Bài dự thi em yêu lịch sử xứ thanh - vua xứ thanh thần xứ nghệ, thanh hóa phải trở thành một tỉnh kiểu mẫu
II
......
:
:
:
:
- 2017
1
Câu 1: : ội
uồ
Vu xứ
,
ầ xứ
ệ
Xuất phát từ câu nói của sứ giả Nguyễn Thư Hiên chép ở sách Dư địa chí do
Nguyễn Trãi biên soạn có lời của Nguyễn Thiên Túng liên quan đến 4 xứ:
“Nguyễn Như Hiên nói” Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ, nước Hưng Thái, ma Cao
Lạng đều rất đáng sợ”. Câu nói có liên quan đến hai xứ Thanh và Nghệ, là mảnh
đất sản sinh ra những con người, vua chúa, quan thần của đất nước. Xứ Thanh xưa
mà nay là Thanh Hóa là nơi kinh đô của đất nước, nơi có nhiều vua, chúa nhất
nước.
Là con người xứ Thanh chúng em rất hãnh diện và tự hào về cội nguồn dân
tộc của mình. Vị vua mà em thích và tìm hiểu nhiều nhất là vua Lê Lợi
2
"Bình Ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi thảo là một thiên anh hùng ca tuyệt vời,
bất hủ, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống quật cường, bất khuất của dân
tộc ta.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lời bàn: "Lê Thái Tổ từ khi lên ngôi
đến khi mất, thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ
nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập
sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang
cơ nghiệp..."
Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng Tám năm Quý Sửu - 1433, hưởng thọ
49 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, Thanh Hoá, trị vì được 5 năm.
3
27/6/2011 - Di tích Thành nhà Hồ được công nhận là Di sản Văn hóa thế
giới
Như vậy, sau 6 năm (2006 - 2011) xây dựng hồ sơ và đệ trình UNESCO,
Thành nhà Hồ đã chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hoá của
nhân loại.
Thành nhà Hồ được đặt móng xây dựng vào năm 1397. Đây là công trình
kiến trúc đồ sộ được xây dựng bằng đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Trong lòng
đất của Khu di tích còn lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và nghệ
thuật trang trí, các làng cổ cùng toàn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang đậm
chất phong thủy điển hình. Di sản thành nhà Hồ thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa
Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á.
iề
ui,
ữ
i
ắ
ạ
ú đã ỡ o !
Di sản Văn hoá Thành Nhà Hồ bao gồm vùng đề cử 155,5ha nằm trong một
vùng đệm (5078,5ha) với giá trị cảnh quan tuyệt đẹp của một vùng kinh đô cổ,
được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới với những giá trị nổi bật và
tiêu chí sau:
4
i u
Khu di sản Thành Nhà Hồ là trung tâm kinh thành của Việt Nam vào cuối
thể kỷ 14 - đầu thế kỷ 15, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực Bắc
Trung Bộ Việt Nam từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Các thuộc tính chứng minh cho
nét đặc sắc mang tầm vóc giá trị nổi bật toàn cầu của nó bao gồm tòa thành đá
được xây dựng bằng kỹ thuật đá lớn, La thành, Nam Giao, các tầng văn hóa nối
tiếp nhau trong lòng đất lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và
nghệ thuật trang trí, các làng cổ cùng toàn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang
đậm chất phong thủy điển hình còn lưu giữ được tương đối nguyên vẹn phản ánh
rõ nét về một thời kỳ lịch sử văn hóa, văn minh Việt Nam với các đặc trưng mang
tầm vóc khu vực và quốc tế.
Tiêu chí II
Khu di sản Thành Nhà Hồ là biểu hiện rõ rệt những sự giao thoa trao đổi quan
trọng các giá trị nhân văn giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Á,
Đông Nam Á liên quan đến sự phát triển của kiến trúc, quy hoạch…và cảnh quan
khu vực vào cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ 15. Đó là việc tiếp thu các tư tưởng hướng
tích cực của Nho Giáo thực hành (Trung Quốc) kết hợp với các đặc điểm của văn
hóa Việt Nam và khu vực được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam nhằm đưa đất nước đạt tới các thành tựu mới văn minh hơn, tích
cực hơn, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người dân, đáp ứng các yêu cầu đổi mới
cấp bách của Việt Nam và góp phần thúc đẩy các trào lưu tư tưởng nhân văn tích
cực ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Tất cả được thể hiện nổi trội và duy nhất
thấy ở Thành Nhà Hồ trên các phương tiện thiết kế cảnh quan đô thị, kiến trúc
Thành đá, kỹ thuật xây dựng đá lớn và các ảnh hưởng tác động lẫn nhau nhiều
chiều của khu di sản tới kỹ thuật xây dựng thành quách sau đó ở khu vực Đông Á
và Đông Nam Á.
