PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một nhà văn người Pháp có nói rằng: “Ngôn ngữ là chiếc gương để ta soi
mình trong đó”. Ngôn ngữ chính là phương tiện để tư duy, là cơ sở của mọi sự
suy nghĩ. Nó đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ và các quá trình tâm
lí khác, chính vì vậy mà trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non cần
hình thành và phát triển ngôn ngữ.
Đời sống của con người ngày càng phong phú và phát triển hơn đó là nhờ có
ngôn ngữ. Con người có thể thông báo, trao đổi, truyền đạt, thông cảm, diễn tả,
trình bày tất cả những thông tin cần thiết cho nhau thông qua ngôn ngữ. Nhờ
ngôn ngữ mà người ta xích lại gần nhau hơn, tâm sự với nhau những nỗi niềm
thầm kín…
Ngôn ngữ tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Nhờ ngôn ngữ mà con người khác xa so với động vật. Nó có vai trò quan trọng
đối với con người, đối với những kho tàng văn hóa, những tri thức, những kinh
nghiệm lịch sử đều được chứa đựng trong ngôn ngữ. Đặc biệt, đối với trẻ sự phát
triển ngôn ngữ trong những năm tháng đầu đời có vai trò rất quan trọng với khả
năng tư duy, nhận thức và giao tiếp cũng như toàn bộ quá trình phát triển về sau
của trẻ. Không chỉ vậy mà đối với trẻ, ngôn ngữ còn là phương tiện để điều
khiển, điều chỉnh hành vi giúp trẻ lĩnh hội các giá trị đạo đức mang tính chuẩn
mực. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là rất quan trọng, đặc biệt
ở độ tuổi 4 – 5 tuổi trẻ đang cần được học ngôn ngữ một cách chính xác. Đây là
giai đoạn trẻ rất thích học nói vì luôn mong muốn mình được hòa nhập vào xã hội
của người lớn. Với tần số nói ngày một tăng đáng kể, trẻ sử dụng chủ yếu là ngôn
ngữ nói để làm phương tiện giao tiếp cho mình. Đôi khi cũng chính vì điều đó mà
trẻ dễ mắc phải một số lỗi sai về ngôn ngữ. Đây là thời điểm tốt để rèn luyện phát
âm chuẩn và phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhằm hoàn thiện hơn cho trẻ. Mặc khác
việc chăm sóc giáo dục trẻ phát triển toàn diện là một vấn đề quan trọng trong chiến
lược phát huy nhân tố con người của Đảng và nhà nước là mục tiêu đào tạo của
ngành học Mầm non. Theo tinh thần quyết định 155, quy định mục tiêu, kế hoạch
đào tạo của bộ giáo dục - 1990, chủ trương của Đảng, nhà nước ta luôn coi trọng
giáo dục và coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Một trong những nhiệm vụ hàng
đầu của trường Mầm non là phát triển ngôn ngữ mạch lạc - làm giàu vốn từ cho trẻ.
Ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ ( 4 - 5 tuổi), việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là hết sức
quan trọng, tạo tiền đề cho trẻ cho trẻ bước vào các lớp học tiếp theo.
Với những lý do trên và bằng sự hiểu biết của mình, đồng thời dựa vào trên sự
tiếp thu học hỏi những thành tựu của các công trình nghiên cứu khác, tôi đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài: " Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 5 tuổi".
2. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát thực tiễn và tìm hiểu cơ sở lý luận, tôi đã đề xuất một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi. Tôi tìm các cơ sở lý luận
và thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Xây dựng các biện pháp nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi. Tổ chức thực nghiệm để khẳng định
tính khả thi của các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi.
Xử lý kết quả nghiên cứu.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi".
3.2 Khách thể nghiên cứu
- Trẻ 4 – 5 tuổi (50 trẻ), giáo viên (21 giáo viên) ở 2 trường Mầm non.
- Trường mẫu giáo vĩnh bình Xã Vĩnh Thạnh - Huyện Vĩnh Thạnh - TP
Cần Thơ.
- Trường Mẫu giáo Thốt Nốt – Quận Thốt Nốt - TP Cần Thơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu và khảo sát thực trạng trẻ 4 – 5 tuổi ở trường Mầm non.
- Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non trong độ tuổi
từ 4 - 5 tuổi.
- Tổ chức thể nghiệm để ứng dụng đề xuất tính khả thi của các biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non (4 – 5 tuổi) mà đề tài nghiên cứu.
- Xử lí kết quả nghiên cứu.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Tôi đã tiến hành nghiên cứu ở 2 trường
+ Trường mẫu giáo vĩnh bình Xã Vĩnh Thạnh - Huyện Vĩnh Thạnh - TP Cần
Thơ.
+ Trường Mẫu giáo Thốt Nốt - Quận Thốt Nốt - TP Cần Thơ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6. 1 Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc sách, báo và các tài liệu có liên quan tới vấn đề đang nghiên cứu. Từ
đó chọn lọc để xây dựng nên cơ sở lí luận cho đề tài.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Dùng phiếu Anket điều tra kết hợp với việc trao đổi những thông tin có liên
quan về vấn đề nghiên cứu với các giáo viên ở trường mầm non, nhằm phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non từ 4 – 5 tuổi.
6.3 Phương pháp quan sát
- Sử dụng phương pháp quan sát: Quan sát và ghi chép những hoạt động
của trẻ để đưa ra các phương pháp hợp lí với tâm sinh lí của trẻ 4 – 5 tuổi.
6.4 Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Sử dụng các phương pháp tác động đến một nhóm trẻ được chọn để thực
nghiệm.
- Xử lí kết quả nghiên cứu bằng phương pháp thống kê toán học.
