dùng. Ví dụ, nó có liên quan với một vòi nước vẫn chảy nhỏ giọt sau chuyến
thăm của thợ sửa ống nước, hoặc cho dù người tiêu dùng sở hữu một nguyện vọng đúng
đắn sau khi công việc của luật sư được hoàn thành, hay trạng thái tinh thần và cảm xúc
của người tiêu dùng sau một buổi tối vui chơi giải trí.
Đầầu vào
Quá trình
Chầất lượng
Đầầu ra
Sơ đồ 1. Một hệ thống tiếp cận chất lượng dịch vụ
Các đầu ra của một hệ thống có thể thu được từ người tiêu dùng hoặc hệ thống khác cho
việc sử dụng riêng của họ, có thể được tiêu thụ bởi cùng hệ thống tương đương trong chu
kỳ sản xuất tiếp theo, hoặc được xử lý như phần dư thừa (Schoderbek et al., 1990). Khi
đầu ra được tiêu thụ bởi cùng hệ thống, chúng được gọi là phản hồi. Một ví dụ về phản
hồi có thể là kiến thức và kỹ năng. Chúng có được là do nhân viên thông qua việc cung
8
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
cấp dịch và và sau đó sử dụng để sản xuất các dịch vụ trong tương lai một cách hiệu quả
hơn. Trong khi một số nhà nghiên cứu xem những phản hồi là một đối tượng hệ thống
riêng biệt, chúng ta bao gồm chúng như một loại yếu tố đầu vào (cf. Schoderbek et al.,
1990).
Marketing và các chức năng của nó như một hệ thống
Mô hình hệ thống đã được sử dụng trong nghiên cứu marketing và các chức năng của nó.
Reidenbach và Oliva (1981) quan niệm về marketing và chức năng của nó như một hệ
thống sống. Nơi đó, phòng thứ nhất chịu trách nhiệm về việc thu thập thông tin và phổ
biến cho các phòng khác, phòng thứ hai xử lý các yếu tố đầu vào và chuyển thành yếu tố
đầu ra thích hợp. các phòng phải chịu trách nhiệm về thông tin mình cung cấp.
Ruekert và Walker (1987) mô tả sự tương tác marketing và các đơn vị chức năng khác của
công ty gồm 3 phần: đầu vào, quy trình và đầu ra. Yếu tố đầu vào bao gồm các điều kiện
của môi trường, yếu tố quy trình bao gồm các giao dịch, sự lưu thông của thông tin và các
mô hình phối hợp giữa marketing và các chức năng khá. Yếu tố đầu ra bao gồm các hoạt
động chức năng và tâm lý xã hội như hoàn thành các mục tiêu , mức độ nhận thức của các
mối quan hệ và xung đột.
Hệ thống tiếp cận để đánh giá các dịch vụ công ty
Murphy và Ross (1987) cho rằng “việc xử lý và phản hồi các giai đoạn, cũng như đầu vào
và đầu ra, tất cả đều rất quan trọng trong việc đánh giá đầy đủ các dịch vụ của công ty”.
Lưu ý, họ chỉ trích hệ thống đầu vào tiếp cận để đánh giá các dịch vụ công ty vì thông tin
không thông suốt giữa người cung cấp và người thực hiện dịch vụ. Ví dụ: dịch vụ chăm
sóc y tế.
Grove và Fish (1992) quá trình thục hiện dịch vụ gồm yếu tố đầu vào, số lượng nguyên
liệu đưa vào quá trình và kết quả đầu ra. Trong đó, phương pháp quan sát thích hợp nhất
cho việc nghiên cứu số lượng nguyên liệu đưa vào quá trình.
Phối hợp với hệ thống lý thuyết
Có sự trùng lắp giữa hệ thống lý thuyết nói chung và trong cả nghiên cứu hệ thống mô
hình. Ví dụ trong nghiên cứu mối quan hệ giữa phòng quảng cáo và phòng dịch vụ khách
hàng, Michell (1987) cho rằng sự không hài lòng với hiệu suất của các phòng là lý do
9
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
chính cho việc thay đổi chiến dịch. Hiệu suất của các phòng được đánh giá là một chức
năng của sự sáng tạo, dịch vụ khách hàng và kết quả chiến dịch.