Tiêu chí IV
Khu di sản cũng là ví dụ nổi bật về một loại công trình kiến trúc được xây dựng
bằng đá lớn vừa là một kiểu kiến trúc Hoàng thành biểu tượng cho quyền lực
Hoàng gia tiêu biểu dưới tác động của giao thoa các giá trị nhân văn ở phương
Đông, vừa là một pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm. Kỹ thuật xây
5
dựng đá lớn độc đáo, duy nhất của Việt Nam được thấy ở đây đã được kết hợp
một cách sáng tạo, tài tình với truyền thống kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng ở
Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á với một hệ thống thao tác kỹ thuật thủ công
liên hoàn như khai thác đá, gia công đá, vận chuyển các khối đá nặng từ 10 tấn
đến 26 tấn, xử lý móng nền đá, nâng các khối đá lớn lên độ cao trên 10m vừa đảm
bảo được công năng kiến trúc vừa đáp ứng yêu cầu mỹ thuật cần thiết của một đô
thành. Kỹ thuật xây dựng thành công các bức tường thành bằng đá lớn đã phát huy
ảnh hưởng của nó tới kỹ thuật xây dựng nhiều tòa thành sau đó ở khu vực, nhưng
kỳ vĩ nhất, đặc sắc nhất chỉ có Thành Nhà Hồ vốn được xem như một hiện tượng
đột khởi “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử xây dựng kiến trúc thành quách Việt
Nam và khu vực.
Khu di sản đáp ứng các yêu cầu về tính toàn vẹn, tính xác thực được nêu
trong hướng dẫn hoạt động thực hiện Công ước Di sản Thế giới.
Khu di sản với vùng lõi và vùng đệm tổng cộng 5.234 hécta bao gồm toàn bộ tòa
Thành đá, La thành, hào thành, các di tích khảo cổ dưới lòng đất, các làng cổ, các
di tích chùa đền, hang động liên quan đến Thành Nhà Hồ, toàn bộ cảnh quan núi
non, sông nước liên quan đến địa hình phong thủy thể hiện sự giao lưu văn hóa về
nét đặc sắc của tòa thành được bảo tồn toàn vẹn một cách tốt nhất theo Luật pháp
của Nhà nước Việt Nam và các quy định của UBND tỉnh Thanh Hóa. Đó cũng là
những bằng chứng xác thực nhất minh chứng về sự tồn tại của một thời kỳ văn
minh Việt Nam dưới ảnh hưởng tác động của các tư tưởng nhân văn tích cực
phương Đông nhằm đổi mới đất nước Việt Nam cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ 15.
Toàn bộ khu di sản được bảo tồn toàn vẹn theo quy định của UBND tỉnh
Thanh Hóa và Luật pháp của Nhà nước Việt Nam.
6
âu 3:
uyề
ố
ù
bấ k uấ
ố
iặ
oại xâ
ủ
o
i xứ
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa là tỉnh
đất rộng, người đông, cùng với 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp thành hậu phương
Thanh – Nghệ - Tĩnh, trong đó Thanh Hóa là tỉnh địa đầu của miền Trung, là hậu
phương trực tiếp của chiến trường Liên khu III, Bắc Bộ và Tây Bắc.
Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang năm thứ 8.
Cục diện chiến trường Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng. Tại chiến
trường Bắc Bộ, Tây Bắc, quân và dân ta mở nhiều chiến dịch lớn. Mọi nhu cầu
bảo đảm cho cuộc kháng chiến đòi hỏi rất lớn ở hậu phương.
