Bài học Israel - Nguyễn Hiến Lê
BÀI HỌC ISRAËL
TỰA
Phần I - DÂN TỘC DO THÁI
Chương 1 (A) MỘT XỨ NHỎ XÍU
MÀ KINH ĐÔ CHIA HAI
Chương 1 (B) Thánh địa Jérusalem
Chương 1 (C) LẬP QUỐC RỒI
VONG QUỐC
Chương 2 NON HAI NGÀN NĂM
LANG THANG
Chương III (A) NHỮNG CẢNH ĐẦY
ĐỌA VÀ TÀN SÁT DO THÁI
Chương III (B) Châu Âu trở thành một
lò sát sinh mênh mông và kinh khủng.
Chương IV MỘT CUÔN SÁCH
MỎNG ẢNH HƯỞNG RẤT LỚN TỚI
LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
Chương IV (B) "Théodore Herzl và
cuốn “Quốc gia Do Thái”
Chương V CÁC ĐỢT HỒI HƯƠNG
Chương VI TRONG THẾ CHIẾN
THỨ HAI, DO THÁI XUNG PHONG
PALESTINE - VỤ EXODUS
PHẦN II - SỰ THÀNH LẬP QUỐC
GIA ISRAEL
Chương VII CHIẾN TRANH ĐỘC
LẬP VÀ HAI CHIẾN TRANH SAU
Chương VII (B) Họ chiến đấu hăng say
như sư tử
Chương VIII CHIẾN TRANH THỨ
NHÌ NĂM 1956 GIỮA ISRAEL VÀ Ả
RẬP
Chương IX CHIẾN TRANH THỨ BA
NĂM 1967 GIỮA ISRAEL VÀ AI CẬP
Chương IX (B) CHIẾN TRANH THỨ
BA NĂM 1967 GIỮA ISRAEL VÀ AI
CẬP
Phần III: Quốc Gia Israël
Chương X TỔ CHỨC QUỐC GIA
ISRAËL
Chương X (B) GIÁO DỤC VÀ TÔN
GIÁO
Chương XI SỰ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ CỦA ISRAËL
Chương XII KIBBOUTZ - MỘT THÍ
NGHIỆM CỦA ISRAËL
Chương XII (B) MOCHAV OVEDIM
KẾT BÀI HỌC ISRAËL
PHỤ LỤC I TÌNH HÌNH ISRAEL Ả
RẬP TỪ 1968 ĐẾN THÁNG 8-1973
PHỤ LỤC II A RẬP PHỤC THÙ
CHIẾN TRANH THỨ TƯ GIỮA A RẬP
VÀ DO THÁI
PHỤ LỤC II (B)
TỰA
M
Một sinh viên Việt Nam học ở ngoại
quốc viết thư cho tôi, bảo: “Người mình
hồi trẻ học tinh thần của Do Thái, hồi già
nên học tinh thần của Ấn Độ”.
Phải lắm. Về già nên có tinh thần Ấn
Độ, tức tinh thần Phật giáo. Tôi thích tinh
thần Lão giáo hơn. Khó tưởng tượng được
Đức Thích Ca mà đặt một em bé trên đùi
rồi vuốt ve mái tóc tơ, cặp má mịn của nó:
còn Lão Tử thì rất có thể xốc nách một em
tung tung nó lên cho nó cười sằng sặc,
hoặc nắm tay nó mà giung giăng giung giẻ
dưới bóng hoàng lan quanh một bãi cỏ.
Nhưng Phật hay Lão thì cũng vậy.
Còn tuổi trẻ thì nên học tinh thần
Israel, chứ không phải tinh thần Âu Mỹ,
cũng phải tinh thần Nhật Bản. Nhật Bản bắt
đầu canh tân cách đây đã một thế kỷ nên
tôi không biết hiện tình nước ta ở vào cáì
giai đoạn đã qua nào của họ, nhưng chắc
là họ bỏ xa ta ít nhất sáu chục năm mả tinh
thần của họ lúc này chẳng khác tinh thần
Âu, Mỹ là mấy, sản xuất cho mạnh để vượt
Pháp, Anh, đuổi kịp Mỹ, Canada. Bấy
nhiêu cũng đáng quý đấy, nhưng chưa đủ
và không hợp với hiện tình của ta, cho nên
học Israel có lợi hơn là học Nhật Bản.