Quy mô của chất lượng vật liệu hữu hình, hình ảnh của công ty, chất lượng kĩ thuật và vật
chất hỗ trợ phù hợp với quy mô đầu vào. Quy trình bao gồm hiệu quả phối hợp, tương tác
giữa các nhân viên và khách hàng, chất lượng chức năng được đáp ứng và bảo đảm. Cuối
cùng khoảng cách đầu ra được thể hiện trong kết quả và độ tin cậy.
Parasuraman et al (1991a, P.425) quan sát thấy rằng “sự đáp ứng và đảm bảo khoảng cách
hiển thị một sự trùng lắp đáng kể và tương tự hệ số nhân tố tải”.
Hai nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện
Một thử nghiệm trong mô hình
Hai nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện để kiểm tra sự phù hợp của các mô hình
hệ thống để mô tả nhận thức chất lượng dịch vụ. Mục tiêu thứ nhất là để xác định bộ phận
của từng khoảng cách chất lượng dịch vụ và xác định mức độ khoảng cách để giải thích
sai lầm trong nhận thức về chất lượng tổng thể. Mục tiêu thứ hai là xác định mức độ mà
mô hình các biện pháp có thể được khái quát qua các loại dịch vụ khác nhau.
Nghiên cứu 1
Một cuộc khảo sát đã được tiến hành để đo mức độ nhận thức của các doanh nghiệp trong
ba ngành công nghiệp dịch vụ: nhà hàng, ngân hàng và giao thông công cộng. Sinh viên
khối ngành kinh doanh tại trường đại học East Coast cung cấp 195 đánh giá về dịch vụ.
Để đảm bảo rằng người trả lời là người tiêu dùng thực tế của các dịch vụ mà họ đánh giá,
người trả lời được yêu cầu nêu tên và đánh giá một nhà hàng phục vụ đầy đủ mà họ đã
viếng thăm trong bốn tuần qua. Các bản khảo sát được phân phối ngẫu nhiên trong số
những người được hỏi.
Cuộc khảo sát bao gồm 29 đánh giá về chất lượng dịch vụ được đo bằng thang đo Likret
1-5. Một số yếu tố đã được chuyển thể từ mô hình SERVQUAL trong khi những yếu tố
khác được tạo bởi người nghiên cứu. Các mặt nhận thức của dịch vụ là như nhau đối với
từng loại dịch vụ. Đối với đánh giá ban đầu của mô hình đầu vào, quy trình và mô hình
đầu ra, một biến phân tích được đánh giá với ba biến quy định một cách tiên nghiệm.
Sử dụng luân chuyển trực giao
10
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
Một vòng quay trực giao được sử dụng để giữ cho các yếu tố càng độc lập với nhau càng
tốt. Kiểm tra các cầu thể Bartlett (V = 4.870, p <0,001) cho rằng các biến 29 không phải
là độc lập, do đó nó thích hợp cho phân tích nhân tố.
Các mặt hàng quy mô và yếu tố tải trọng được cung cấp trong bảng I. Một số mặt hàng đo
kích thước đầu vào bị sai sót do tương quan thấp với các yếu tố đầu vào. Một số trong
những mặt hàng như các biện pháp kiến thức, đào tạo nhân viên, có thể là khó khăn cho
các khách hàng đánh giá vì sự tham gia thấp và thường xuyên tiếp xúc. Chất lượng dịch
vụ tổng thể được đánh giá thông qua bảy - điểm ngữ nghĩa chênh lệch món đồ ( chấất lượng
rấất cao / chấất lượng rấất thấấp ).