Những tháng cuối năm 1953, hậu phương Thanh Hóa vừa phải ra sức đẩy
mạnh mọi mặt công tác xây dựng và bảo vệ hậu phương, vừa tích cực động viên
sức người, sức của cho tiền tuyến đánh thắng. Chiến dịch nối tiếp chiến dịch, từ
năm 1951-1953, quân và dân Thanh Hóa liên tiếp bổ sung lực lượng, phục vụ 5
chiến dịch lớn: Trung Du, Quang Trung, Hòa Bình, Tây Bắc và Thượng Lào. Đặc
biệt chiến dịch Thượng Lào tháng 5-1953, Thanh Hóa bảo đảm tới 76% nhu
cầu của cả chiến dịch.
Thực hiện nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 - 1954, ngày 6-12-1953, Bộ
Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
thị: “Chiến dịch này là chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả
về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân phải tập trung hoàn thành cho kỳ được” (Chỉ thị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tháng 12 -1953). Quyết
tâm chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt toàn bộ quân địch ở
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã trở thành ý chí, hành động cụ thể của quân và
dân ta.
Thực hiện kế hoạch của Bộ Chính trị, các binh đoàn chủ lực của ta lần lượt
rời hậu phương Thanh Hóa để dồn sức cho chiến dịch. Các Đại đoàn 304, 320,
316 và một số trung đoàn của bộ đang đứng chân tác chiến bảo vệ Thanh Hóa và
vùng tự do Liên khu III lần lượt hành quân lên Tây Bắc, sang Lào chuẩn bị cho
7
chiến dịch Điện Biên Phủ. Bảo vệ Thanh Hóa lúc này do lực lượng vũ trang trong
tỉnh đảm nhiệm.
Từ trung tuần năm 1953 đến đầu năm 1954, khi biết quân và dân ta đang
chuẩn bị mở các chiến dịch lớn tại Lai Châu, Tây Bắc, Thượng Lào và đang ráo
riết tập trung cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực dân Pháp vừa tăng cường đối
phó với ta ở chiến trường Tây Bắc, vừa cho máy bay, tàu chiến bắn phá, càn quét
dữ dội vào Thanh Hóa nhằm buộc ta chi phối lực lượng và chia cắt hậu phương
Thanh – Nghệ - Tĩnh với chiến trường chính Tây Bắc và Lào. Ngày 15 và 16-101953, Na-va mở cuộc hành binh Hải Âu đánh ra Tây Nam Ninh Bình và cuộc
hành binh “con bồ nông” đánh vào vùng biển Thanh Hóa. 6 tháng cuối năm 1953
và những tháng đầu năm 1954, thực dân Pháp cho quân đổ bộ, càn quét hơn 10 lần
vào các huyện Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Quảng Xương và Tĩnh Gia. Trận
càn ít nhất là 100 tên, nhiều nhất là hơn 3.000 tên.
Để phân tán lực lượng của địch hỗ trợ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực
hiện chia lửa với chiến trường Bắc Bộ, Tây Bắc, quân, dân Thanh Hóa tổ chức
những trận tập kích vào các đồn bốt ở Chính Đại, Mai An Tiêm, Vân Hải thuộc
các xã phía bắc huyện Nga Sơn để kìm chân địch không để chúng ra ứng cứu cho
chiến trường Bắc Bộ và Tây Bắc. Tại các huyện Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh
Gia, các đại đội bộ đội địa phương đã cùng dân quân du kích tổ chức lực lượng
chống càn quét bảo vệ địa phương.
Đầu tháng 12-1953, công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được
tiến hành ráo riết. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa một mặt phải tổ chức chiến đấu
bảo vệ địa phương, mặt khác phải tích cực chi viện cho chiến trường thực hiện
khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Công tác tuyển quân
không chỉ một năm 1 đợt, 2 đợt mà có năm lên tới 3, 4 đợt, lúc nào tiền tuyến cần,
lúc đó có hậu phương chi viện. Năm 1953 và 6 tháng đầu năm 1954, Thanh Hóa
có 18.890 thanh niên nhập ngũ, bằng quân số nhập ngũ 7 năm về trước (19461953).