7. Tiến độ của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài gồm 2 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận đề tài
Trong chương này chúng tôi đề cập tới những cơ sở lí luận về ngôn ngữ của
trẻ Mẫu giáo, cụ thể là trẻ 4 – 5 tuổi.
Chương 2: Một số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo từ 4
– 5 tuổi.
Ở chương này chúng tôi đã xây dựng một số biện pháp, quy trình vận dụng
phương pháp giáo dục để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Ngôn ngữ
1.1 Khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là dùng để chỉ một hệ thống các ký tự hiệu ngữ âm có ý nghĩa
chung đối với một số cộng đồng người và có những nguyên tắc về phát âm, ngữ
pháp và ngữ nghĩa nhất định để thống sử dụng trong cộng đồng người ấy. Chúng
ta có thể gọi hệ thống các kí hiệu đó là tiếng nói như tiếng Việt, tiếng Anh...hay
là ngôn ngữ.
V. Lênin đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người”. Ngôn ngữ là một hệ thống các ký hiệu có cấu trúc,
quy tắc và ý nghĩa. Đồng thời, ngôn ngữ cũng là phương tiện để phát triển tư duy,
truyền đạt và tiếp nhận những nét đẹp của truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Cũng có khái niệm khác về ngôn ngữ theo E. L. Tikhêeva – Nhà giáo dục
học Liên xô cũ đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là chìa khóa
để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc, của nhân
loại. Do ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người…”
Không chỉ có vậy, ngôn ngữ tạo nên những con người có linh hồn. Ngôn ngữ
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nên tư duy, nhân cách của con
người, thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh hành động chính bản thân mình.
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ có ngôn
ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau
những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những nỗi niềm thầm kín,.…
Đối với trẻ em, ngôn ngữ là cầu nối để đến với thế giới của nhân loại. Ngôn ngữ
trở thành công cụ để trẻ bày tỏ suy nghĩ, những tâm tư, tình cảm, những mong muốn
của cá nhân mình. Bởi lẽ, trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung
quanh, mong muốn hòa nhập với xã hội của loài người.
1.2 Phân loại ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ dạng hoạt động ngôn ngữ chủ yếu, các dạng
hoạt động ngôn ngữ khác như ngôn ngữ viết đều được xây dựng theo mẫu của
ngôn ngữ nói tùy theo hoàn cảnh hoạt động ngôn ngữ mà ngôn ngữ nói có 2 hình
thức.
+ Ngôn ngữ đối thoại: Dùng trong khi giao tiếp với người khác mang
tính chất trò chuyện giữa những người cùng trò chuyện.
+ Ngôn ngữ độc thoại: Chỉ diễn ra 1 chủ thể chỉ có 1 người nói
- Ngôn ngữ viết: Dùng chữ viết để diễn đạt điều muốn “ nói” với người
khác.
- Ngôn ngữ bên trong ( Ngôn ngữ thầm) được phát triển trên cơ sở ngôn
ngữ ngoài được sử dụng tự nói với bản thân. Ngôn ngữ này không nói mà cũng
không viết chỉ bằng những ý nghĩ, dự định.
1.3 Chức năng ngôn ngữ
- Một trong những chức năng quang trọng nhất đó là phương tiện cho sự
tồn tại, truyền đạt và lĩnh hội những khinh nghiệm lịch sử xã hội của nhân loại
hay của một cộng đồng người
- Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp giữa người với người trong xã hội
- Ngôn ngữ là phương tiện để hoạt động trí tuệ để tư duy
- Ngôn ngữ là phương tiện điều khiển, điều chỉnh hành vi và cải tổ các
chức năng tâm lý của con người làm cho nó khác xa tâm lý của con vật.
1.4 Vai trò của ngôn ngữ
* Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế
giới xung quanh
Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy. Trẻ
em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Trong quá trình
nhận thức những sự vật và hiện tượng, các em phải sử dụng từ ngữ để phân biệt
được vật này với vật khác, biết được tên gọi, màu sắc, hình dáng, công dụng và
những thuộc tính cơ bản của vật,… (ví dụ: Trẻ làm quen với xe đạp, trẻ biết đặc
điểm, cấu tạo, công dụng…của xe đạp và nói được từ “xe đạp”).
Trẻ tiếp thu kiến thức từ môi trường xung quanh thông qua khả năng phân
tích, so sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó trẻ khái quát về vật. Ví dụ, khi trẻ nhận xét
về xe đạp:
Trẻ nhìn thì biết được màu đỏ (xanh).
Trẻ quay bàn đạp thì bánh xe quay.
Trẻ sờ vào sườn xe thì biết nó láng, bóng.
Từ ngữ giúp cho việc cũng cố những biểu tượng đã hình thành ở trẻ.
Trẻ không chỉ nhận biết các sự vật hiện tượng xung quanh gần gũi, mà còn tìm
hiểu những sự vật hiện tượng không xuất hiện trực tiếp trước mắt trẻ, những sự vật
xảy ra trong quá khứ, tương lai. Như vậy, ngôn ngữ không chỉ giúp cho trẻ củng cố
kiến thức mà còn mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu về chính mình, về con người và khám phá các
sự vật xung quanh cũng như những biến cố đang xảy ra trong đời sống, hay các
hiện tượng xung quanh như nắng, mưa, nóng, lạnh,… qua đó trẻ có thể nhận thức
về môi trường xung quanh.
