BÀI DỰ THI TÌM HIỂU “LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM”
Họ tên: ……………….……...Tuổi: ………………………………..
Địa chỉ: ………………………Số điện thoại: ………………………
MỘT SỐ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ ĐOÀN
KẾT, GẮN BÓ, THỦY CHUNG SON SẮT CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT
NAM - LÀO DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC
TRONG NHỮNG NĂM QUA
Từ khi Đảng Nhân dân cách mạng Lào được thành lập năm 1955, dưới sự lãnh đạo của
hai Đảng, hai Nhà nước, mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam càng được phát huy
mạnh mẽ và biểu hiện hết sức sinh động trên tất cả các lĩnh vực, không ngừng nâng cao theo
sự phát triển của phong trào cách mạng của hai nước. Trong những lúc cam go, gian khổ nhất,
cán bộ, đảng viên, quân và dân hai dân tộc vẫn sát cánh bên nhau với nghĩa tình “hạt muối cắn
đôi, cọng rau bẻ nửa”, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng chung và vì nền độc lập tự do
của mỗi nước. Trong giai đoạn hoà bình với nhiều điều kiện thuận lợi, hai dân tộc cũng không
ngừng vun đắp mối quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt để cùng nhau tiến lên xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Bài dự thi này xin nêu một số biểu hiện sinh động của mối quan hệ đoàn kết, gắn bó,
thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt Nam - Lào dưới sự lãnh đạo của hai đảng, hai nhà
nước trong những năm qua:
1. Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, quân dân các dân tộc Việt Nam - Lào
đoàn kết bên nhau, chung sức, chung lòng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
Sau Hiệp định Giơnevơ, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào, Đảng và Nhà
nước Việt Nam quyết định để lại một bộ phận chuyên gia tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào.
Tổng số chuyên gia gồm 964 đồng chí. Đây là lực lượng rất quan trọng đối với cách mạng
Lào sau ngày đình chiến.
Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ (là căn cứ tập kết của lực
lượng cách mạng Lào), được sự chỉ đạo phối hợp của Ban cán sự miền Tây, chuyên gia quân
sự Việt Nam đã giúp đỡ bạn xây dựng hai tỉnh thành các khu chiến đấu liên hoàn, đáp ứng
tình hình thực tế của từng địa bàn, khả năng tổ chức, quản lý của cán bộ Lào, đồng thời đề
phòng chiến sự lan rộng. Trong trường hợp bị chia cắt, từng khu có thể đảm bảo độc lập tác
chiến; đồng thời giúp bạn triển khai các mặt công tác chuẩn bị chiến trường, củng cố cơ sở ở
các địa phương tạo địa bàn vững chắc, ngăn chặn địch tấn công. Nhờ đó, lực lượng Pathết Lào
không chỉ đẩy lùi các đợt tấn công lấn chiếm của quân đội Vương quốc Lào, mà còn mở trận
đánh lớn thu thắng lợi, diệt được nhiều địch và mở rộng vùng giải phóng, làm nức lòng nhân
dân hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ.
Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất, Việt Nam đã nhận đào tạo 330
cán bộ của Pa Thết Lào, nhằm chuẩn bị lực lượng cho phong trào cách mạng cả nước. Bức
thư của Ban chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẳng định: “Trong kháng chiến cũng như trong đấu tranh
thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước, cách mạng Lào luôn được sự giúp đỡ tận tình của
cách mạng Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam. Sỡ dĩ cách mạng Lào giành được thắng lợi
to lớn đó...cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách mạng”.
Mặc dù Chính phủ liên hiệp với mục tiêu đem lại hòa bình cho nước Lào đã được thành
lập nhưng đế quốc Mỹ và tay sai vẫn ra sức thi hành chính sách khủng bố đối với cán bộ cách
mạng và những người có tư tưởng hòa bình, tiến bộ. Nhiều cán bộ và thường dân Lào ở các
tỉnh biên giới chạy sang Việt Nam lánh nạn. Để tạo điều kiện giúp cách mạng Lào, ngày 1312-1958, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra Chỉ thị 120-CT/TW, nêu
rõ: Hết lòng giúp đỡ cho số cán bộ và thường dân Lào vì tránh khủng bố mà chạy sang biên
giới ta về mọi mặt tinh thần, vật chất theo khả năng của ta. Nhận thức rõ nhiệm vụ quan trọng
này, tại Quảng Trị, khi Tỉnh ủy Savẳnnakhệt phải sang đóng ở A Vao (Hướng Hoá), bạn được
Tỉnh ủy Quảng Trị, nhân dân các dân tộc Hướng Hoá bảo vệ, cung cấp lương thực, thực phẩm
suốt trong thời gian lực lượng Pathet Lào bị bọn phản động Phu Mi và Cà Tày (thân Mỹ) trở
mặt phá bỏ Hiệp định Giơnevơ, truy lùng, khủng bố. Quảng Trị đã trở thành căn cứ địa, hậu
phương vững chắc của tỉnh bạn. Ở Thái Nguyên, trong lúc tình hình kinh tế còn rất nhiều khó
khăn, nhưng cán bộ, học sinh Lào ở đây vẫn được cung cấp đủ tiêu chuẩn phụ cấp. Những
việc làm tình nghĩa này càng làm cho quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa hai Đảng,
hai dân tộc thêm keo sơn, gắn bó.
Về quân sự, Việt Nam không chỉ sát cánh bên bạn trong thời kỳ đầu củng cố, phát triển
lực lượng, xây dựng hậu cứ, cung cấp vũ khí, quân trang mà còn phối hợp với bộ đội PaThết
Lào đánh địch giành thắng lợi oanh liệt. Từ ngày 18- 8 đến 15-9-1959, một số đơn vị quân
tình nguyện Việt Nam phối hợp với các đơn vị PaThết Lào mở đợt hai hoạt động trong mùa
mưa. Trong đợt hoạt động này, quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đội
nhân dân Việt Nam, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực lượng quân
khu 4 tác chiến ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Liên huyện 90 và Khăm Muộn) đã vận dụng nhiều
hình thức tác chiến linh hoạt như phục kích, tập kích, bao vây, bắn tỉa, địch vận, phá hoại cầu
đường, đốt kho tàng địch, đánh cứ điểm bằng đặc công kết hợp hoả lực...Đi đôi với tác chiến,
các đơn vị tình nguyện Việt Nam đã tích cực giúp Lào củng cố cơ sở, phát động nhân dân ủng
hộ kháng chiến, tham gia các lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ vùng mới giải phóng.
Các đơn vị tình nguyện phối hợp chặt chẽ với lực lượng PaThết Lào và nhân dân địa phương
đánh 40 trận, giải phóng thêm 13 điểm. Sau đợt hoạt động này, các tiểu đoàn 1, 2, 4 PaThết
Lào được lệnh rút ra hoạt động ở biên giới Việt - Lào, sau đó sang tập trung ở huyện Yên Lập
(Phú Thọ) để chấn chỉnh lực lượng. Theo yêu cầu của Trung ương Neo Lào Hắc Xạt, Bộ
Quốc phòng Việt Nam giúp xây dựng tiểu đoàn 1 và 2 PaThết Lào thành hai tiểu đoàn chủ lực
mạnh, quân số mỗi tiểu đoàn từ 650 đến 700 chiến sĩ; đồng thời bổ sung vũ khí, trang bị và cử
các tổ chuyên gia giúp hai tiểu đoàn về quân sự, chính trị và chuyên môn kỹ thuật.
Khi cuộc kháng chiến của hai dân tộc ngày càng phát triển, các trận đánh phối hợp giữa
quân tình nguyện Việt Nam với bộ đội PaThết Lào ngày càng có quy mô lớn hơn, nhịp nhàng
và chặt chẽ hơn. Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), Việt Nam
đã chi viện pháo binh cho PaThết Lào, đồng thời tăng cường hoạt động uy hiếp Thà Khẹc,
giúp bạn bảo vệ thủ đô Viêng Chăn trước sự tấn công của địch. Cuối năm 1960, quân tình
nguyện Việt Nam phối hợp với bạn giải phóng Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng, nối liền với
Sầm Nưa, tạo căn cứ địa vững chắc để Chính phủ hợp pháp của Hoàng thân Xuvănna Phuma
đặt trụ sở chính thức ở Khăng Khay (Xiêng Khoảng).