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua quyết tâm mở
chiến dịch Điện Biên Phủ và cũng bắt đầu huy động lực lượng dồn sức cho Điện
Biên Phủ. Đáp ứng cho chiến dịch, Thanh Hóa đã nhanh chóng củng cố nâng cao
8
chất lượng lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng bộ đội địa phương để kịp thời chi
viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đã bổ
sung nhiều đơn vị ra chiến trường như Tiểu đoàn 275 bộ đội địa phương tỉnh cho
Trung đoàn 53, các Đại đội 150, 160 cho Tiểu đoàn 541 phòng không, 2 trung đội
trinh sát cho Đại đoàn 304. Ngoài ra Thanh Hóa còn điều động hàng ngàn cán bộ,
chiến sĩ của Đại đội 128 bộ đội huyện Bá Thước, 112 bộ đội huyện Tĩnh Gia, các
đơn vị của Hoằng Hóa, Hà Trung, Quảng Xương, Thạch Thành cho các đơn vị
tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ.
Ngày 13-3-1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt cứ điểm Him Lam và
Độc Lập, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, tại Nga Sơn, quân và dân
Thanh Hóa ra sức đẩy mạnh tiến công quân sự để kìm chân địch, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch. Mặt khác các tổ dân vận, địch vận vẫn tăng cường tuyên truyền
hoạt động khuyếch trương chiến thắng của ta trên chiến trường Điện Biên, làm
lung lay tinh thần và làm tan rã hàng ngũ địch.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tin chiến thắng nhanh chóng đến với
quân và dân Thanh Hóa, lực lượng vũ trang tỉnh tích cực khuyếch trương chiến
thắng, các tổ dân vận, địch vận đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta nói rõ âm mưu thủ đoạn của địch, kêu
gọi binh lính địch đóng tại các đồn Điền Hộ, Mai An Tiêm hạ vũ khí đầu hàng.
Đồng thời, các đại đội bộ đội địa phương tổ chức các đợt tấn công truy quét, buộc
địch phải đầu hàng.
Thất bại trên chiến trường chính Điện Biên Phủ, buộc địch phải rút khỏi
Nga Sơn, bị tiêu diệt nặng trong các trận càn quét vào bờ biển phía nam Thanh
Hóa, âm mưu phá hậu phương Thanh Hóa bị thất bại hoàn toàn. Ngày 7-8-1954,
thực dân Pháp phải rút khỏi đảo Hòn Mê, chấm dứt sự có mặt của quân Pháp ở
Thanh Hóa.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng,
quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một số lượng lớn sinh lực địch và
phương tiện chiến tranh, giải phóng vùng đất đai có ý nghĩa chiến lược. Chiến
thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân
9
Pháp, xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh
ngoại giao của ta đi tới kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã trở thành
niềm tự hào của dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân
thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là nguồn cổ vũ, động viên quân và dân Thanh
Hóa chiến đấu bảo vệ địa phương, dồn sức chi viện cho chiến trường. Trong chiến
dịch, Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò hậu phương chiến lược quan trọng của Điện
Biên Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1 tiểu đoàn, 2 đại đội, 2
trung đội và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu. Tinh thần xả
thân chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thanh Hóa
trên mặt trận là biểu tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Kết
thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa có 5 đồng chí
được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân đó là: Anh hùng liệt sĩ Trần Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia; anh hùng
liệt sĩ Lê Công Khai, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh hùng liệt sĩ Trương
Công Man, xã Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò Văn Bường, xã Xuân
Lẹ, huyện Thường Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện, Tiểu đội
trưởng Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367, quê xã Nông
Trường, huyện Nông Cống đã lấy thân mình cứu pháo không để rơi xuống vực
thẳm. Âm vang Điện Biên Phủ đã lan tỏa trên các mạch sống của nhân dân Thanh
Hóa nói chung và lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói riêng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo nên nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ
trang Thanh Hóa cùng quân và dân cả nước tiếp tục chiến thắng đế quốc Mỹ xâm
lược, vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Quân và dân Thanh Hóa mãi mãi xứng đáng với lời biểu dương khen ngợi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Người về thăm năm 1957: “Bây giờ tiếng Việt Nam
đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào
Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.