Yếu tố
Yếu tố (α)
Mặt hàng
Đầu vào (0.85)
Nhà cung cấp có uy tín về chất lượng
Nhà cung cấp có thiết bị để cập nhật các mặt hang
tải trọng
0.67
0.64
phù hợp với từng loại
dịch vụ cung cấp
Các cơ sở vật chất trực quan hấp dẫn
Các khu vực chờ đợi thoải mái
0.61
0.58
0.51
Nhà cung cấp các dịch vụ thân thiện
Nhà cung cấp dịch vụ vui vẻ khi phục vụ
0.87
0.81
Qui trình (0.96)
Nhà cung cấp dịch vụ dành thời gian dể trả lời câu
hỏi
Đầu ra (0.95)
Nhà cung cấp dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu của tôi
Nhà cung cấp dịch vụ lịch sự
Nhà cung cấp dịch vụ chú ý tới nhu cầu của tôi
Tôi nhận được sự quan tâm cá nhân
0.81
0.80
0.77
0.75
0.66
Các mục tiêu đặt ra đã hoàn thành
Tôi nhận được dịch vụ mà tôi mong đợi
Lần đầu tiên dịch vụ này được thực hiện
Kết quả dịch vụ đáp ứng mong đợi của tôi
0.82
0.78
0.76
0.74
11
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
Dịch vụ cung cấp những tiện ích mà tôi mong muốn
Công ty cung câp dịch vụ đáng tin cậy
Dịch vụ thực hiện là đáng tin cập
Dịch vụ được cung cấp như đã hứa
Bảng 1. Quy mô và kết quả phân tích các nhân tố
0.73
0.71
0.66
0.64
Bước tiếp theo, chúng tôi chạy một phân tích hồi quy. Mô hình tổng thể là đáng tin cậy và
giải thích 73% sự biến đổi về chất lượng dịch vụ tổng thể.
Sự khác biệt giữa các loại hình dịch vụ
Parasuraman và et al (1991a) được tìm thấy để giải thích 57-71% của sự biến đổi về chất
lượng tổng thể phụ thuộc vào các loại hình dịch vụ. Trong số ba chiều, đầu ra là yếu tố dự
báo mạnh nhất của chất lượng dịch vụ tổng thể, tiếp theo là quá trình và khía cạnh dữ liệu
nhập vào không có ảnh hưởng đáng kể đối với chất lượng dịch vụ tổng thể. Kết quả của
phân tích được cung cấp trong bảng II. Chúng tôi nhận ra rằng có những khác biệt quan
trọng giữa các loại hình dịch vụ mà có thể bị che khuất trong phân tích kết hợp của chúng
tôi.
Dự báo mạnh mẽ và có ý nghĩa
Kết quả của những phân tích riêng là khá tương tự như kết quả kết hợp (xem Bảng II) Sản
lượng là một yếu tố dự báo mạnh mẽ và quan trọng của chất lượng dịch vụ tổng thể trong
từng trường hợp, và là quá trình quan trọng cho các nhà hàng và vận chuyển. Như trong
phân tích tổng hợp, đầu vào là không đáng kể cho bất kỳ dịch vụ.Kết quả của chúng tôi
phù hợp với những gợi ý của người khác mà kết quả đầu ra sẽ có tầm quan trọng lớn nhất
đối với người tiêu dùng (Murphy và Ross, 1987; Parasuraman et al, 1991b.). Chúng ta
phải lưu ý rằng ba biến dự báo tương quan mạnh mẽ với nhau.
Đầu vào
Phân tích tổng hợp
Ước lương chuẩn
Sai số chuẩn
Sai số chuẩn
Nghiệp vụ ngân hang
Nhà hang
Ước lượng chuẩn
Ước lượng chuẩn hóa
Sai số chuẩn
Transportation
Tiêu chuẩn ước lượng
Sai số chuẩn
Chú thích:
* p < 0.001
** p > 0.100
Biến dự đoán
Quá trình
Đầu ra
–0.018**
0.142
0.097
0.393*
0.174
0.090
0.538*
0.182
0.094
–0.012**
–0.082**
0.194
0.151**
0.551*
0.245
0.610*
0.416*
0.206
0.042**
0.212
0.290*
0.145
0.635*
0.151
12
Nhóm 19
Khóa 39
R2
0.73
N
193
0.53
0.78
66
67
0.70
60
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
Bảng II. Những kết quả hồi quy
Những mối tương quan có thể đã gây ra sự thiếu ý nghĩa của các biến đầu vào trong
phương trình hồi quy.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện thêm hai cuộc điều tra bằng hai phương pháp khác nhau về sự
đóng góp của mỗi chiều đến quá trình đánh giá. Đầu tiên, chúng tôi chạy phân tích hồi
quy cho các bộ dữ liệu kết hợp và cho từng ngành công nghiệp sử dụng các điểm yếu tố
như các biến độc lập của chúng tôi. Thứ hai, chúng tôi đã tiến hành một loạt các nhóm tập
trung. Nghiên cứu 2 cung cấp một mô tả về những cuộc phỏng vấn và kết quả mà chúng
tôi thu được.