Thật vậy, hầu hết trẻ thơ đều có một tâm hồn nhạy cảm. Đối với các em, thế
giới xung quanh chứa đựng biết bao nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn. Ngay trong
những cái tưởng chừng như bình thường và giản dị thì các em cũng phát hiện ra
những điều lí thú. Chẳng vậy mà Pauxtopxky có nhận xét rằng: “Thời thơ ấu
không còn mãi,… Trong thời thơ ấu tất cả đều khác. Trẻ em đã nhìn thế giới bằng
đôi mắt trong sáng và đối với tất cả với chúng đều rực rỡ hơn nhiều. Mặt trời
chói lọi hơn, đồng ruộng được cày sâu hơn, tiếng sấm vang rền hơn, mưa to hơn,
cỏ mọc cao hơn và cả lòng người cũng mở rộng hơn. Nỗi đau thương cũng sâu
sắc hơn và mảnh đất quê hương cũng chứa đầy bí ẩn, nhiều hơn gấp hàng nghìn
lần”.
Chẳng thế mà khi người lớn đưa ra các câu hỏi, câu trả lời hay khi đàm
thoại trực tiếp với trẻ thì cũng đồng thời ngay lúc đó trẻ làm quen được với các sự
vật, hiện tượng có ở môi trường xung quanh, và trẻ hiểu được những đặc điểm,
tính chất, công dụng của các sự vật cùng với các từ tương ứng với nó thông qua
các từ ngữ đó. Trẻ thường nhìn sự vật trong tính toàn vẹn của nó mà chưa hề bị
chia cắt ra từng mảng, từng bộ phận rạch ròi khô cứng. Những thuộc tính cụ thể cảm tính sinh động như màu sắc, âm thanh … có tác động mạnh mẽ lên giác quan
và ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm trí của trẻ. Từ ngữ và hình ảnh trực quan của các
sự vật cùng đi vào nhận thức của trẻ. Nhờ có ngôn ngữ, trẻ nhận biết được ngày
càng nhiều các sự vật, hiện tượng từ đơn giản dần tới phức tạp mà trẻ được tiếp
xúc trong cuộc sống hằng ngày, giúp trẻ hình thành, phát triển phong phú các
biểu tượng về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngôn ngữ là sự hiện
hữu của tư duy, cả hai cùng song song tồn tại và phát triển với nhau,. Những ý
tưởng của trẻ được bộc lộ bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ hình
thành và phát triển tư duy. Ngôn ngữ của trẻ được phát triển dần theo lứa tuổi,
điều đó sẽ giúp trẻ không chỉ tìm hiểu những hiện tượng, sự vật gần gũi xung
quanh, mà còn có thể tìm hiểu cả những sự vật không xuất hiện trước mắt trẻ,
những sự việc xảy ra trong quá khứ và tương lai. Trẻ hiểu được những lời giải
thích, sự gợi ý của người lớn, biết so sánh, khái quát và dần dần hiểu được bản
chất của sự vật, hiện tượng, hình thành những khái niệm sơ đẳng. Sự hiểu biết
của trẻ về thế giới xung quanh ngày càng rộng lớn hơn. Nhận thức của trẻ được
rõ ràng, chính xác và trí tuệ của trẻ không ngừng được phát triển.
Ngôn ngữ còn là công cụ giúp trẻ hoạt động vui chơi và nhận thức thế giới
xung quanh một cách phong phú hơn. Bởi chơi là phương tiện mở rộng, củng cố
chính xác hóa biểu tượng của trẻ về cuộc sống xung quanh. Nội dung chủ yếu của
chơi là phản ánh thế giới xung quanh trẻ, nên khi tham gia vào hoạt động này trẻ
càng hiểu sâu hơn về cuộc sống xung quanh mình. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội
trước lúc chơi dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau sẽ được chính xác hơn,
phong phú hơn.
Khi tham gia vào trò chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với bạn, trao
đổi, phân vai trong trò chơi: Chọn vai nào, chơi như thế nào,.. và quá trình thỏa
thuận này không thể thiếu vai trò của ngôn ngữ. Ngoài ra, trong quá trình chơi sẽ
nảy sinh các tình huống chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải có
một trình độ phát triển ngôn ngữ nhất định. Trẻ bộc lộ những suy nghĩ của mình
với các bạn và nghe ý kiến của các bạn để đi đến thỏa thuận trong khi chơi,… Sử
dụng ngôn ngữ để suy nghĩ về các thao tác, hành động chơi, thực hiện hành động
chơi, giao lưu với các bạn khác trong nhóm và các bạn chơi khác nhóm, đánh giá,
nhận xét, tuyên dương,.. Không chỉ khi cùng tham gia hoạt động vui chơi cùng
với các bạn mà ngay cả khi trẻ chơi tưởng tượng với một đồ vật thì ngôn ngữ vẫn
đóng vai trò quan trọng trong quá trình chơi của trẻ. Qua đó, ngôn ngữ của trẻ được
phát triển, trẻ được giao lưu tình cảm trong lúc chơi, phát triển khả năng tư duy và trí
tưởng tượng của trẻ.
* Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Không ai có thể phủ nhận
ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người. Ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất
mà người ta mới phát hiện ra, họ cũng dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau. Đặc
biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người
xung quanh, hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ dùng để diễn đạt, phát
biểu để trình bày ý tưởng, nguyện vọng của mình cho người khác biết.
Đặc biệt, ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh những hành
vi và việc làm của trẻ. Trong giao tiếp hàng ngày, thông qua truyện kể, ca dao,
đồng dao, nhất là trong các trò chơi dân gian,… trẻ cảm nhận được cái hay cái
đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, trong cuộc sống.