10
âu :
bộ
Tại Thanh Hóa, từ năm 1858 đến trước năm 1930, có rất nhiều cuộc khởi
nghĩa chống Pháp dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời
theo nhiều khuynh hướng khác nhau, tiêu biểu là các phong trào: Cần Vương,
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, khởi nghĩa nông dân của Hoàng Hoa Thám,
khởi nghĩa Ba Đình... Các phong trào đấu tranh vô cùng anh dũng nhưng đều
không thành công và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn
tới thất bại của các phong trào đấu tranh đó là những người yêu nước đương thời
chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn.
Giữa lúc cách mạng cả nước nói chung, Thanh Hóa nói riêng đang chìm
trong khủng hoảng về đường lối thì lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Người con ưu tú
của dân tộc Việt Nam đã tìm ra con đường cứu nước mới đó là con đường cách
mạng vô sản, Người đã dày công chuẩn bị tư tưởng, tổ chức để thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong đêm trường nô lệ, nhiều thanh niên yêu nước Thanh Hóa đã ra tỉnh
ngoài, nước ngoài tìm đường giải phóng quê hương, đất nước, tiêu biểu là Lê Hữu
Lập, Lê Mạnh Trinh, Đinh Chương Dương... Lê Hữu Lập sang Trung Quốc tham
gia lớp lý luận cách mạng đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giảng dạy và được
kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội (Việt Nam
cách mạng thanh niên), được phân công về nước tuyên truyền tổ chức cách mạng.
Lê Hữu Lập về Thanh Hóa tháng 5-1926, tổ chức Hội đọc sách báo cách mạng ở
TP Thanh Hóa sau đó phát triển ra các huyện trong tỉnh. Trên cơ sở đó, tháng 41927, thành lập tổ chức “Việt Nam cách mạng thanh niên” tỉnh Thanh Hóa. Đồng
chí Lê Hữu Lập làm Bí thư.
Ảnh hưởng đường lối chính trị của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí Hội, phái trẻ trong Đảng “Phục Việt” tách ra thành lập Đảng “Tân Việt” và
hoạt động theo khuynh hướng cộng sản, do Nguyễn Xuân Thúy làm Bí thư.
Hoạt động của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội và
Đảng Tân Việt (hai tổ chức tiền thân của Đảng) đặt nền tảng về tư tưởng và tổ
chức cho Đảng bộ Thanh Hóa ra đời.
11
Ngày 29-7-1930, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Nguyễn
Doãn Chấp đã tổ chức hội nghị đảng viên của ba chi bộ cộng sản đầu tiên (chi bộ
Hàm Hạ, chi bộ Thiệu Hóa, chi bộ Thọ Xuân) tuyên bố thành lập Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa (đảng viên là quần chúng ưu tú lựa chọn trong tổ chức Thanh Niên).
Hội nghị định ra phương hướng nhiệm vụ trước mắt và bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh gồm 3 đồng chí do đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư. Sau khi ra đời Đảng
bộ tổ chức cơ quan ấn loát tài liệu, in ấn phát hành tờ báo “Tiến lên”, truyền đơn
cộng sản phát triển cơ sở đảng và các tổ chức Nông hội đỏ, Công hội đỏ, tổ chức
phong trào đấu tranh chống thuế ở một số địa phương trong tỉnh.
12
âu :
u
ib
ủ
Suốt 65 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa luôn
canh cánh trong lòng lời dạy và cũng là mong muốn của Bác là xây dựng Thanh
Hóa thành tỉnh kiểu mẫu. Tuy chưa được như mong muốn, song nhờ quyết tâm
phấn đấu để đền đáp công ơn trời biển của Bác, Thanh Hóa đã có những bước
phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực.
Sinh thời, Bác Hồ đã nhiều lần về thăm Thanh Hóa, Bác cũng dành nhiều
tình cảm động viên kịp thời Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa qua những lần ký
sắc lệnh tặng các phần thưởng cao quý, gửi thư khen, gửi tặng huy hiệu của
Người, hay qua những bài báo viết về những điển hình ở Thanh Hóa... Đáp lại
tình cảm sâu đậm của Bác, cả trong kháng chiến và xây dựng đất nước, từng địa
phương, từng đơn vị trên địa bàn tỉnh đã luôn nỗ lực thi đua theo lời Bác dạy.