Trên cơ sở thoả thuận giữa hai Đảng, ngày 9-1-1961, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng
tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam xác định nhiệm vụ quốc tế của chuyên gia và quân tình
nguyện Việt Nam đối với cách mạng Lào trong 5 năm 1961-1965 là: Giúp đỡ các lực lượng
vũ trang cách mạng Lào về chuyên gia quân sự, đào tạo cán bộ; củng cố, xây dựng vùng giải
phóng và phát triển lực lượng vũ trang của bạn; khi bạn có yêu cầu, tổ chức bộ đội tình
nguyện Việt Nam phối hợp chiến đấu với bộ đội bạn.
Trung ương Đảng hai nước cũng xác định: Lực lượng PaThết Lào cần phối hợp chặt chẽ
với quân tình nguyện Việt Nam, kiên quyết đập tan các hoạt động phiêu lưu quân sự của địch,
giữ vững vùng giải phóng và các cơ quan đầu não của Trung ương Đảng Lào trong mọi tình
huống.
Căn cứ nhiệm vụ trên, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định
biên chế thời chiến cho Sư đoàn 325, Lữ đoàn 341, Trung đoàn 224 thuộc Quân khu 4; Lữ
đoàn 316, Lữ đoàn 335 và Trung đoàn 148 thuộc Quân khu Tây Bắc, sẵn sàng chi viện cho
chiến trường miền Nam và chiến trường Lào.
Trên tinh thần đó, các trận đánh phối hợp giữa hai bên ngày càng đạt hiệu quả cao, thu
thắng lợi giòn giã trên các chiến trường như cuộc tiến công giải phóng đường 8, giải phóng
huyện Xê Pôn (Savẳnnakhệt), đẩy lùi các đợt tấn công của địch vào Xiêng Khoảng. Tiêu biểu
là chiến dịch Nặm Thà năm 1962, do Bộ tư lệnh chiến dịch Nặm Thà trực tiếp chỉ huy với sự
tham gia của các tướng lĩnh Việt Nam - Lào. Chiến dịch Nặm Thà đã làm xoay chuyển tình
thế có lợi cho cách mạng Lào, có ý nghĩa quan trọng về quân sự và chính trị. Liên quân Lào Việt không chỉ tiêu diệt được một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch vừa mới xây dựng, mà
còn giáng đòn mạnh về chính trị, đánh vào âm mưu của Mỹ và chính quyền tay sai Phumi
Nôxavẳn, làm cho tinh thần đội quân đánh thuê thêm hoang mang, dao động. Uy tín của Neo
Lào Hắc Xạt, quân đội PaThết Lào được nâng cao, khu giải phóng mở rộng thành căn cứ liên
hoàn đến tận biên giới Trung Quốc.
Sau Hiệp định Giơnevơ về Lào năm 1962, thực hiện cam kết của mình, Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam quyết định rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam và đại bộ phận
chuyên gia quân sự về nước. Thời gian này, Chính phủ liên hiệp Lào đã lập quan hệ ngoại
giao với nhiều nước, tuy vậy, Hoàng thân Xuvanuvông vẫn khẳng định: Người bạn cùng sống
chết, chung một chiến hào với ta chỉ có Việt Nam.
Năm 1963, tình hình cách mạng Lào gặp khó khăn do đế quốc Mỹ và chính quyền tay
sai lật lọng âm mưu xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ. Trước yêu cầu của bạn, Trung ương Đảng và
Chính phủ Việt Nam lại cử chuyên gia và quân tình nguyện sang giúp đỡ. Điều đáng trân
trọng, biểu hiện tình cảm thủy chung giữa quân và dân hai nước là đoàn chuyên gia Việt Nam
phần lớn là các đồng chí đã từng hoạt động, chiến đấu trên đất bạn thời gian trước.
Cuối năm 1964, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào mở “cuộc vận động thu
phục phỉ” nhằm ổn định vùng giải phóng. Việt Nam đã giúp Lào các sản phẩm thiết yếu như
muối, vải, quần áo, thuốc men; đồng thời tại Lào, các đơn vị tình nguyện và chuyên gia Việt
Nam đã sát cánh cùng quân, dân Lào triển khai có hiệu quả cuộc vận động trên. Nhiều ổ phỉ
lâu đời bị giải tán, tạo sự ổn định mọi mặt cho các vùng giải phóng.
Từ năm 1965, liên minh chiến đấu Việt - Lào sát cánh bên nhau đánh bại chiến lược
“chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam Việt Nam và chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” tăng cường của đế quốc Mỹ tại Lào.
Trước tình hình đế quốc Mỹ đánh phá vùng giải phóng Lào quyết liệt, đồng thời mở các
chiến dịch ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường Hồ Chí Minh; dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, quân
tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào không quản gian khổ, hy sinh chiến đấu anh
dũng, kiên cường cùng quân, dân Lào bảo vệ vùng giải phóng, tuyến hành lang chiến lược và
mở các chiến dịch tấn công địch giành thắng lợi to lớn. Có những cuộc chiến đấu diễn ra gay
go, ác liệt, lực lượng tuy mỏng nhưng quân tình nguyện Việt Nam vẫn đặt lên trên hết nhiệm
vụ bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào. Năm 1969, quân tình nguyện Việt Nam cùng Pa Thết Lào
tổ chức chiến dịch phản công cuộc hành quân Cù Kiệt đánh ra Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng của địch. Tại khu vực điểm cao 1505, Lạt Huồng, sau khi địch dùng trực thăng đổ
quân xuống chiếm Phu Tôn, Cang Xẻng - Phu Hủa Xàng, chúng dùng cối 106,7 ly và pháo
105mm từ trung tâm Cánh đồng Chum bắn phá ác liệt các điểm cao xung quanh. Tiểu đoàn
924 thuộc Trung đoàn 866 quân tình nguyện Việt Nam đã kiên quyết giữ vững cao điểm
1505, Bạn Thặm, đồng thời giúp nhân dân và cơ quan bạn sơ tán ra khỏi khu vực. Tuy lực
lượng chiến đấu có hạn nhưng các đại đội vẫn cử ra một số tổ công tác để hướng dẫn và giúp
dân sơ tán. Trong bom đạn ác liệt, bộ đội tình nguyện đã chiến đấu quên mình, giúp đỡ nhân
dân, nhường áo xẻ cơm, sẵn sàng xông pha vào những nơi nguy hiểm để bảo vệ nhân dân. Ở
xưởng may của tỉnh Xiêng Khoảng, khi địch càn đến gần, anh chị em công nhân được lệnh di
chuyển nhưng có một chị tàn tật không đi được phải bò vào rừng lán nạn. Biết tin đó, tổ công
tác của trong đoàn đã vào rừng tìm kiếm, cứu được chị đưa về nơi sơ tán an toàn. Trong
những ngày ác liệt này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp với các cơ sở Đảng, chính quyền đưa
hơn 16.000 dân và gia đình cán bộ sơ tán qua Mường Xéng, Kỳ Sơn (Nghệ An). Nhân dân
Nghệ An nhiệt tình đón tiếp, nhường áo xẻ cơm, cùng nhân dân Lào xây dựng nhà cửa, bệnh
xá, trường học, ổn định cuộc sống nơi sơ tán. Những tấm gương sáng, quên mình của bộ đội
tình nguyện, sự đón tiếp tận tình của nhân dân Nghệ An trong những ngày gian khó này đã
góp phần làm cho tình đoàn kết chiến đấu của quân dân Việt Nam - Lào càng thêm keo sơn,
gắn bó.
Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971 là minh chứng vô cùng sống động về mối
quan hệ Việt - Lào thắm thiết, ruột thịt. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng
hai nước, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở, đồng bào các
bản, làng, mường Việt Nam và Lào trên địa bàn dự kiến sẽ diễn ra chiến dịch đã tham gia hết
sức hăng hái vào mọi công việc chuẩn bị. Ngày ngày, trên khắp những nẻo đường hành quân,
nhân dân Quảng Trị cùng nhân dân các bộ tộc Lào không quản mưa rừng, thác lũ sát cánh
cùng các đơn vị bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong bạt núi, mở đường, đào đắp, vận
chuyển hàng vạn mét khối đất đá, xây dựng cầu cống; truy bắt lực lượng thám báo địch bảo
vệ sự an toàn và bí mật cho chiến dịch; tích cực tham gia xây dựng các trận địa bắn máy bay
và vận chuyển các loại vũ khí, đạn dược, hàng hóa vào các vị trí tập kết đúng kế hoạch. Xe
trâu, xe bò, xe đạp thồ...là cả gia tài đối với đồng bào nơi đây nhưng khi cách mạng cần, bà
con sẵn sàng đóng góp để phục vụ yêu cầu vận chuyển đạn được, quân trang, quân
nhu...Những chàng trai, cô gái Vân Kiều, Pa Cô và các bộ tộc Lào cùng trang lứa với sức trẻ
và lòng nhiệt huyết cách mạng đã đưa năng suất gùi thồ lên 90-100kg mỗi chuyến. Nhiều
người tuy sức khoẻ yếu hay vừa chữa lành vết thương vẫn xung phong đi phục vụ chiến dịch;
có em nhỏ mới 13-14 tuổi đã tình nguyện đóng góp sức mình vào việc khuân vác, chặt cây
ngụy trang mặt đường, làm liên lạc... Đang làm nương rẫy, dân bản thấy bộ đội hành quân
liền tìm cách gây tiếng ồn để át tiếng động của các đoàn quân, tránh sự phát hiện của thám
báo địch. Thi thoảng, người dân ra bờ suối vắng thấy những vết chân bộ đội in trên cỏ ướt đã
bảo nhau lùa trâu, bò ra để xáo trộn, xoá đi. Một số đồng bào bị địch bắt, chúng dụ dỗ, mua
chuộc hay tra tấn dã man, vẫn kiên quyết không khai báo, sắt son một lòng một dạ trung thành
với cách mạng.
Khi chiến dịch diễn ra ác liệt, trước yêu cầu phục vụ chiến trường, bà con dân tộc Việt
Nam và Lào nơi đây tiếp tục tự nguyện phối hợp với cùng các lực lượng vận tải tham gia vận
chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men phục vụ bộ đội. Có những đoạn
đường địch đánh phá dữ dội suốt ngày đêm, nhưng từng đoàn người gùi lương, tải đạn vẫn
không ngừng toả đi các hướng về nơi bộ đội đang chờ. Nhiều nơi, đồng bào tự nguyện chỉ ăn
củ mài và rau rừng, dành cho các chiến sĩ những hạt gạo, lát sắn, củ khoai cuối cùng để “ăn no
mà đánh thắng giặc Mỹ”.
Từng đoàn dân công là con em các dân tộc ngày đem gùi lương, tải đạn ra chiến trường,
rồi lại tham gia vận chuyển thương binh về tuyến sau. Nhiều thôn, bản thành lập các đội đi
tìm kiếm chôn cất cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Bom đạn địch chà xát, tàn phá nhà cửa, nương rẫy
nhưng không thể nào làm phai nhạt tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc, tình quân dân
thắm thiết, thủy chung. Đó là nhân tố làm nên chiến thắng đường 9 - Nam Lào vang dội của
quân và dân hai nước.
Tinh thần đoàn kết, tình cảm thủy chung, gắn bó keo sơn của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ
Việt Nam với dân tộc Lào anh em đã được Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản nêu rõ: Nhiều
đồng chí Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Sầm Nưa, Cánh đồng Chum...Nhiều cán bộ
Việt Nam đã sang Lào hoạt động từ lúc cách mạng mới bắt đầu cho đến khi tóc đã bạc, coi
nhân dân Lào như nhân dân của mình, coi sự nghiệp cách mạng Lào như sự nghiệp cách mạng
Việt Nam. Đối với Việt Nam, sự hết lòng yêu quý, giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào luôn
là nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội tình nguyện và các chuyên
gia Việt Nam. Đặc biệt, nhân dân Lào đã cùng chia sẻ với nhân dân Việt Nam trước bom đạn
ác liệt của giặc Mỹ, tạo mọi điều kiện để bộ đội Việt Nam mở đường Trường Sơn và mở các
chiến dịch lớn, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
2. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu hiện vô cùng sinh động mối quan
hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Tháng 9-1959, theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam quyết định thành lập đoàn 959 chuyên gia giúp Lào ở mặt trận Hạ Lào. Cũng
trong thời gian này, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đoàn 559 với nhiệm vụ mở đường,
vận chuyển vật chất, đưa đón cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời vận
chuyển vào bảo đảm hậu cần cho đoàn 959 chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn
Lào.
Khi phát hiện ra tuyến đường vận tải chiến lược quan trọng này, đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn đã kết hợp các lực lượng không quân, bộ binh với phương tiện chiến tranh
hiện đại liên tục đánh phá. Các đơn vị vận tải bị kẹt lại, không qua được đường 9. Trước tình
hình đó, trên cơ sở quan hệ truyền thống vốn có giữa hai dân tộc, yêu cầu khách quan cần gấp
rút chi viện cho chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia, hai Đảng, hai Chính phủ thống
nhất mở thêm đường phía Tây Trường Sơn chạy trên đất Lào. Từ tháng 4-1961, dưới sự giúp
đỡ của các đơn vị tình nguyện Việt Nam, lực lượng cách mạng Lào đã mở nhiều đợt hoạt
động quân sự ở miền Trung và Hạ Lào, giải phóng một vùng rộng lớn từ Căm Cớt, Lắc Xao
đến Mường Phìn, Sê Pôn, Bản Đông, nối đường 12 với đường 9, nhanh chóng tạo thành một
hành lang dài và rộng theo chiều Đông - Tây. Toàn bộ 6 mường của Lào ở Bắc và Nam đường
số 9 được giải phóng.
Năm 1963, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục đưa quân bao vây, đồng thời
đánh phá quyết liệt tuyến vận tải phía đông Trường Sơn. Trước tình hình đó, được sự lãnh đạo
của hai Đảng, quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa Thết Lào quyết định mở chiến dịch
128 giải phóng toàn bộ vùng cao nguyên Trung Lào có biên giới chung với Việt Nam dài trên
700km. Thắng lợi của chiến dịch 128 đã tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển toàn bộ đường
vận tải sang hướng Tây trên đất Lào.
Trong quá trình này, bộ đội tình nguyện, đoàn chuyên gia cố vấn Việt Nam dưới sự chỉ
đạo của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã thường xuyên phối hợp với quân khu Trung - Hạ Lào,
Đảng bộ và chính quyền 7 tỉnh có đường Hồ Chí Minh xuyên qua tổ chức khảo sát địa hình,
phối hợp mở đường và chiến đấu bảo vệ căn cứ và tuyến đường chiến lược, tổ chức đánh địch
tại chỗ, giải phóng đất đai, mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện để tuyến đường được mở
rộng và phát triển.
Để có con đường chiến lược với hơn 20.000km, các chiến sĩ, lực lượng thanh niên xung
phong và nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào đã đổ bao mồ hôi, xương máu, của cải
và hàng ngàn người đã ngã xuống để xây dựng, bảo vệ và vận chuyển hàng hóa, nhân lực
phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ của hai nước Việt - Lào.