Phân tích các điểm yếu tố
Điểm yếu tố là các biện pháp tổng hợp đại diện cho sự đóng góp của từng hạng mục quy
mô mỗi chiều trong một phân tích nhân tố. Kể từ khi một vòng quay trực giao được sử
dụng, việc sử dụng các điểm yếu tố giữ ba yếu tố dự báo độc lập với nhau. Trong phân
tích này, mô hình tổng thể giải thích 71% sự biến đổi về chất lượng dịch vụ tổng thể.
Ngoài ra, tất cả ba yếu tố có độ tin cậy cao và tác động tích cực đến chất lượng tổng thể
(xem Bảng III).
Chúng tôi lặp đi lặp lại các phân tích bằng cách sử dụng điểm số yếu tố cho từng loại dịch
vụ riêng biệt. Đầu ra và quá trình là yếu tố dự báo mạnh mẽ và quan trọng của chất lượng
dịch vụ tổng thể trong cả ba loại dịch vụ. Tuy nhiên, đầu vào có ý nghĩa chỉ cho các dịch
13
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
vụ giao thông vận tải. Các kết quả từ những phân tích được trình bày trong Bảng III. Các
mâu thuẫn giữa các kết quả tổng thể và cá nhân có thể một phần là do cỡ mẫu nhỏ và kết
quả tin cậy thấp của các bài kiểm tra trong các phân tích riêng biệt.
Nhìn chung, kết quả này được chấp nhận như là cung cấp, hỗ trợ cho các hệ thống của
chúng tôi.
Phỏng vấn nhóm tập trung
Nghiên cứu 2 : Hệ thống lý thuyết sử dụng trong maketing và quản lý về cơ bản cung cấp
cho chúng ta những kỳ vọng mà mỗi khía cạnh đều sẽ đóng góp đáng kể đến nhận thức về
chất lượng dịch vụ .
Với bất cứ nghiên cứu thực nghiệm nào , thất bại trong việc chứng minh những kỳ vọng
có thể là do khung (lý thuyết) hoặc phương pháp nghiên cứu . Sử dụng những phương
pháp khác nhau giúp chúng ta xác định được những nguyên nhân tạo ra kết quả . Vì vậy ,
để hiểu rỏ hơn nhận thức của khách hàng về chất lượng dịch vụ , chúng ta cần tiến hành
các cuộc phỏng vấn nhóm tập trung :
Đối với nhóm tập trung , 8 nhóm với các thành viên ở trình độ đại học kinh tế thảo luận
về chất lượng dịch vụ đối với 1 trong 4 loại hình dịch vụ ( nhà hàng , cung cấp xăng dầu ,
rữa xe, và du lịch ) Mỗi loại dịch vụ cần được thảo luận bởi 2 nhóm bao gồm khoảng 8
thành viên mỗi nhóm , bắt đầu bằng cách lập một bản khảo sát để tổng hợp số liệu về mỗi
loại hình dịch vụ trong vòng sáu tháng qua .
Cuộc phỏng vấn bắt đầu với việc mỗi thành viên trong nhóm chia sẽ về những số liệu gần
đây về mỗi loại hình dịch vụ . Phần chính của cuộc phỏng vấn là thảo luận về những vấn
đề mà mỗi thành viên cho rằng nó quan trọng trong việc đánh giá chất lượng của từng loại
hình dịch vụ . Để thuận lợi cho việc thảo luận , người điều hành nhóm cần ghi lại những ý
chính lên bảng . Bên cạnh đó , mỗi cuộc thảo luận của nhóm cần được ghi âm lại . Sau
các cuộc thảo luận, băng cần được ghi chép lại. Mỗi ý tưởng cá nhân hoặc cụm từ từ băng
cần được liệt kê, nhưng các mục đã được đề cập bởi nhiều người thì chỉ nên ghi lại 1 lần .