Những câu hát ru ngọt ngào, những cử chỉ âu yếm kèm theo tình cảm yêu
mến thông qua ngôn ngữ sẽ đem đến cho trẻ những cảm giác bình yên, sự vui
mừng hớn hở. Đặc biệt là qua lời ru, mẹ đã dạy cho con nghệ thuật âm nhạc, thơ
ca dân tộc để con biết yêu vẻ đẹp của thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu
bà con làng xóm, truyền cho con những ý niệm cơ bản về thiện ác để hun đúc ở
đứa con lòng nhân ái. Ngay cả những lúc nựng con thì đây là cuộc trò chuyện
đằm thắm nhất, đầy tình yêu thương và lòng tin cậy, trong đó người mẹ đã nói với
con bằng cả tấm lòng và đứa con đã nghe mẹ với tất cả sự sung sướng và niềm
say mê của mình. Dù có ý thức hay chưa có ý thức rõ ràng, nhiều người mẹ cũng
đã dạy con học ăn, học nói, học gói, học mở - học làm người bằng những
phương thức nghệ thuật đó khiến cho việc tiếp thu của đứa con vừa rất tự
nhiên lại vừa có hiệu quả cao giúp cho trẻ tiếp cận đẽ dàng hơn với văn
hoá của dân tộc.
Khi giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp nhận được những sắc thái tình cảm khác
nhau. Qua nét mặt, giọng nói, ngữ điệu, ngữ nghĩa chứa đựng trong các từ, các
câu nói, dần dần trẻ cũng biết thể hiện những cảm xúc khác nhau của mình.
Người lớn như là chiếc gương để trẻ soi mình vào trong đó. Trong quá trình giao
tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn nắn hành vi của trẻ bằng lời nói, nét mặt, nụ
cười, giúp trẻ có thể nhận ra được hành vi của mình là đúng hay là sai. Bằng cách
đó, ở trẻ dần dần hình thành những thói quen tốt và học được những cách ửng xử
đúng đắn. Người lớn có thể khen trẻ khi chúng làm đúng và tốt, cổ vũ, động viên
kịp thời cho những hành vi đúng đắn hay có những ý tưởng hay của trẻ. Khi trẻ
làm sai hay nói sai, người lớn tỏ vẻ không bằng lòng bằng ánh mắt, nét mặt
nghiêm nghị kèm theo lời nói với giọng điệu nghiêm túc thì trẻ sẽ nhận thức được
cái sai của mình và sửa sai.
Ngôn ngữ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ.
Nó tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái
đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật.
Các sự vật, hiện tượng mà trẻ quan sát được trong môi trường sống được in hằn
trong trí não của trẻ. Nhưng để trẻ biết cái lá có màu xanh, bông hoa có màu đỏ, con
cá vàng bơi trong nước, con chim bay trên bầu trời,… nó trở nên đẹp như thế nào thì
thông qua ngôn ngữ trẻ sẽ nhận thức được cái hay, cái đẹp đó trong cuộc sống xung
quanh mình. Từ đó hình thành ở trẻ thái độ tôn trọng cái đẹp và đồng thời kích thích
sự sáng tạo ra cái đẹp ở trẻ.
Những hình ảnh tưởng tượng vừa ngây thơ, đôi khi phi lý này không chỉ
đem lại cho tuổi thơ niềm hạnh phúc mà còn cần cho mỗi người sau này lớn lên,
dù đó là người lao động chân tay, nhà khoa học hay người nghệ sĩ,… phương tiện
có hiệu quả nhất để nuôi dưỡng sự tưởng tượng đó là trò chơi. Điều đó giúp trẻ
có nhiều ấn tượng đẹp và tâm hồn trẻ sẽ càng thêm phong phú. Từ đó, trẻ sẽ biết
yêu quý và có ý thức giữ gìn những cái hay cái đẹp trong cuộc sống.
Khi trẻ được tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ văn học như thơ, truyện,
ca dao, đồng dao,… trẻ sẽ được chìm vào với thế giới đa dạng màu sắc. Bao
nhiêu loại người khác nhau, loại người tốt sao gần gũi, mến thương; loại người
xấu sao vừa ghét lại vừa sợ… Những phong cảnh xa lạ từ những khu rừng rậm
rạp bí hiểm, đến biển cả mênh mông, những lâu đài tráng lệ, những con thú chưa
hề thấy,… tất cả đã nhập vào tâm hồn của các em bé với những màu sắc lung linh
kì ảo. Tâm hồn các em được rộng mở, trí tưởng được kích thích mạnh mẽ, thôi
thúc các em muốn khám phá những điều kì lạ và lí thú trong các câu chuyện hết
sức hấp dẫn. Những câu thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, những bài đồng dao ngộ
nghĩnh có đoạn điệp khúc nhắc đi nhắc lại dễ nhớ… khiến trẻ muốn đọc theo và
sẽ nhớ rất lâu. Đây chính là thời cơ thuận lợi để trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ văn
học, đặc biệt là văn học dân gian. Điều đó giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, nó
giúp trẻ sáng tạo ra những cái mới, hình thành những ước mơ táo bạo, những hoài
bão về cuộc sống tương lai.
* Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành thành
viên của cộng đồng
Những kinh nghiệm lịch sử xã hội đọng lại hay nói cách khác được chứa
đựng trong các công cụ lao động, đối tượng lao động, trong các chuẩn mực hành
vi các mối quan hệ qua lại giữa con người với nhau,… nhưng hầu hết được ghi
lại để truyền bá cho thế hệ sau nhờ ngôn ngữ. Ngay từ lúc mới đầu, đứa trẻ không
thể nhận thức được những gì đang tồn tại xung quanh nó. Để thỏa mãn sự hiểu
biết đó mà nó thường đặt ra hàng vạn câu hỏi cho bố mẹ và người xung quanh
chúng. Vì thế, người lớn trở thành chiếc cầu nối trẻ với cộng đồng, với thế giới
thông qua ngôn ngữ. Người lớn đã dẫn dắt trẻ hình thành tình cảm, thái độ, nhận
thức về con người, đồ vật gần gũi xung quanh. Nhờ sự biết đi, biết nói mà trẻ
ngày càng mở rộng phạm vi tiếp xúc, phát triển nhận thức đối với thế giới xung
quanh và hình thành “ý thức bản ngã”. Trẻ muốn tự lập hơn, thể hiện các hành vi
theo ý nghĩ riêng của mình trong các trò chơi. Qua những lời chỉ dẫn của người
lớn mà trẻ dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành
viên trong cộng đồng đều phải thực hiện. Trước tiên, là những nề nếp sinh hoạt
của gia đình, nhóm trẻ, trường mầm non. Sau đó, là những quy định ngoài xã hội,
những gì trẻ được phép làm và không được phép làm.