Đối với cách mạng và nhân dân Lào, từ khi mới hình thành cho đến khi kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường Hồ Chí Minh đi qua 17 mường (huyện) ở
Trung và Nam Lào với tổng chiều dài hàng ngàn km. Trong 16 năm (1959-1975), đế quốc Mỹ
đã rải xuống các cánh rừng dọc tuyến đường hàng triệu tấn bom các loại, hàng ngàn tấn chất
độc hóa học và nhiều thiết bị điện tử tinh vi nhằm phát hiện, ngăn chặn lực lượng vận tải
chiến lược. Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Nam Việt Nam, Lào, Campuchia còn sử dụng
lực lượng lớn quân đội và vũ khí đánh vào các vùng thuộc hành lang của tuyến đường, quy
mô lớn nhất là chiến dịch Lam Sơn 719 với 20.000 quân Sài Gòn cùng sự yểm trợ của 9.000
quân Mỹ, 2.000 máy bay các loại đánh vào khu vực Đường 9 - Nam Lào. Riêng năm 1969,
máy bay Mỹ đã đánh phá hàng nghìn trận vào 180 bản làng của đồng bào các dân tộc Lào dọc
tuyến đường Hồ Chí Minh, thiêu hủy 845 nóc nhà, giết hại 482 người, làm bị thương 344
người, phá 337 nương rẫy. Bất chấp sự hủy diệt tàn bạo và những âm mưu thâm độc của kẻ
thù, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân các bộ tộc Lào đã hết
lòng giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong việc mở đường, bảo vệ tuyến đường và vận chuyển hàng
hóa phục vụ chiến trường. Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng đánh phá, nhân dân 17
huyện thuộc 7 tỉnh của Lào trên mảnh đất Tây Trường Sơn đã tự động dời nhà, bỏ nương rẫy
đi vào rừng sâu sinh sống. Bộ đội và du kích Lào phối hợp chặt chẽ với bộ đội Việt Nam đánh
trả máy bay địch, ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm, tập kích của chúng. Nhân dân Lào
còn đóng góp hàng triệu ngày công cùng bộ đội và lực lượng thanh niên xung phong Việt
Nam làm mới, sửa chữa đường xá, vận chuyển lương thực, thương bệnh binh, góp phần vào
mọi hoạt động của tuyến đường Hồ Chí Minh.
Không thể kể hết những tình cảm quý báu của nhân dân các bộ tộc Lào dành cho các
chiến sĩ, cán bộ Việt Nam. Năm 1964, địch đánh phá ác liệt, thời tiết phức tạp khiến việc vận
chuyển hàng hóa và dẫn quân của đoàn 559 trên tuyến tây Trường Sơn gặp rất nhiều khó
khăn. Có thời điểm đường bị tắc, khách qua tuyến dồn ứ hàng ngàn người ở các trạm giao liên
gần một tháng. Việc đảm bảo lương thực, thực phẩm cho bộ đội trở thành vấn đề “nước sôi,
lửa bỏng”. Trước tình hình đó, chỉ huy đoàn 559 cùng đoàn chuyên gia 763 ở Hạ Lào trực tiếp
đề xuất với Tỉnh ủy Távên Oọc của Lào vận động nhân dân địa phương giúp đỡ. Với tinh thần
quốc tế cao cả, trong sáng, nhân dân tỉnh Távên Oọc, đặc biệt là các huyện Cà Lươn, Xê
Camản...nhanh chóng thu gom thóc, giã gạo phục vụ bộ đội Việt Nam. Mặc dù là địa phương
nghèo, nhân dân sống phân tán, nhưng chỉ trong vòng nửa tháng, bạn đã huy động được hơn
30 tấn lương thực, góp phần quan trọng giải quyết khó khăn cho đoàn 559.
Nhờ sự phối hợp liên minh này mà hàng hoá không còn bị ứ đọng trên tuyến đường 9,
vào chiến trường miền Nam và nước bạn thông suốt, kịp thời. Tuy nhiên, sức người có hạn,
việc vận chuyển hàng hoá còn phải dựa vào voi, trâu, bò... Bà con dân tộc đông - tây Trường
Sơn rất quý voi, coi voi là thần, là tượng trưng cho sự giàu có, danh giá. Làng nào có voi rất
tự hào. Thế nhưng khi cách mạng cần, nhân dân cả Việt - Lào đều sẵn sàng hiến voi, đưa voi
ra trận tuyến.
Trong những năm ác liệt, gian khó đó, điều quý nhất ở bạn là tấm lòng chân thật, trong
sáng, ngay thẳng, không nề vất vả, hy sinh và tuyệt đối tin tưởng vào cán bộ, bộ đội. Bà con
dân tộc Lào ở đây đã nói với cán bộ, bộ đội Việt Nam rằng: “Tao đói còn đi đào được củ rừng
để ăn. Tụi mày làm cách mạng còn phải đi làm mãi. Củ sắn, lúa chúng tao dành cho chúng
mày…”. Bà con Mường Noòng 3 năm không có muối phải ăn tro từ rễ tranh đốt ra. Đến khi ta
đưa muối sang, liền nhắc công ơn cụ Hồ. Có người chưa hề thấy ảnh Bác, hỏi cụ Hồ có phải
như ông Voi không? ông trời không? Những lúc giáp hạt, bị cái đói hành hạ, bà con dắt nhau
đi tìm rau rừng, xuống khe bắt ốc sống cầm hơi, không hề nghĩ đến việc lấy một lưng gạo, hạt
muối ở các kho lương thực, thực phẩm của các binh trạm đặt giữa rừng trên đất bạn.
Trong những năm tháng khó khăn hay trong những trận đánh ác liệt, nhiều bà mẹ, gia
đình Lào trong khi cuộc sống còn rất thiếu thốn vẫn chắt chiu từng bát gạo để nuôi dưỡng
thương binh, vượt qua bom đạn của địch đưa rau, gạo, thuốc men đến các binh trạm trên
tuyến đường để trao tận tay cho các chiến sĩ Việt Nam.
Đáp lại lòng quý mến và đùm bọc của nhân dân Lào trên dọc tuyến đường Trường Sơn,
các đơn vị bộ đội Việt Nam đã tích cực cùng với bộ đội PaThết Lào chiến đấu bảo vệ vùng
giải phóng, bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào, giúp đồng bào tăng gia sản xuất, cứu đói cho dân
khi gặp thiên tai, địch họa. Bộ đội Việt Nam trên tuyến đường Hồ Chí Minh còn giúp nhân
dân Lào xây mới một số tuyến đường liên bản, liên xã, liên huyện, góp phần cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội vùng giải phóng. Chính vì vậy, tuy phải chịu đựng
hy sinh, gian khổ, nhưng nhân dân các bộ tộc Lào dọc tuyến đường vẫn hết lòng yêu thương,
ủng hộ quân đội cách mạng hai nước.
Nhờ có con đường chiến lược Hồ Chí Minh, tính chung trong vòng 16 năm (19591975), tuyến giao thông vận tải quân sự Trường Sơn đã vận chuyển được 1.349.000 tấn hàng
hóa, vũ khí, trong đó giao cho các chiến trường và cách mạng Lào, Campuchia hơn 583.000
tấn, 515 triệu m3 xăng dầu. Riêng 4 tháng trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
năm 1975, tuyến vận tải 559 qua đường Hồ Chí Minh đã chuyển vào miền Nam Việt Nam
hơn 110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn vật chất các loại, đưa sang Lào (1973-1975) trên
108.000 tấn hàng.
Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng sáng ngời của tình đoàn
kết chiến đấu, mối quan hệ thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt - Lào trong trường kỳ đấu
tranh giải phóng dân tộc.