14
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
Phân tích hoạch định nhóm tập trung cần có sự tham gia của nhóm thứ 9 , gồm ba thành
viên có học vị tiến sĩ kinh tế. Các thành viên đã được hưởng một nền tảng về hệ thống lý
thuyết chung, và có thể phân loại các nhóm tập trung để thảo luận các nội dung riêng biệt
và sau đó để thảo luận về sự phù hợp của từng nội dung với khuôn mẫu .
Những nội dung cần đánh giá để xem xét chất lượng dịch vụ , 39% là nội dung hoạch
định , 45% tiến hành, 16% kiểm soát . Vì vậy, các kết quả từ các nhóm tập trung được coi
là hiệu quả khi có đánh giá về hoạch định chất lượng dịch vụ và tiến hànhtốt .
Khái quát hóa khuôn mẫu
Hoạt động quản lý và khuyến nghị
Bài viết này mô tả một phương pháp tiếp cận hệ thống chung để đo lường nhận thức của
người tiêu dùng về chất lượng dịch vụ. Người tiêu dùng xem xét các khía cạnh của hoạch
định dịch vụ, tiến hành, và kết quả khi thực hiện đánh giá chất lượng . Phần khảo sát
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng khi kết hợp các yếu tố với nhau giúp giải thích
phần lớn những sự thay đổi trong nhận thức về chất lượng của người tiêu dùng .Ngoài ra,
bằng cách nghiên cứu sáu dịch vụ khác nhau, chúng tôi có thể giải thích một mức độ khái
quát hóa cho từng tiêu chuẩn mẫu .
Việc thiết lập một hệ thống đo lường về mặt lý thuyết và khái quát trong các ngành công
nghiệp dịch vụ là rất quan trọng. Một hệ thống đo lường thích hợp hơn sẽ giúp các nhà
quản lý dịch vụ xây dựng những tiêu chuẩn chất lượng chính xác tạo ra kết quả cao trong
việc cung cấp các dịch vụ. nói chung cách tiếp cận hệ thống cho thấy rằng các tiêu chuẩn
chất lượng như vậy nên được thiết lập cho các hoạch định, tiến hành, kiểm soát sản xuất
dịch vụ.
Tầm nhìn rộng của tổ chức
Schoderbek et al. (1990) đã xác định một số lợi ích tiềm năng của các hệ thống hóa suy
nghĩ của các nhà quản lý của tổ chức. Suy nghĩ như thế có ít nhất bốn lợi ích; đó là :
(1) Giải phóng các nhà quản lý khỏi việc giữ một chức năng hạn hẹp của một nhiệm vụ và
giúp anh ta / cô ta xác định hệ thống phụ mà có thể thực hiện được nhiều chức năng .
15
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
(2) Cho phép người quản lý gắn liền mục tiêu của mình với mục tiêu chung của tổ chức;
(3) Cho phép các tổ chức cấu trúc các hệ thống phụ khác nhau trong một cách phù hợp
với mục tiêu chung của hệ thống; và
(4) Cho phép đánh giá sự hiệu quả của cả hai hệ thống chung và hệ thống phụ. Trong khi
chúng ta tập trung vào các hệ thống sản xuất dịch vụ chung, khái niệm có thể dễ dàng
thích nghi với hệ thống phụ .