Mặt khác, để bày tỏ những những nhu cầu mong muốn của mình với những
thành viên trong cộng đồng, trẻ sử dụng ngôn ngữ để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân
mình. Điều đó giúp trẻ hòa nhập hơn với mọi người xung quanh mình.
* Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực cho trẻ
Giáo dục thể lực đối với trẻ em là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể của
trẻ, việc vận động, rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh và có chế độ sinh hoạt hợp lý
nhằm bảo vệ và làm cho cơ thể trẻ phát triển hài hòa, cân đối, sức khỏe tăng
cường đạt đến trạng thái hoàn thiện về mặt thể chất.
Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày, cô giáo và người lớn đã dùng chính ngôn
ngữ của mình để nhằm hướng dẫn, chỉ bảo trẻ thực hiện tốt các yêu cầu do mình
đề ra góp phần làm cho cơ thể trẻ phát triển. Đặc biệt, trong giờ thể dục, giáo viên
đã tạo điều kiện giúp trẻ thực hiện chính xác các động tác làm cho cơ thể phát
triển được cân đối bằng chính lời nói của mình.
Ngoài chế độ sinh hoạt hàng ngày, trẻ cần phải được ăn ngon, ăn đủ chất thì
cơ thể của trẻ mới phát triển hoàn thiện được. Để động viên, khích lệ trẻ ăn được
thì người lớn đóng một vai trò rất quan trọng.
2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 – 5 tuổi
2.1 Hoạt động chủ đạo
Theo ông A.N. Lêônchiev hoạt động chủ đạo hoạt động mà sự phát triển của
nó quy định những biến đổi chủ yếu nhất định trong quá trình tâm lý và trong các
đặc điểm tâm lý nhân cách đứa trẻ ở giai đoạn phát triển nhận thức của nó.
Mỗi lứa tuổi có hoạt động củ đạo nhất định, đó là hoạt động có những đặc
điểm như sau:
+ Là hoạt động có nội dung mới mẻ, chưa hề có trước đó.
+ Là hoạt động có khả năng chi phối toàn bộ đới sống tâm lý của trẻ.
+ Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác diễn ra đồng
thời.
Một trong những hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 4 – 5
tuổi nói riêng, đó là hoạt động vui chơi. Nó có các đặc điểm như sau:
+ Hoạt động vui chơi của trẻ em mang tính chất vô tư, có nghĩa là khi
chơi trẻ không chủ tâm nhằm vào lợi ích thiết thực mang tính thực dụng nào cả.
+ Hoạt động vui chơi của trẻ mang tính chất mô phỏng hoạt động của
người lớn, mô phỏng mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người
với xã hội. Do đó hoạt động này mang tính tượng trưng, khi chơi trẻ có thể dùng
các vật để thay thế cho người thật, việc thật. Chính sự mô phỏng đó là điều kiện
giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng và chức năng kí hiệu – tương trưng.
+ Hoạt động vui chơi mang tính tự do được thể hiện ở tính tự nguyện khi
tham gia trò chơi, hành động chơi xuất phát từ sự hứng thú cá nhân, chữ không
do một áp đặt nào từ phía bên ngoài
+ Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động học tập và tự điều khiển.
Hơn bất cứ hoạt động nàokhi tham gia trò chơi đứa trẻ thể hiện một cách tích cực
và chủ động.
+ Hoạt động vui chơi của trẻ mang tính màu sắc xúc cảm chân thật mạnh
mẽ. Trò chơi tác động mạnh mẽ và toàn diện đối với trẻ em chính là vì nó thâm
nhập một cách dễ dàng hơn cả vào thế giới tình cảm, mà tình cảm đối với trẻ là
động cơ thúc đẩy hành động mạnh mẽ nhất.
* Sự phát triển của hoạt động vui chơi ở lứa tuổi 4 – 5 tuổi.
Ở đầu tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi bắt đầu phát triển mạnh mẽ, đặc
biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề nhưng đến giữa thức là lứa tuổi 4 – 5 tuổi
mới hoàn thiện dần, đạt tới chính thức và mang đầy đủ ý nghĩa với đặc điểm vốn
có của trò chơi dược thể hiện như sau:
- Trẻ thể hiện tính độc lập và chủ động rõ nét trong khi chơi như việc chủ
đề chơi, vai chơi, tìm kiếm đồ chơi, tìm cách khắc phục trở ngại trong khi
chơi...Đặc biệt là trong việc chọn bạn chơi và thiết lập các mối quan hệ với bạn
cùng chơi.
- Trẻ thiết lập những mối quan hệ rộng rãi, phong phú và hình thành “xã
hội trẻ em” ( Theo cách gọi của A. P. Uxô va). Đầu giai đoạn mẫu giáo thì sự
phối hợp giữa các thành viên còn lỏng lẻo nhưng càng về cuối thì sự phối hợp
giữa các thành viên trong trò chơi càng chặt chẽ hơn các nhóm chơi chẳng khác
gì nhóm xã hội người lớn. Trẻ chơi nhiều trò chơi, với nhiều nhóm chơi với nhiều
chủ đề: “Gia đình”, “bệnh viện”, “trường học”, “cửa hàng”... Trò chơi diễn ra
không tách biệt vnhau mà mỗi đứa trẻ có thể có thể tham gia nhiều nhóm chơi.