3. Quan hệ hữu nghị đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam càng
phát triển sống động trong giai đoạn hoà bình, xây dựng đất nước phồn vinh, bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc
Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước đều nhận thức rõ việc củng cố, mở rộng và
phát triển một cách toàn diện mối quan hệ Việt Nam - Lào là yêu cầu tất yếu. Vì vậy, hai
nước nhanh chóng đi đến ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vào tháng 7-1977, đặt cơ sở
pháp lý vững chắc, lâu dài cho quan hệ hai nước trong thời kỳ mới. Trên tinh thần chỉ đạo của
Trung ương Đảng và Chính phủ, quan hệ Việt Nam - Lào nhanh chóng được triển khai thông
qua các tổ chức đoàn thể nhân dân và các ban, ngành, địa phương với nhiều hình thức sáng
tạo, phong phú, phù hợp với đặc điểm của từng ngành, từng địa phương. Ngành thông tin,
tuyên truyền, báo chí xuất bản của hai nước tăng cường các hoạt động tuyên truyền nhân
những ngày lễ trọng đại của hai dân tộc làm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhận thức
đầy đủ hơn về tầm quan trọng, nội dung mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong giai đoạn mới
của cách mạng.
Đi đôi với quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ,
ngành Trung ương, giữa các tỉnh Việt Nam với 12 tỉnh và thành phố của Lào cũng có nhiều
hình thức hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau phong phú và hiệu quả.
Các tổ chức hội hữu nghị trên nhiều lĩnh vực với hàng nghìn hội viên từ Trung ương
đến cơ sở ra đời, nhiệm vụ chủ yếu là giới thiệu, thông tin cho các tầng lớp nhân dân hai nước
về lịch sử đất nước, con người, nền văn hóa, thành tựu xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cầu
nối vận động và thúc đẩy các hoạt động hữu nghị, hợp tác và giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa
học kỹ thuật một cách có hiệu quả, thiết thực; tổ chức các đoàn hữu nghị, giao lưu, trao đổi
thông tin với các tổ chức xã hội - kinh tế - văn hóa của hai nước.
Đặc biệt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các tỉnh ngày càng thắt chặt phát triển
thành quan hệ kết nghĩa; không chỉ dừng lại ở 10 tỉnh có đường biên giới chung mà còn mở
rộng ra các tỉnh, thành phố khác như thủ đô Hà Nội với Viêng Chăn...Tại các tỉnh có đường
biên giới chung, quan hệ kết nghĩa phát triển đến tận cơ sở, đó là kết nghĩa huyện với huyện,
bản với bản trên cơ sở phát huy và duy trì mối quan hệ đoàn kết, hợp tác truyền thống láng
giềng tốt đẹp, bảo đảm an ninh xã hội vùng biên, giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh, chủ
động phối hợp tìm kiếm hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào.
Tại Quảng Trị, quan hệ kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới ngày càng đi vào chiều
sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đến nay toàn bộ 23/23 cặp bản đối diện của tỉnh Quảng Trị với
hai tỉnh Savẳnnakhệt và Xalavăn của Lào đã tổ chức kết nghĩa. Đây là việc làm đáp ứng tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân hai bên biên giới, góp phần gìn giữ và phát huy quan hệ hữu
nghị đặc biệt giữa hai dân tộc mãi mãi về sau.
……., ngày ……tháng …….năm 20….
Người dự thi
Nông Văn Thành
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU “LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM”
Họ tên: ……………….………Tuổi: ………………………………..
Địa chỉ: ………………………Số điện thoại: ………………………
Những nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, LàoViệt Nam; vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch
Xuphannuvông và các nhà lãnh đạo cao cấp của hai Đảng, hai Nhà nước trong quá trình
xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam:
*Mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam được hình thành từ những
điều kiện, nhân tố khác nhau như:
- Các điều kiện tự nhiên, địa-chiến lược, địa-quân sự...
- Các nhân tố dân cư, xã hội, văn hóa và lịch sử.
- Sự phối hợp tự nguyện của nhân dân hai nước trong truyền thống chống giặc ngoại
xâm.
- Công lao thiết lập và xây dựng của các vị lãnh tụ...
* Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam được phát triển từ quan hệ truyền
thống do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản, chủ tịch Xuphannuvông và các thế hệ lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước và
nhân dân hai nước dày công vun đắp. Cùng với thời gian, mối quan hệ này đã trải qua nhiều
thử thách khắc nghiệt, đày hi sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân hai dân
tộc, đã trở thành quy luật sống và sức mạnh kì diệu đưa tới những thắng lợi vĩ đại của Việt
Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ xâm lược, tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, đưa hai nước cùng phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa...
2. Đặc điểm của quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam.
- Quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam được phát triển từ quan hệ truyền
thống lên quan hệ đặc biệt.
- Quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng
nền móng và chính Người cùng đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các
thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước dày công vun đắp.
- Quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam là sự nghiệp của nhân dân Việt NamLào.
- Quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam mang tính xuyên suốt, toàn diện và
bền vững.
3. Những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào,
Lào-Việt Nam.
* Quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam là quy luật giành thắng lợi, là nguồn
sức mạnh vô tận và quý giá nhất của cách mạng hai nước, là di sản văn hóa thiêng liêng của
hai dân tộc, nơi hội tụ biết bao giá trị cao đẹp và sâu sắc mà trí tuệ và tình cảm của nhân loại
hằng ngưỡng mộ, tôn vinh...
* Hai dân tộc Việt Nam- Lào sát cánh bên nhau cùng tiến hành khởi nghĩa tháng Tám
1945, giành độc lập dân tộc.
- Đánh giá xác đáng tình hình chính trị Đông Dương và chỉ rõ mâu thuẫn cần giải quyết.
- Xác lập các luận điểm về vấn đề dân tộc ở Đông Dương.
- Quyết định thực hiện một nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc.
- Xúc tiến công tác xây dựng đảng và lực lượng cách mạng.
- Chỉ đạo phương pháp đấu tranh giành chính quyền.
* Việt Nam, Lào đoàn kết, liên minh chiến đấu chống thực dân, đế quốc xâm lược, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
- Vượt qua thử thách, tạo dựng thực lực của liên minh chiến đấu chống thực dân Pháp.
+ Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, chiến trường Đông Dương bị kẻ
thù bao vây, cô lập. Nhưng quân dân hai nước vãn mở đường từ Việt Nam xuyên qua đất Lào
tới nhiều nước tuyên truyền cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Đông Dương;
thu hút sự ủng hộ, chi viện của bạn bè quốc tế; chuyển về Lào và Việt Nam nhiều cán bộ,
chiến sĩ Việt kiều, bổ sung lực lượng kháng chiến.
+ Xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt đầu tiên của quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào,
Lào-Việt Nam.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt đầu tiên của quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam
vốn đã được chuẩn bị từ trước tháng 8-1945; đến kháng chiến chống thực dân Pháp đã xây
dựng được đội ngũ bao gồm các nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam và cách
mạng Lào.
Phía Việt Nam, đó là nhiều cán bộ cấp cao của Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Phía Lào, những nhà cách mạng tiêu biểu như đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và nhiều đồng chí lãnh đạo khác giàu tài năng, đạo đức cách mạng.
+ Gây dựng cơ sở chính trị và căn cứ địa, phát triển chiến tranh du kích và thắt chặt
quan hệ đoàn kết Việt- Lào.
Tư tưởng chủ đạo của nhiệm vụ trên được nêu ra sớm tại Chỉ thị về kháng chiến kiến
quốc của TƯ Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 11 năm 1945.
Từ cuối năm 1948, việc thành lập khu kháng chiến được bắt đầu tiến hành. Các khu
kháng chiến Thượng Lào, Hạ Lào, Tây Bắc Lào... lần lượt xuất hiện.
Năm 1949, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo thành lập Chính phủ Lào
kháng chiến và Mặt trận dân tộc thống nhất Lào (Neo Lào Ítxala); cử một đơn vị cán bộ, chiến
sĩ sang Thái Lan và Lào đón Hoàng thân Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo cách mạng Lào
tới Việt Bắc để thực hiện chủ trương trên.
Giữa tháng 8/1950, tại tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam), Đại hội Quốc dân Lào quyết định
những vấn đề quan trọng về cách mạng Lào, thành lập Chính phủ Lào kháng chiến và Neo
Lào Itsxala. Sự kiện đó tạo ra bước phát triển mới về việc tăng cường cơ quan chỉ đạo kháng
chiến và mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các phần tử yêu nước và
phát huy mạnh mẽ hơn sức mạnh của cuộc chiến tranh cách mạng Lào góp phần tăng cường
quan hệ đặc biệt Lào-Việt Nam.