Những điều cần cải thiện
Ngoài việc tạo điều kiện cho tầm nhìn của tổ chức, xác định nhiều khía cạnh liên quan
đến nhận thức của khách hàng về một dịch vụ có thể hữu ích cho việc xác định những
việc cụ thể cần phải cải thiện. Ở phần hoạch định, đo lường chất lượng chính xác hơn sẽ
cho phép các công ty thành lập mức chất lượng đầu để cung cấp dịch vụ cho khách hàng
của họ. Đo nhận thức của người tiêu dùng của các yếu tố này sẽ cho phép các công ty
hiểu được cần thiết phải đầu tư bao nhiêu vào từng loại dịch vụ
Hoạch định cũng bao gồm :đào tạo cho nhân viên mới , đào tạo tăng chất lượng phục vụ
khách hàng (chính thức hoặc không chính thức) , đào tạo sẽ cho phép họ điều chỉnh cách
làm việc của nhân viên.
Đo lường các hoạt động trong tiến hànhcung cấp dịch vụ (ví dụ như mức độ cung cấp
dịch vụ, chất lượng nhân viên khi tương tác với khách hàng) sẽ cho phép quản lý xác định
được đầu tư bao nhiêu là cần thiết để duy trì hoặc cải thiện trải nghiệm dịch vụ. Ví dụ,
một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các thành phần trong tiến hànhlà hệ thống khen
thưởng của công ty sử dụng để kích thích nhân viên của mình làm việc hiệu quả hơn. Hệ
thống khen thưởng có thể bao gồm các chương trình như : nhân viên của năm, giải
thưởng cho các quản lý xuất xắc, chương trình thưởng tiền theo hiệu suất, vv Bằng cách
xem xét quy trình một cách thường xuyên, một công ty có thể thực hiện việc đánh giá tốt
hơn là đợi đến khi cập nhật hoặc thay thế các chương trình khuyến khích.
Kiểm soát
16
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
Các thiết bị đo lường được sử dụng ở đây bao gồm khảo sát dịch vụ khách hàng, đánh giá
nhóm tập trung và trực tiếp làm các cuộc phỏng vấn một-đối-một với khách hàng. Các
biện pháp đánh giá cho phép một công ty kiểm soát được những thành công và thất bại .
Ví dụ, trong ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe nhiều bệnh viện thường xuyên phỏng
vấn bệnh nhân xuất viện về chất lượng của dịch vụ mà họ nhận được trong khi điều trị
trong bệnh viện. Điều này cho phép các bệnh viện cá nhân xác định được các phòng ban
trong bệnh viện làm chưa tốt và những phòng ban xuất sắc. Dựa trên thông tin này có thể
điều chỉnh được công việc và đưa ra phần thưởng.
Phản hồi từ khách hàng có thể ảnh hưởng đến quyết định ở các bước (hoạch định, tiến
hành , kiểm soát). Ví dụ, khảo sát chất lượng dịch vụ cho thấy rằng khách hàng hoặc thu
thập thông tin phản hồi từ nhân viên là một yếu tố quan trọng trong việc liên tục cải thiện
sản xuất dịch vụ.
Chiến lược cung cấp chất lượng dịch vụ
Bằng cách hiểu được sức mạnh của quy trình chất lượng dịch vụ, các nhà quản lý sẽ có
thể phát triển các kế hoạch dịch vụ với mục tiêu thực tế, ngân sách đầy đủ và đạt được kết
quả cho các công ty của họ. Kế hoạch của họ sau đó có thể được sử dụng để phát triển
chiến lược về chất lượng dịch vụ sản xuất . Các kế hoạch có thể là ngắn hạn, trung và dài
hạn .
Hoạch định , tiến hành , kiểm soát là các bước cần được trình bày trong các kế hoạch về
dịch vụ. Thông thường, kế hoạch về dịch vụ không được phát triển bởi công ty theo hàng
năm.
Đo lường chất lượng dịch vụ trên một cách thường xuyên sẽ khuyến khích các doanh
nghiệp chú ý đến các hoạt động dịch vụ của họ.
17
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
BÀI TẬP NHÓM SỐ 2:
Đánh giá chất lượng dịch vụ của việc phục vụ
thức ăn nhanh tại chỗ dành cho sinh viên
UEH tại siêu thị Family mart tại chi nhánh
Nguyễn Tri Phương.