Trong những năm tháng chiến tranh, nức tiếng không chỉ ở Thanh Hóa mà còn
được cả nước biết đến và học tập như: Nhân dân xã Đông Anh, Đông Sơn giúp
bộ đội địa phương nhiều nhất; huyện Vĩnh Lộc xóa xong nạn mù chữ trước thời
hạn quy định và sớm nhất trong các huyện miền Bắc; kinh nghiệm chăn nuôi,
cải tiến nông cụ của các xã Đại Phong, Xuân Lai, Quảng Hải; Hợp tác xã Đông
Phương Hồng xây dựng tốt hợp tác xã, đạt năng suất lúa cả năm trên 6,5 tấn/ha,
13
Hợp tác xã cơ khí Thành Công… Rồi tấm gương các cụ lão dân quân xã
Hoằng Trường (huyện Hoằng Hóa) mặc dù tuổi cao nhưng vẫn kiên cường bắn rơi
máy bay địch bằng súng bộ binh; Chị em trong đội dân quân gái các xã ven biển
huyện Hậu Lộc anh dũng bám trận địa bắn rơi nhiều máy bay địch; Quân dân Nam
Ngạn - Hàm Rồng đã không tiếc máu xương ngày đêm đảm bảo huyết mạch giao
thông để góp phần làm nên thắng lợi vẻ vang của cả dân tộc…
Bước vào thời kỳ đổi mới, mảnh đất Thanh lại có thêm những điểm sáng,
những lá cờ đầu, những đơn vị, những huyện kiểu mẫu trên mặt trận phát triển
kinh tế - xã hội. Tiêu biểu như Yên Định - huyện anh hùng đầu tiên trong thời kỳ
đổi mới, là địa phương đã mạnh dạn đi đầu với những mô hình thiết thực, hiệu quả
đã đem lại cuộc sống ấm no cho nông dân. Nhiều mô hình ở Yên Định đã và đang
được nhân rộng như: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ nâng cao giá trị sản
xuất, cơ giới hóa nông nghiệp, dồn điền đổi thửa, huy động nguồn lực từ nhân dân
để xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu… Hiện nay, Yên Định đang là địa phương dẫn
đầu toàn tỉnh trong xây dựng nông thôn mới với 26/27 xã đều đạt từ 9 tiêu chí trở
lên, trong đó có 4 xã đạt 13 tiêu chí… Hay như Công ty cổ phần Mía đường Lam
Sơn - một doanh nghiệp hàng đầu của ngành mía đường Việt Nam, mô hình liên
kết giữa nông dân - doanh nghiệp đạt nhiều hiệu quả và bền vững. Nơi đây đang
tạo công ăn việc làm ổn định cho trên 30.000 lao động. Với tinh thần đoàn kết
vượt qua mọi khó khăn, từ một tỉnh nghèo, hiện nay Thanh Hóa trở thành tỉnh có
nền kinh tế phát triển ổn định, cơ sở hạ tầng bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu
hiện đại hóa. Tỉnh đã gia nhập câu lạc bộ các tỉnh đạt 1,5 triệu tấn lương thực trở
lên và thu ngân sách hàng ngàn tỷ đồng. Đời sống của người dân ngày càng được
cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm. An ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã
hội được giữ vững. Đặc biệt, nền công nghiệp của Thanh Hóa đang trên đà phát
triển mạnh, xếp thứ 13 trong cả nước, đây là bước đệm vững chắc để Thanh Hóa
cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020...
14
Quyế â
xây d
ở
kiểu
ẫu
TW 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
Xuyên suốt trong công tác lãnh chỉ đạo của tỉnh ủy là phải xây dựng cho được con
người kiểu mẫu, nhất là những cán bộ, đảng viên, những người giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý ở các cấp. Chính họ là hạt nhân để xây dựng phong trào, đưa tập thể
phát triển và sớm thành những mô hình kiểu mẫu. Tỉnh cũng sẽ ban hành những
chính sách phù hợp nhằm phát huy dân chủ, huy động mọi nguồn lực trong nhân
dân để phát triển về mọi mặt...".
15
- Xem thêm -