+ Xây dựng tại mỗi nước Việt, Campuchia, Lào một chính đảng độc lập và thành lập
Mặt trận Liên minh Việt-Campuchia-Lào.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản, tháng 2/1951, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị
thành lập ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản.
Theo nghị quyết Đại hội II của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng sản ở Việt
Nam lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam; Ban vận động thành lập Đảng nhân dân Lào có sự
hỗ trợ của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tiến hành các công tác chuẩn bị để thành
lập Đảng Nhân dân Lào.
Nối tiếp Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng tại Việt Bắc, diễn ra hội nghị
thành lập Mặt trận Việt- Miên-Lào. Nghị quyết Hội nghị biểu thị ý chí thống nhất của nhân
dân ba nước Đông Dương đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp và can thiệp Mĩ, làm cho ba
nước Việt Nam, Campuchia, Lào hoàn toàn độc lập, nhân dân ba nước được tự do, sung
sướng và tiến bộ.
- Việt Nam, Lào đồng tâm, hiệp lực chiến đấu, lập nên nhiều chiến công.
+ Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp:
Tháng 4/1953, Liên quân Lào- Việt mở chiến dịch Thượng Lào. Trong vòng một tháng
đã giải phóng một vùng rộng lớn với trung tâm là Sầm Nưa tạo ra một địa bàn đứng chân
vững chắc của cách mạng Lào.
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, thắng lợi của các chiến dịch Trung Lào, Hạ
Lào đã củng cố và mở rộng căn cứ ở vùng trọng yếu này, buộc đối phương phải đưa quân tới
đây để đối phó với liên quân Lào-Việt.
Tháng 1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay đổi phương châm tác chiến tại chiến
dịch Điện Biên Phủ từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, bộ đội Việt
Nam phối hợp với quân giải phóng Lào và được nhân dân Lào chi viện vật chất, tấn công khu
vực sông Nậm U, tiến sát kinh đô Luông Pha băng, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào thế hoàn toàn cô lập.
Ngày 13/3/1954, quân và dân Việt Nam mở cuộc quyết chiến chiến lược ở Điện Biên
Phủ. Quân dân Lào đã anh dũng chiến đấu, chặt đứt con đường chiến lược cuả địch chi viện
cho Điện Biên Phủ từ phía Lào; góp phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên
Phủ, đưa tới sự kiện kí kết Hiệp định Giơnevơ.
+ Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ :
21 năm chống Mĩ là chặng đường kế tục, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào,
trong đó, nổi bật lên những hoạt động tiêu biểu:
Sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân dân hai nước Việt Nam, Lào phá vỡ mưu đồ tiêu diệt
lực lượng vũ trang Pathet Lào và hãm hại bộ phận đầu não cơ quan lãnh đạo cách mạng Lào
do đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai tiến hành.
Do sự hợp lực giữa hai phía Lào, Việt Nam, Tiểu đoàn 2 Pathet Lào đã mưu lược, anh
dũng chiến đấu thoát ra khỏi vòng vây của địch tại Xiêng Khoảng vào tháng 5 năm 1959, sau
15 ngày trở về căn cứ an toàn.
Sau một thời gian chuẩn bị rất công phu của các đồng chí lãnh đạo Lào bị giam và
nhiều lực lượng cách mạng bên ngoài trại giam, cuối cùng, đêm ngày 32 rạng ngày 24/5/1960,
với sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều lực lượng phía Lào và phía Việt Nam, các đồng chí lãnh
đạo Lào và cán bộ bị bắt vượt khỏi trại giam Phôn Khênh tại Viêng Chăn.
Sự hợp lực giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam để xác
định phương pháp đấu tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh chính trị chống chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ ở Lào.
Từ đầu năm 1958, xu thế phát triển của tình hình Lào ngày càng hiện rõ sự can thiệp,
xâm nhập của Mĩ mạnh mẽ và toàn diện. tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng Lao động Việt
Nam, ngày 3/6/1959, bàn về vấn đề Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên phương pháp đấu
tranh của cách mạng Lào là phải dùng du kích, phải trường kì gian khổ, phải chú ý dân vận,
địch vận...
Đến tháng 7/1959, hai Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào
nhất trí quyết định phát động cuộc đấu tranh vũ trang trong mùa mưa năm 1959 lấy trọng tâm
là chiến tranh du kích, phát động phong trào quần chúng nổi dậy, giành chính quyền tại thôn
xã.
Trung tuần tháng 7/1959, bộ đội Lào mở 3 hướng tấn công. Hướng chính từ Đông
Nam Sầm Nưa tới Đông Nam Xiêng Khoảng. Hướng thứ hai hoạt động chủ yếu tại vùng
Mường Xon bắc Sầm Nưa đến Phong Xalì, Luông Phabang đến Xiêng Ngân. Hướng thứ ba
có nhiệm vụ phối hợp tại địa bàn từ Bắc đường số 8 đến đường 12 Khăm Muộn.
Tuyến đường chiến lược Trường Sơn là một công trình vĩ đại , biểu tượng cao đẹp của
quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam
Năm 1959, đáp ứng nhu cầu chi viện sức người, sức của cho các chiến trường miền
Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, việc mở đường chiến lược Trường Sơn càng trở nên cấp
thiết. Theo đề nghị của Việt Nam, tại cuộc hội đàm cấp cao giữa lãnh đạo Đảng Lao động
Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào cuối năm 1960, phía Lào hoàn toàn ủng hộ chủ trương mở
đường Tây Trường Sơn và phát biểu: “Vận mệnh của hai nước chúng ta gắn bó mật thiết với
nhau. Nhân dân Lào sẽ làm hết sức mình để góp phần vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam
anh em”.
Công cuộc mở đường diễn ra với sự phối hợp lực lượng Lào, Việt Nam cùng tiến hành.
Đường Trường Sơn vừa là tuyến đường chuyển vận người và của từ hậu phương lớn
miền Bắc Việt Nam chi viện cho chiến trường ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; cũng là
nơi thiết lập căn cứ hậu cần khổng lồ, dự trữ và cung cấp vũ khí, hàng quân dụng, dân dụng
cho tiền tuyến.
Nơi đây biến thành chiến trường phản công quyết liệt của bộ đội Việt Nam và bộ đội
Lào trong cùng một liên minh giáng trả các mũi tấn công của đối phương, ghi lại bao chiến
công hiển hách. Tất cả đã tạo dựng nên một biểu tượng cao đẹp của quan hệ hữu nghị đặc biệt
Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Thắng lợi vĩ đại của hai dân tộc Việt Nam, Lào diễn ra năm 1975, kết thúc 30 năm
chiến tranh cách mạng, lập hai kì tích chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược;
đánh dấu sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ và sự thất bại của chủ nghĩa thực dân mới, dù đế
quốc Pháp, Mĩ đã cố gắng hết sức nhưng không thể nào cứu vãn nổi.
4. Quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam tiếp tục phát triển trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc Việt Nam, Lào (1976-2007)
* Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh:
- Sau khi thu được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hai
nước Việt Nam, Lào kí kết Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ngày 18/7/1977 thúc đẩy quan hệ hữu nghị đặc
biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong khung cảnh mới, mang tính chính trị, pháp lí cơ bản,
bền vững lâu dài.
Trong 30 năm vừa qua, Hiệp ước luôn khơi dậy nhiều sáng tạo, đưa tới những giải
pháp hữu hiệu mà Đảng, Nhà nước Việt Nam, Lào phối hợp thực hiện, như phá tan mưu đồ
của đối phương bóp méo vấn đề Việt Nam, phối hợp với cách mạng Campuchia, dỡ bỏ bao
vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và một số quốc gia
khác...Đồng thời, Việt Nam hỗ trợ Lào giải quyết khó khăn về lương thực, hàng tiêu dùng khi
biên giới phía Tây bị đóng cửa, để kịp thời ổn định tình hình xã hội, ngăn chặn dòng người di
tản ra nước ngoài.