18
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
PHẦN GIỚI THIỆU
Từ Trung đại (bắt đầu từ thế kỉ X đến thế kỉ XV) khái niệm nghiên cứu xuất hiện đầu tiên
trong ngôn ngữ và nhận thức của một bộ phận người dân Pháp. Trong một thời gian ngắn,
khái niệm này được chuyển phát nhanh đến các nước trên thế giới. Ngày nay nghiên cứu
có vai trò đặc biệt quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và
kinh tế nói riêng. Tuỳ thuộc vào mỗi lĩnh vực khác nhau, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu khác nhau mà người nghiên cứu lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp và mang
lại hiệu quả.
Trong kinh tế học, phương pháp nghiên cứu kinh tế là môn học có ý nghĩa giúp cho sinh
viên nắm được một số khái niệm cơ bản về khoa học, nghiên cứu khoa học, phương pháp
nghiên cứu khoa học, tổ chức công tác nghiên cứu khoa học, nội dung các phương pháp
nghiên cứu kinh tế chủ yếu, phương pháp tích luỹ tài liệu, xử lý và phân tích tài liệu bằng
phương pháp thống kê và phương pháp toán kinh tế, phương pháp nghiên cứu và viết luận
văn tốt nghiệp đại học.
Là những nhà kinh tế trong tương lai, chúng tôi nhận thức rõ vai trò phương pháp nghiên
cứu trong kinh tế kinh doanh. Để củng cố những kiến thức, bổ sung và hoàn thiện thêm kĩ
năng liên quan đến môn học, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu thực tế xoay
quanh việc tìm hiểu, phân tích mức độ thoả mãn của khách hàng khi đi mua hàng ở siêu
thị FarmilyMart địa chỉ ở đường Nguyễn Chi Phương ( gần cơ sở B Trường Đại Học Kinh
Tế TP HCM )
Dưới đây là kết quả của quá trình tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo của nhóm chúng tôi. Đây
là lần đầu nhóm thực hiện một đề tài nghiên cứu, nên không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Vì vậy nhóm rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, bổ sung, chỉnh sửa từ
phía thầy giáo và bạn đọc để đề tài có thể hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn !
19
Nhóm 19
Khóa 39
Quản trị chất lượng
Đại học Kinh Tế TP.HCM
LỜI CẢM ƠN
Sự thoả mãn của khách hàng không chỉ kà chìa khoá thành công, mà còn là lá bùa
tính mạng của mọi doanh nghiệp. Nghiên cứu, đánh giá mức độ thoả mãn khách hàng đối
với siêu thị FarmilyMart có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực hiện đề tài này là thách
thức lớn và cũng là cơ hội không nhỏ giúp nhóm chúng tôi hoàn thiện hơn về nhận thức
và kĩ năng nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm đã gặp không ít khó khăn trong
việc chọn đề tài nghiên cứu, xác định đối tượng nghiên, tổ chức làm việc nhóm, thống
nhất ý kiến,…Bên cạnh những khó khăn đó, nhóm cũng đã có được những thuận lợi
không nhỏ. Đó là sự quan tâm, chỉ dẫn nhiệt tình của thầy giáo bộ môn Nguyễn Văn Hóa.
Đó là sự giúp đỡ của các thành viên trong lớp. Ngoài ra, sự cố gắng, nỗ lực, hợp tác và
đoàn kết của các thành viên trong nhóm tạo nên sức mạnh tập thể. Tất cả là nguồn động
lực lớn giúp nhóm vượt qua khó khăn và hoàn thành tốt đề tài. Có thể nói rằng một đề tài
được thực hiện, một chuyên đề được hoàn thành là một bài học vô cùng quý giá cho
chúng tôi. Thông qua đề tài, nhóm chúng tôi có thể rút kinh nghiệm trong việc trau dồi
kiến thức, rèn luyện kĩ năng, nâng cao khả năng làm việc nhóm. Qua đó, chúng tôi có cơ
hội phát huy và khẳng định năng lực nhóm, năng lực của mỗi thành viên trong nhóm.
Để kết thúc đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến thầy
giáo, các bạn đã bước cùng chúng tôi trong hành trình thực hiện đề tài.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn!
TP HCM, ngày 27 tháng 2 năm 2016
20
Nhóm 19
Khóa 39
- Xem thêm -