Chẳng hạn, “ mẹ” có thể đưa con đến bậnh viện để chữa bệnh hay “ thợ xây” có
thể đén cửa hàng mua nguyên vật liệu.... “Xã hội trẻ em” còn khác xa với xã hội
người lớn, hợp rồi tan rồi hợp; chơi và thực, thực và chơi nhưng cấu trúc nó
không đơn giản, trong đó mỗi đứa trẻ có vị trí nhất định do thái độ của bạn bè
quy định. Thông thường, trong nhóm trẻ có một vài cháu nổi hẳn lên được các
bạn yêu mếm hay nể phục, thích cùng chơi, muốn được ngồi cạnh, muốn bắt
trước chúng và tự nguyện làm theo yêu cầu của chúng; thậm chí có khi còn
nhường cả đồ chơi, vai chơi của chúng, đó là phần tử trung tâm. Bên cạnh những
đứa bé này lại có những em bé không được các bạn chơi cùng, chơi ưa thích đến
mức không nhận chúng vào nhóm chơi, đó là phần tử cô đơn. Còn lại các em bé
khác nằm lại giữa hai cực này nguyên nhân được các bạn yêu thích có thể là do
thông minh, nhiều sáng kiến, cũng có thể do tốt bụng, vui tính, có khi còn do “cái
oai” làm bạn nể sợ, nhưũng em này dễ thành “thủ lĩnh”. Vị trí của mội thành viên
trong “xã hội trẻ em”, nhất là vai trò của “thủ lĩnh” có ảnh hưởng đáng kể đến sự
hình thành nhân cách của trẻ em. Những “phần tử cô đơn” thì dễ sinh ra nhúc
nhác, tự ti, còn những “phần tử trung tâm” nhất là “thủ lĩnh” thì lại trở nên tự
mãn, tự kiêu, thậm chí còn có thái đọ hống hách đối với bạn. bởi vậy người lớn
cần quan tâm điều chỉnh các mối quan hệ của trẻ trong nhóm chơi, tạo bầu không
khí thân mật, bình đẳng giưa các thành viên. Ở “xã hội trẻ em” cũng đã bắt đầu
hình thành “dư luận, có nghĩa là trẻ biết phục tùng ý chí chung, ngay cả khi điều
đó mâu thuẫn với ấn tượng và kinh nghiệm riêng của mình. Tính thích nghi ở trẻ
sẽ mất dần nhờ giáo dục, và kinh nghiệm sống ngày càng tăng giúp trẻ nhận xét
một cách độc lập về các sự kiện xảy ra xung quanh.
* Các thành tố của hoạt động vui chơi
+ Trò chơi: Thứ nhất là trò chơi không có luật ( trò chơi tự ý hoạt động
miễn sao phù hợp với nôi dung chơi như trò chơi đóng vai theo chủ đề). Thứ 2 là
trò chơi có luật ( người chơi phải tuân thủ theo luật chơi đã quy định như trò chơi
trí tuệ, thể thao....)
+ Hành động chơi: là hành động của người tham gia trò chơi. Đó là hành
động giả bộ hay hành động mô phỏng
+ Đồ chơi: Là phương tiện để chơi. Nó mang tính tượng trưng, khái quát
năng động. Đồ chơi phải an toàn cho trẻ, phải được tiếp xúc và hành động tự do,
phải phong phú, nhiều dạng, nhiều hình, thẩm mĩ....
2.2 Sự phát triển nhận thức
2.2.1 Trí nhớ
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng tuổi mẫu giáo là lứa tuổi mà trí nhớ
phát triển mạnh mẽ nhất phần lớn trí nhớ của trẻ mẫu giáo là trí nhớ không chủ
định, máy móc. Tuy nhiên, trẻ 4 - 5 tuổi bắt đầu hình thành trí nhớ có chủ định.
Trong tình huống trò chơi, trẻ nhớ có chủ định tốt hơn. Trẻ thường nhớ điều trẻ
thích thú hoặc ấn tượng mạnh mẽ, đặc biệt là những sự vật và hiện tượng mang
tính trực quan hình tượng rõ nét và tác động mạnh đến đời sống tình cảm của
chúng. Do đó có thể nói ở lứa tuối này trí nhớ trẻ mang tính trực quan hình tượng
2.2.2 Hoạt động nhận cảm: ( cảm giác và tri giác)
Nhờ có trí nhớ phát triển, tri giác trở nên đa dạng, bao hàm những mối liên
hệ khác nhau giữa đối tượng được tri giác với các sự vật, hiện tượng trẻ đã gặp và
làm quen trong quá khứ.
Tri giác của trẻ trở nên có ý thức, có mục đích, trong đó bao hàm các hành
động có chủ định như quan sát, tìm tòi.
Trẻ bắt đầu xem xét, ngắm nghía đối tượng, nhưng trẻ làm việc đó không
theo một thứ tự nào, và thường chuyển sang hành động với đối tượng ngay. Khi
cần mô tả lại bằng lời, trẻ chỉ nêu được những bộ phận hay những dấu hiệu dễ
thấy mà không tìm được mối liên hệ giữ chúng với nhau.
Trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi bắt đầu lĩnh hội các chuẩn nhận cảm với những hình
học, các mẫu trong quang phổ... Trong nhiều hoạt động, đặt biệt là nặng, chấp
ghép, xây dựng... Nếu đứa trẻ lĩnh hội các chuẩn một cách chính xác thì hoạt
động nhận cảm của nó sẽ đạt hiệu quả cao, không bị nhầm lẫn giữa các màu vàng
với màu da cam, hay giữa da cám với màu đỏ. Trẻ thường lĩnh hộ khó khăn các
chuẩn về độ lớn của các vật vì chuẩn về độ lớn có mang tính chất ước lượng, đó
là thước đo do con người sáng lập nên (mét, centimet...) cháu chưa thể học được,
cháu chỉ lĩnh hội các biểu tượng về độ lớn trong quan hệ giữa các vật bằng các từ
“lớn”, “nhỏ”, “lớn hơn”, “lớn nhất”, “nhỏ nhất”. Việc giới thiệu chuẩn nhận cảm
với trẻ ngày càng phức tạp dần; các chuẩn trở nên tinh tế hơn. Chẳng hạn các
màu cơ bản hay các hình cơ bản ngày một nhiều hơn (từ ba màu xanh, đỏ, vàng
lên vẫy màu của quang phổ; từ ba hình tròn, vuông, tam giác lên nhiều hình khác
nữ như hình chữ nhật, hình thang,...) Cháu định hướng không gian nhận ra được
các phí trên dưới, trước sau phải trái. Tri giác tranh vẽ: trẻ đã thiết lập mối quan
hệ giữa tranh vẽ và hiện thực đặt biệt là trẻ đã xách định được đúng độ lớn tương
đối của các vật quen thuộc trong các tranh phối cảnh, và các em sẽ trả lời rằng
ngông nhà một tầng sẽ nhỏ hơn ngôi nhà cao tầng. Tuy nhiên việc tri giác tranh
vẽ vần còn nhiều sai lệch vì trẻ chưa nắm được quy luật của nghệ thuật tạo hình
nhất là quy luật viễn cận, tối sáng như một con voi ở xa vẫn chỉ là một con vật rất
bé hoặc những con vật trong tối được trẻ xem là bị bôi bẩn hay bị che khuất. Mặt
khác, nhìn những bức tranh trẻ có thể kể chuyện theo tranh, còn nếu là những chủ
đề xa lạ thì trẻ có thể liệt kê từng sự vật trong tranh. Ngoài ra, định hướng thời
gian và tri giác âm thanh khó khăn hơn còn dựa vào sự quan sát những biến đổi
của thế giới xung quanh. Khi nghe gà gáy nhìn thấy mặt trời mọc, mọi người
trong nhà chuẩn bị đi làm trẻ biết đó là buổi sáng; khi thấy mặt trời lặn, mọi
người đi làm về thì trẻ biết đó là buổi chiều tối; nhìn ra thấy trời tối om trẻ biết đó
là ban đêm. Âm thanh không có hình thù cụ thể, lại diễn ra theo thời gian, điều đó
gây khó cho việc tri giác và cường độ, trường độ, cao độ, nhịp độ.
2.2.3 Tư duy:
Ở tuổi mẫu gió nhỡ, tư duy trực quan – hình tượng phát triển mạnh mẽ đã
giúp trẻ giải quyết một số bài toán thực tiễn. Nhưng trong thực tế, những thuộc
tính bản chất của sự vật hiện tượng mà trẻ càn tìm hiểu lại bị che giấu không thể
hình dung được bằng hình ảnh. Kiểu tư duy này không đáp ứng nhu cầu nhân
thức đang phát triển của trẻ cho nên cạnh tư duy trực quan – hình tượng vẫn phát
triển mạnh mẽ trước đây, còn cần đến một kiểu tư duy trực quan – hình tượng
mới, đó là tư duy trực quan sơ đồ, ở cuối giai đoạn này có khả năng tìm hiểu một
cách dễ dàng và nhanh chóng về cách biểu diễn sơ đồ và sử dụng có kết quả
những sơ đồ để tìm hiểu sự vật.
2.2.4 Trí tưởng tượng:
Trí tưởng tượng của trẻ trong giai đoạn này chuyển từ bình diện bên
ngoài sang bình diện bên trong theo cơ chế nhập tâm ví dụ trẻ đầu mẫu giáo trẻ
tưởng tượng cái “ gậy” là con ngựa thì trẻ ở giai đoạn này không phải bất cứ đồ
vật nào cũng là con ngựa mà đồ vật đó phải haao hao giống ( chỉ ở thuộc tính bên
ngoài) mới hình dung đó là con ngựa.
Hầu như ở giai đoạn này trí tưởng tượng của trẻ không chủ định, không
có mục đích.
2.2.5 Chú ý:
Chú ý của trẻ trong giai đoạn này hình thành chú ý có chủ định,
Đến giữa tuổi mẫu giáo 4 – 5 tuổi, nhờ ngôn ngữ và tư duy phát triển mạnh, trẻ
điều khiển chú ý của mình, tự giác hướng chú ý của mình vào đối tượng nhất
định tức là bắt đầu hình thành chú ý có chủ định. Tuy nhiên, việc phát triển chú ý
không chủ định không làm xuất hiện chú ý có chủ định. Chính vì vậy người lớn
cần giao nhiệm vụ và đặt cho trẻ những yêu cầu cần đạt nghĩa là tạo điều kiện
cho cháu chạm thường xuyên các tình huống buộc phải chú ý. Điều này giúp khối
lượng chú ý được tăng lên, tính bền vững của chú ý phát triển.
2.3 Sự phát triển ngôn ngữ:
Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự mở rộng giao lưu của trẻ đối với thế
giới xung quanh, với con người, với đồ vật và thiên nhiên. Việc mở rộng phạm vi
tiếp xúc và các mối quan hệ xã hội giúp cho khả năng tri giác của trẻ nhanh nhạy
hơn. Khả năng ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn 4 – 5 tuổi này có những bước tiến
mới đáng kể. Ở thời kì này, trẻ hoàn thiện dần về mặt ngữ âm, các phụ âm đầu,
âm cuối, âm đệm, thanh điệu dần được định vị. Trẻ phát âm tốt hơn, ít ê, a, ậm ừ
hơn so với thời kì trước. Đặc biệt, đã xuất hiện ở lời nói của trẻ những khái quát,
kết luận đơn giản một cách mạch lạc, song một số trẻ vẫn phát âm sai thanh ngã,
âm đệm và âm cuối.