Tôi dùng tiếng học ở đây theo cái
nghĩa của Khổng Tử: trạch kỳ thiện giả, kỳ
bất thiện giả. Vì Israel không phải luôn
luôn làm cho thế giới cảm phục. Tôi không
ưa những trang sử năm 1956 của họ. Đành
rằng Ai Cập vẫn thường khiêu khích
Israel, coi họ là kẻ thủ, nhưng lúc đó Ai
Cập chỉ lo hất chân Anh, Pháp ra khỏi
kênh Suez mà Israel tự nguyện làm tay sai
cho Anh Pháp, ngấm ngầm âm mưu với
Anh Pháp để thừa lúc bất ngờ, ồ ạt tấn
công Ai Cập thì của chiến thắng họ càng
rực rỡ bao nhiêu, thế giới càng ghét họ bấy
nhiêu. Nhưng lỗi của họ một phần thì lỗi
của thực dân Anh Pháp tới ba.
Đó là một trong vài cái “bất thiện” của
họ. Còn nhũng cái thiện của họ thì khá
nhiều mà trong cuốn sách này tôi sẽ ráng
trình bày với độc giả.
Họ có những tấm gương mạo hiểm,
chiến đấu, kiên nhẫn, hy sinh cho ta noi: có
nhiều kinh nghiệm về việc định cư, việc
khuếch trương giáo dục, canh nông, về
cách tổ chức các cộng đồng, cho ta học.
Nhưng đáng quí hơn hết là họ gián tiếp
vạch cho ta thấy cát hại của thực dân và
chứng tỏ cho ta tin rằng chỉ trên nửa triệu
người cũng có thể thắng thực dân được.
Họ bị cả thế giới coi là một bọn mất gốc,
lang thang, ti tiện, vậy mà khi Herzl hô hào
người Do Thái phải tự cứu lấy mình, thì họ
đã biết tự cứu lấy họ.
Thực dân nào, bất kỳ Đông hay Tây,
cũng chỉ nhắm cốt quyền lợi của họ trước
hết: còn có lợi cho họ thì họ giúp, hếl lợi
thì họ bỏ và đàn áp. Do Thái bị Anh bỏ rồi
Nga bỏ, Ai Cập bị Mỹ bỏ rồi Nga bỏ; cả
bán đảo Ả Rập là nơi họ tranh giành ảnh
hưởng với nhau. Nhưng trên nửa triệu dân
Do Thái đã quyết tâm phục hồi quốc gia
thì thực dân Anh cũng phải chịu thua mà
Nga cũng không dám ăn hiếp họ. Họ tự coi
họ là một dân tộc thì thực dân đảnh phải
nhận họ là một dân tộc.
Càng đọc lịch sử thế giới tôi càng thấy
đi theo thực dân thì luôn luôn lợi bất cập
hại. Phải là một dân tộc có thực lực, có
bản lãnh cao, có tài chống đỡ giỏi thì mới
có thể hỏi bị họ lợi dụng nhưng nếu lỡ mà
gắn bó với họ thì không sớm thì muộn,
thực nào cũng khốn đốn, điêu tàn với họ.
Còn các nước nhược tiểu thì chỉ được đem
thân ra làm quân tốt thì cho họ trên bàn cờ
quốc tế. Có lẽ chính Israel cũng hiểu như
vậy nên năm 1967 họ đòi trực tiếp thương
thuyết với khối Ả Rập, không muốn Nga,
Mỹ làm trung gian. Nội một điều này cũng
đủ cho chúng ta suy nghĩ.