Việc kí kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam-Lào ngày 18/7/1977 và
hoàn thành hoạch định, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới cùng với hoạt động hợp tác về an
ninh-quốc phòng, kinh tế, giao lưu văn hóa đã xây dựng nên một biên giới hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
- Trước những khó khăn gay gắt của tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở Việt
Nam và Lào từ cuối thập kỉ 70 và thập kỉ 80 thế kỉ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào sử dụng phương châm: nhìn thẳng vào sự thật để phát hiện những
sai lầm chủ quan duy ý chí, nóng vội, muốn đi nhanh lên CNXH theo mô hình kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp; và quyết định tiến hành công cuộc đổi mới ở hai nước. Hai Đảng
cùng phối hợp chặt chẽ trong quá trình nghiên cứu, vận dụng, phát triển Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, con đường đi lên CNXH và áp dụng vào điều kiện
cụ thể của hai nước; đồng thời, tìm tòi thử nghiệm trong thực tiễn để mở ra con đường đổi
mới và hội nhập quốc tế, đưa cách mạng hai nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tếxã hội và tiến bước theo định hướng XHCN. Thắng lợi này ghi thêm một kì tích mới của quan
hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
- Trên thế giới, từ năm 1987 đến năm 1991, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu
lâm vào tình trạng khủng hoảng dẫn tới sụp đổ chế độ XHCN do thực hiện đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập, phê phán Đảng Cộng sản và Chủ nghĩa Mác- Lênin. Trước tình hình đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đưa ra những nguyên tắc đổi
mới: giữ vững mục tiêu XHCN và nhận thức đúng hơn, có phương pháp phù hợp hơn để xây
dựng thành công CNXH; giữ vững định hướng XHCN và sự lãnh đạo của Đảng; kiên định
chủ nghĩa Mác-Lênin , không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Cũng vào lúc này, công cuộc đổi mới đã đưa lại hiệu quả bước đầu rõ rệt trong sản
xuất và đời sống, gây được niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cùng con đường phát triển của đát nước theo
định hướng XHCN.
Các hoạt động trên thể hiện rõ bản lĩnh chính trị và năng lực sáng tạo của hai Đảng đã
vượt qua cơn bão táp hiểm nghèo của hệ thống XHCN, giữ vững vai trò lãnh đạo của mình và
ổn định chính trị của đất nước.
- Từ 1976 đến đầu thế kỉ XXI, Việt Nam và Lào bị nhiều thế lực thù địch từ bên
ngoài vừa tấn công, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, vừa sử dụng những phần tử phản động lưu
vong quay trở về phá hoại an ninh quốc gia. Một lần nữa, nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc
đặt ra cho ngành quốc phòng, an ninh và nhân dân Việt Nam, Lào nhiều nhiệm vụ mới.
Theo chủ trương, kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng và Chính phủ, lực lượng vũ trang
và lực lượng an ninh Lào, Việt Nam phối hợp chặt chẽ thực hiện các nhiệm vụ chống ngoại
xâm, chống phỉ, dẹp bạo loạn, trừ diệt bọn phản động vượt qua lãnh thổ Lào xâm nhập lãnh
thổ Việt Nam...Mặt khác, hai bên giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và trang bị kĩ thuật hậu
cần.
* Hợp tác phát triển kinh tế, giáo dục, đào tạo cán bộ:
- Trên lĩnh vực kinh tế, hai bên chấp hành nguyên tắc hợp tác là bình đẳng, tôn trọng
chủ quyền quốc gia, cùng có lợi và hết lòng giúp đỡ nhau; mặt khác còn căn cứ vào tình hình
cụ thể của mỗi nước mà giành ưu tiên, ưu đã cho nhau.
Phương thức hợp tác ngày càng được mở rộng và nâng cao về quy mô, chất lượng và
hiệu quả. Có thể thấy điều đó qua các cuộc hội đàm và gặp gỡ cấp cao giữa lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước về những quan điểm kinh tế xoay quanh chủ đề chính yếu nhất là thời kì
quá độ lên CNXH của Việt Nam, Lào và kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện tại hai nước. Trên
thực tế, sự hợp tác của hai nước diễn ra từ Trung ương đến tỉnh, thành phố và các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ...trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, công
thương, nông nghiệp...
Nội dung hợp tác kinh tế được chuyển dần theo cấp độ từ thấp đến cao: ban đầu là
viện trợ, cho vay, tiến đến hợp tác sản xuất kinh doanh phù hợp công thức: Tài nguyên Lào,
lao động kĩ thuật Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay của nước thứ ba. Tiếp đó, từ năm 1996 trở
đi, một công thức mới được áp dụng, đó là hợp tác hai bên cùng có lợi theo thông lệ quốc tế,
ưu tiên, ưu đãi hợp lí cho nhau.
- Sự hợp tác giáo dục và đào tạo cán bộ Lào- Việt Nam được lãnh đạo hai Đảng và
Nhà nước đặt ở tầm chiến lược, mở đầu từ thời kì chống Mĩ và liên tục phát triển cho dù vượt
qua nhiều khó khăn, gian khổ của chiến tranh và những biến động hiểm nghèo của phe
XHCN.
Trong những năm chiến tranh, nhiệm vụ chủ yếu của Việt Nam giúp Lào về giáo dục
dành cho giáo dục phổ thông. Song với tầm nhìn chiến lược, chủ động đón những bước phát
triển đột biến của cách mạng, từ năm 1962, theo yêu cầu của bạn Lào, Việt Nam đã cử nhiều
chuyên gia sang Lào để hợp tác với bạn nghiên cứu lập phương án giải quyết.
Sau năm 1975, hợp tác giáo dục, đào tạo cán bộ Việt Nam- Lào phát triển khá toàn
diện về cấp độ và loại hình chuyên môn, nghiệp vụ mà lưu học sinh Lào theo học, với trọng
tâm là đại học, trên đại học. Trong đó, số cán bộ thuộc hệ thống chính trị Lào chiếm tỉ lệ cao,
học tập trung và tại chức, dài hạn và ngắn hạn, chủ yếu do Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh đảm nhiệm. Nội dung chương trình đào tạo chứa đựng nhiều kết quả
nghiên cứu lí luận và tổng kết thực tiễn trên các chặng đường cách mạng, nhất là công cuộc
đổi mới, đó là những kiến thức bổ ích cho đội ngũ cán bộ Lào.
Phía Lào cũng giúp đỡ Việt Nam đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội
nhân văn về Lào và phiên dịch tiếng Lào, đã phát huy tốt kết quả học tập để giữ gìn và phát
triển theo chiều sâu quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -Việt Nam.
Nhìn chung quá trình hợp tác Việt Nam – Lào, Lào- Việt Nam trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo cán bộ đã góp phần quan trọng và to lớn tạo nên nguồn lực cơ bản, bền vững cho
sự phát triển của quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
5. Giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong lịch
sử của hai dân tộc và trên những chặng đường phát triển mới.
- Bổ sung và điều chỉnh cơ chế, chính sách, chương trình và tổ chức chỉ đạo hợp tác
Việt Nam-Lào, Lào – Việt Nam.
- Tiếp tục thực hiện những chương trình hợp tác đã kí kết và xây dựng chiến lược hợp
tác Việt Nam- Lào giao đoạn từ nay đến năm 2020.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn
kết đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
6. Ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm quý báu về việc giữ gìn, củng cố và phát huy
truyền thống hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
* Ý nghĩa lịch sử:
- Quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam là nhân tố cơ bản tạo nên
sức mạnh vô địch của hai dân tộc Việt Nam- Lào.