Trẻ từ 4 – 5, tuổi khả năng nhận thức vốn từ tăng lên một cách đáng kể.
Theo nghiên cứu của yy. Y pratuxevich: 4 tuổi trẻ có 1900 từ và 5 tuổi là 2.500
từ. Với sự nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về ngôn ngữ của trẻ nội thành thì
vốn từ của trẻ là: 4 tuổi từ 1900 từ đến 2000 từ và 5 tuổi trẻ có từ 2500 từ đến
2600 từ. Trẻ học từ mới nhanh hơn, phát âm các từ tốt hơn so với các giai đoạn
lứa tuổi trước. Chính vì lẽ đó mà vốn từ của trẻ ở giai đoạn này phong phú, bao
gồm nhiều từ loại. Số lượng các từ loại: danh từ, tính từ, đại từ, trạng từ được
tăng lên một cách đáng kể, trẻ hiểu được ý nghĩa của nhiều từ loại khác nhau và
biết sử dụng chúng để thể hiện mối liên hệ đa dạng giữa các sự vật và hiện tượng
về thơi gian, định hướng không gian, số lượng, nguyên nhân và kết quả. Trẻ có khả
năng tri giác âm thanh nhanh nhạy và khả năng phát âm mềm dẻo tự nhiên. Trẻ ham
học hỏi, thích tìm hiểu về xã hội và tự nhiên. Trẻ chủ động giao tiếp ngôn ngữ với
những người xung quanh và hay đặt các câu hỏi như: “Như thế nào?”; “Làm gì?”;
“Bao giờ?”; “Tại sao?”…
Những câu hỏi, câu trả lời hay những câu nói của trẻ ngày càng được hoàn
thiện hơn. Số lượng các câu nói đúng ngữ pháp cũng được tăng lên một cách rõ
rệt, các thành phần trong câu nói được phát triển. Bởi trẻ biết lắng nghe các câu
trả lời, câu nói của người khác.
Đặc biệt, ở lứa tuổi này trẻ thích tham gia, hòa nhập với tập thể. Trẻ hứng
thú đặc biệt với việc rèn luyện những kĩ năng vận động mới học được và sử dụng
những kĩ năng đó để hoạt động, di chuyển. Trẻ biết sử dụng vốn ngôn ngữ của
mình để tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè, cô giáo một cách say sưa, nhiệt
tình và giao tiếp khéo léo hơn. Trẻ có thể diễn tả những hành động phức tạp và
hăng hái kể về những điều xảy ra với nó.
Khả năng tiếp thu và sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hằng ngày của trẻ
ngày càng tốt hơn. Trẻ rất thích tưởng tượng, chúng đã biết yêu cái thiện, ghét cái
ác. Chính vì vậy, trẻ rất thích nghe những câu chuyện về động vật dễ thương, thiện ác
phân minh, kết thúc có hậu. Trẻ không những tự mình xây dựng cốt truyện mà còn có
thể thuật lại những câu chuyện nó đã nghe người khác kể.
Đứa trẻ ở giai đoạn này nếu được dạy dỗ cẩn thận thì việc nói năng của nó không
những đúng mà còn hay tức là trẻ nói năng có văn hóa.
CHƯƠNG II
Một số biện pháp nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo từ 4 – 5 tuổi
1. Biên pháp 1: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt
động kể chuyện
Thông qua giờ học kể chuyện, tôi tập luyện chất giọng của mình phù hợp
với các nhân vật trong truyện khi kể tôi kể diễn cảm nhiều lần nhằm giúp trẻ cảm
thụ tác phẩm nghệ thuật. Sau đó tôi dùng hệ thống câu hỏi nhằm giúp trẻ nhớ nội
dung câu chuyện, khi trẻ đã hiểu và nhớ được nội dung rôi tôi tăng dần ở câu hỏi
ở mức độ chi tiết ví dụ: chuyện cổ tích “Ba cô gái”. Ở tiết học tôi kể cho cháu
nghe xong tôi đặt các câu hỏi như: Bà mẹ sinh được mấy cô con gái? Bà mẹ đối
với các con như thế nào? Nghe tin mẹ ốm chị cả có về thăm mẹ không? Nghe tin
mẹ ốm cô út đã làm gì? Đến giờ chiều tôi có thể kể lại cho cháu nghe và tăng
những câu hỏi ra chi tiết hơn ví dụ: bà mẹ chăm sóc con như thế nào? Khi bà ốm
bà nhờ ai gọi các con về? sóc đến chị cả nói với sóc như thế nào? Chị đã tiến
hành làm gì?.. trẻ sẽ tự suy nghĩ nhớ lại ngôn ngữ văn học trong chuyện mà trẻ
diễn đạt trả lời. Như thế vốn từ của trẻ sẽ tăng thêm.
Dạy trẻ kể lại truyện: để trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác
phẩm văn học mà trẻ được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có
sẵn của các tác giả và của giáo viên. Tuy nhiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng
câu chuyện, trẻ phải kể bằng ngôn ngữ của chính mình, truyền đạt nội dung câu
chuyện một cách tự do thoải mái nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện.
Yêu cầu đối với trẻ: Kể nội dung chính của câu chuyện không yêu cầu trẻ
kể chi tiết lời kể phải có cấu trúc ngữ pháp, giọng kể diễn cảm to, rõ ràng, không
ê a , ấp úng cố gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại. Chuẩn bị:
tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe trước khi kể cô giao nhiệm vụ
ghi nhớ và kể lại.
- Xem thêm -