Từ sau thế chiến thứ nhì đến nay,
cường quốc nào cũng đua nhau chế tạo võ
khí cho thật tinh xảo, có sức mạnh tàn phá
mỗi ngày một khủng khiếp.
Năm nào cũng có những phát minh
mới, thành thử vũ khí nào tối tân nhất cũng
chỉ ít năm hoá ra cổ lỗ. Vậy thì hàng núi
vũ khí cũ họ dùng vào đâu? Họ có liệng
xuống biển không, có phá huỷ không, hay
phải tìm cách “tiêu thụ”, mà tiêu thụ ở
đâu? Có ở trên đất họ không?
Cho nên cứ lâu lâu trên báo báo, ta
được đọc những lời tuyên bố thực lạ lùng,
hoặc nhiều nước lo hoà bình mà vãn hồi ở
một nước khác thì kinh tế nước minh sẽ
nguy, hoặc nuôi một ngưòi lính còn đỡ tốn
hơn nuôi một người thợ thất nghiệp, hoặc
nước nọ lâm chiến mà không muốn cho
tướng của mình yhắng trận, cung cấp cho
Đồng minh của mình toàn những khí giới
cổ lỗ, đành rằng thân phận bi đát của các
nước nhược tiểu chúng ta có khi do tình
thế bắt buộc, không thể không đứng vào
phe nảy hay phe khác, nhưng lắm lúc ta tự
hỏi giá non một phần tư thế kỷ nay, dân tộc
ta không bị lôi kéo vào phe nào cả, tự lực
trồng lúa lấy mà ăn, dệt vải lấy mà bận,
can đảm sống lối sống riêng của mình, hoà
thuận nhau, bao dung nhau, không ai giàu
quá, không ai nghèo quá, chẳng cần Ti vi,
máy lạnh, những phim cao bồi, những nhạc
bo bốp… thì lúc này đây, trên những đồng
quê mơn mởn của chúng ta, tất vang lên
tiếng hò, tiếng hát, chứ đâu có tan tành,
hoang tàn, thấm đầy máu, vùi đầy xương
như vầy!
Độc giả sẽ trách tôi là không tưởng.
Tôi không dám cãi, nhưng dân Do Thái đã
cho tôi thấy vài cái không tưởng trở thành
hiện tượng, chỉ nhờ họ biết đoàn kết với
nhau, hiểu rằng không thể tin gì ở thực dân.
Ai cũng biết rằng đoàn kết thì việc gì cũng
thành, thì thực dân nào cũng phảt ngán.
Vậy thì sỡ dĩ chúng ta cho là “không
tưởng” chỉ vì không biết đoàn kết chăng?
Chính sự đoàn kết là “không tưởng”
chăng?
Tôi lại nghiệm thấy có lãnh tụ tài ba,
đức hạnh thì dân tộc nào cũng biết đoàn
kết, thiếu lãnh tụ tài ta, đức hạnh thì dân
tộc nào cũng tan rã. Trần Hưng Đạo cầm
quân thì toàn quân như một, ai cũng căm
sự tàn bạo của quân Nguyên; Lê LợI dấy
binh thí toàn dân như một, ai cũng hận thói
thâm hiểm của triều Minh. Tôi muốn trình
với độc giả bài học của Do Thái mà vô
tình trở về bài học của tổ tiên. Điều đó
làm cho tôi phấn khởi.
Vậy rốt cuộc chỉ vì chúng ta thiếu lãnh
tụ, mà vị nảo làm cho toàn dân hiểu được
cái thảm hoạ của thực dân (bấl kỳ thực dân
dân nảo) rồi đồng lòng tự lực sống đời
sống của mình, không nhờ vả ai, dù phải
gian lao chịu đựng hàng chục năm, vị đó
sẽ được làm lãnh tụ dân tộc. Tôi cầu
nguyện cho vị đó xuất hiện. Chỉ lúc đó,
dân tộc ta mới có một tương lai sáng sủa
vẻ vang, còn theo gót người thì không sao
ngửng đầu lên được.
Sài gòn ngày 10-6-1968
- Xem thêm -