- Đứng ở vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á, nơi đối đầu quyết liệt giữa phong
trào giải phóng dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội với các thế lực xâm lược, khối đoàn kết
Việt Nam- Lào, Lào –Việt Nam trở thành lực lượng nòng cốt, chặn đứng, làm thất bại những
mưu đồ và hành động của kẻ thù, góp phần quan trọng tạo dựng môi trường hòa bình, hợp tác,
hữu nghị giữa các quốc gia Đông Nam Á.
- Quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam là một tấm gương mẫu mực,
thủy chung, trong sáng, vững bền, chưa từng có trong quan hệ giữa các dân tộc đấu tranh vì
độc lập, tự do, hòa bình và tiến bộ xã hội.
* Bài học kinh nghiệm:
- Xác định đúng đắn hệ thống quan điểm lí luận về mối quan hệ dân tộc và quốc tế
trong thời đại mới giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng, phát triển quan
hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
- Xác định nội dung, phương thức xây dựng quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào,
Lào-Việt Nam là cụ thể hóa hệ thống quan điểm lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ
quốc gia và quốc tế trong điều kiện cụ thể của hai nước để hướng dẫn hoạt động của Đảng,
của hệ thống chính trị và quân, dân hai nước Việt Nam-Lào nhằm đạt tới mục tiêu cách mạng
do hai bên xác lập.
- Tình cảm cách mạng thủy chung, trong sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Nhân dân cách mạng Lào là một nhân tố trọng yếu tạo nên độ bền vững và phát triển của mối
quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
- Biết khai thác, phát huy các nhân tố, điều kiện cần thiết để xây dựng, phát triển quan
hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU “LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM”
Họ tên: ……………….……..,Tuổi: ………………………………..
Địa chỉ: ………………………Số điện thoại: ………………………
MỘT SỐ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ ĐOÀN
KẾT, GẮN BÓ, THỦY CHUNG SON SẮT CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT
NAM - LÀO DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC
TRONG NHỮNG NĂM QUA
Từ khi Đảng Nhân dân cách mạng Lào được thành lập năm 1955, dưới sự lãnh đạo của
hai Đảng, hai Nhà nước, mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam càng được phát huy
mạnh mẽ và biểu hiện hết sức sinh động trên tất cả các lĩnh vực, không ngừng nâng cao theo
sự phát triển của phong trào cách mạng của hai nước. Trong những lúc cam go, gian khổ nhất,
cán bộ, đảng viên, quân và dân hai dân tộc vẫn sát cánh bên nhau với nghĩa tình “hạt muối cắn
đôi, cọng rau bẻ nửa”, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng chung và vì nền độc lập tự do
của mỗi nước. Trong giai đoạn hoà bình với nhiều điều kiện thuận lợi, hai dân tộc cũng không
ngừng vun đắp mối quan hệ đoàn kết, thủy chung, son sắt để cùng nhau tiến lên xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Bài dự thi này xin nêu một số biểu hiện sinh động của mối quan hệ đoàn kết, gắn bó,
thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt Nam - Lào dưới sự lãnh đạo của hai đảng, hai nhà
nước trong những năm qua:
1. Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, quân dân các dân tộc Việt Nam - Lào
đoàn kết bên nhau, chung sức, chung lòng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
Sau Hiệp định Giơnevơ, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào, Đảng và Nhà
nước Việt Nam quyết định để lại một bộ phận chuyên gia tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào.
Tổng số chuyên gia gồm 964 đồng chí. Đây là lực lượng rất quan trọng đối với cách mạng
Lào sau ngày đình chiến.
Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ (là căn cứ tập kết của lực
lượng cách mạng Lào), được sự chỉ đạo phối hợp của Ban cán sự miền Tây, chuyên gia quân
sự Việt Nam đã giúp đỡ bạn xây dựng hai tỉnh thành các khu chiến đấu liên hoàn, đáp ứng
tình hình thực tế của từng địa bàn, khả năng tổ chức, quản lý của cán bộ Lào, đồng thời đề
phòng chiến sự lan rộng. Trong trường hợp bị chia cắt, từng khu có thể đảm bảo độc lập tác
chiến; đồng thời giúp bạn triển khai các mặt công tác chuẩn bị chiến trường, củng cố cơ sở ở
các địa phương tạo địa bàn vững chắc, ngăn chặn địch tấn công. Nhờ đó, lực lượng Pathết Lào
không chỉ đẩy lùi các đợt tấn công lấn chiếm của quân đội Vương quốc Lào, mà còn mở trận
đánh lớn thu thắng lợi, diệt được nhiều địch và mở rộng vùng giải phóng, làm nức lòng nhân
dân hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ.
Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất, Việt Nam đã nhận đào tạo 330
cán bộ của Pa Thết Lào, nhằm chuẩn bị lực lượng cho phong trào cách mạng cả nước. Bức
thư của Ban chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẳng định: “Trong kháng chiến cũng như trong đấu tranh
thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước, cách mạng Lào luôn được sự giúp đỡ tận tình của
cách mạng Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam. Sỡ dĩ cách mạng Lào giành được thắng lợi
to lớn đó...cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách mạng”.
Mặc dù Chính phủ liên hiệp với mục tiêu đem lại hòa bình cho nước Lào đã được thành
lập nhưng đế quốc Mỹ và tay sai vẫn ra sức thi hành chính sách khủng bố đối với cán bộ cách
mạng và những người có tư tưởng hòa bình, tiến bộ. Nhiều cán bộ và thường dân Lào ở các
tỉnh biên giới chạy sang Việt Nam lánh nạn. Để tạo điều kiện giúp cách mạng Lào, ngày 1312-1958, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra Chỉ thị 120-CT/TW, nêu
rõ: Hết lòng giúp đỡ cho số cán bộ và thường dân Lào vì tránh khủng bố mà chạy sang biên
giới ta về mọi mặt tinh thần, vật chất theo khả năng của ta. Nhận thức rõ nhiệm vụ quan trọng
này, tại Quảng Trị, khi Tỉnh ủy Savẳnnakhệt phải sang đóng ở A Vao (Hướng Hoá), bạn được
Tỉnh ủy Quảng Trị, nhân dân các dân tộc Hướng Hoá bảo vệ, cung cấp lương thực, thực phẩm
suốt trong thời gian lực lượng Pathet Lào bị bọn phản động Phu Mi và Cà Tày (thân Mỹ) trở
mặt phá bỏ Hiệp định Giơnevơ, truy lùng, khủng bố. Quảng Trị đã trở thành căn cứ địa, hậu
phương vững chắc của tỉnh bạn. Ở Thái Nguyên, trong lúc tình hình kinh tế còn rất nhiều khó
khăn, nhưng cán bộ, học sinh Lào ở đây vẫn được cung cấp đủ tiêu chuẩn phụ cấp. Những
việc làm tình nghĩa này càng làm cho quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa hai Đảng,
hai dân tộc thêm keo sơn, gắn bó.
Về quân sự, Việt Nam không chỉ sát cánh bên bạn trong thời kỳ đầu củng cố, phát triển
lực lượng, xây dựng hậu cứ, cung cấp vũ khí, quân trang mà còn phối hợp với bộ đội PaThết
Lào đánh địch giành thắng lợi oanh liệt. Từ ngày 18- 8 đến 15-9-1959, một số đơn vị quân
tình nguyện Việt Nam phối hợp với các đơn vị PaThết Lào mở đợt hai hoạt động trong mùa
mưa. Trong đợt hoạt động này, quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đội
nhân dân Việt Nam, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực lượng quân
khu 4 tác chiến ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Liên huyện 90 và Khăm Muộn) đã vận dụng nhiều
hình thức tác chiến linh hoạt như phục kích, tập kích, bao vây, bắn tỉa, địch vận, phá hoại cầu
đường, đốt kho tàng địch, đánh cứ điểm bằng đặc công kết hợp hoả lực...Đi đôi với tác chiến,
các đơn vị tình nguyện Việt Nam đã tích cực giúp Lào củng cố cơ sở, phát động nhân dân ủng
hộ kháng chiến, tham gia các lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ vùng mới giải phóng.
- Xem thêm -