Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ áp dụng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong luật quốc tế với...

Tài liệu áp dụng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong luật quốc tế với việc giải quyết tranh chấp trên biển đông

.PDF
110
932
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THI ̣MINH HẠNH ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HOÀ BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRONG LUẬT QUỐC TẾ VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THI ̣MINH HẠNH ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HOÀ BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRONG LUẬT QUỐC TẾ VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÁ DIẾN HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Thị Minh Hạnh MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài: ........................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu: ............................................................................ 3 3. Mục đích nghiên cứu: ............................................................................. 3 4. Phạm vi nghiên cứu: ............................................................................... 4 5. Tính mới và những đóng góp của đề tài: .............................................. 4 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: ...................................................................... 4 7. Ngoài phấn mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm ba chƣơng: ......................................................... 5 Chƣơng I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ ................................................... 6 1.1 Sơ lƣợc về giải quyết tranh chấp quốc tế ............................................ 6 1.1.1. Khái quát chung về tranh chấp quốc tế ........................................... 6 1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp quốc tế cơ bản xuyên suốt trong luật quốc tế ....................................................................................... 7 1.2. Khái niệm Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế.... 12 1.2.1 Khái niệm, đặc điểm Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế ..................................................................................................... 12 1.2.2. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong luật quốc tế .............................................................................................................. 14 1.3. Ý nghĩa, vai trò của Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế......................................................................................................... 16 1.3.1. Ý nghĩa, vai trò .............................................................................. 16 1.3.2. Khái lược lịch sử hình thành và phát triển của Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế .................................................................. 17 1.3.3. Mối quan hệ giữa Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế và các nguyên tắc cơ bản khác của Luật quốc tế........................ 19 1.3.4. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trên Biển Đông, lập trường của Việt Nam hiện nay .......................................................... 21 1.4. Cơ sở pháp lý của Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế .................................................................................................................. 25 Chƣơng II: ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN ĐÔNG....................................... 36 2.1. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua các tổ chức quốc tế ............................................................................. 36 2.1.1. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế ở Liên hợp quốc .................................................................................................. 36 2.1.2. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế tại các tổ chức quốc tế khu vực, tổ chức quốc tế khác ....................................... 38 2.2. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trên Biển Đông tại các thiết chế tài phán quốc tế........................................... 40 2.2.1. Trọng tài quốc tế ........................................................................... 40 2.2.2. Tòa án Công lý Quốc tế ................................................................ 43 2.3. Cơ chế áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp biển quốc tế trên Biển Đông và việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình nhằm đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trƣờng Sa. ............... 50 Chƣơng III : GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC CỦA VIỆC ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HOÀ BÌNH TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG .............................................................. 69 3.1. Xu hƣớng áp dụng nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế và trong tranh chấp trên Biển Đông ................................. 69 3.2. Giải pháp tăng cƣờng áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong tranh chấp Biển Đông ................................... 70 3.2.1. Hợp tác quốc tế đa lĩnh vực .......................................................... 70 3.2.2. Tăng cường vai trò của các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, liên khu vực .................................................................................................... 75 3.2.3. Hoàn thiện pháp luật quốc tế......................................................... 89 3.2.4. Một số kiến nghị trong giải quyết tranh chấp trên biển Đông đối với Việt Nam ........................................................................................... 94 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Biển ngày càng có vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người. Do tầm quan trọng của biển mà từ lâu những cuộc tranh chấp trên biển luôn diễn ra gay gắt. Cùng với sự thay đổi nhận thức của con người về tầm quan trọng của biển, thay đổi của các quy phạm pháp lý điều chỉnh các hoạt động trên biển, những vấn đề liên quan đến biển và cả việc giải quyết tranh chấp trên biển cũng hình thành và đang phát triển mạnh mẽ như một sự tất yếu. Việt Nam nằm cạnh biển Đông, một vùng biển có vị trí địa lý quan trọng, mang tầm chiến lược trong phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng. Tham vọng chiếm hữu biển Đông đã đưa vùng này trở thành “điểm nóng” về tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia. Bởi vậy, việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của luâ ̣t quố c tế để giải quyết tranh chấp, đặc biệt là áp dụng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trở nên có ý nghĩa trong việc hạn chế và hạ nhiệt các “điểm nóng” tranh chấp, nhằm duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới. “Hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế” là một nguyên tắc quan trọng trong luật quốc tế. Hơn thế nữa, ngày nay trong xu hướng hội nhập quốc tế, xu hướng toàn cầu hóa quốc tế nguyên tắc này trên tất thảy được các quốc gia và nhân loại tiến bộ thế giới hướng tới. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình được ghi nhận trong Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc được Đại Hội đồng thông qua theo Nghị quyết số 2625 năm 1970. Các nước thành viên Liên Hợp quốc đều tuân theo nguyên tắc này để giải quyết các bất đồng xung đột hay tranh chấp có tính chất quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tiễn có nhiều trường hợp việc áp dụng các biện pháp để giải 1 quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia chưa thực sự bình đẳng, chưa đạt được sự nhất trí vì không ít các trường hợp giải quyết tranh chấp bằng việc kí các Hiệp định ngừng bắn hoặc kí các Hiệp định hòa bình một phần do sự thu xếp từ những “thế lực quốc tế”. Ngày nay, trước xu hướng quốc tế hóa, hợp tác hóa giữa các quốc gia, tiềm ẩn nhiều nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp quốc tế gia tăng. Để đảm bảo được lợi ích của các bên tranh chấp nói riêng mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh quốc tế nói chung, thì việc áp du ̣ng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế cần được đưa vào sử dụng một cách hiệu quả nhất. Nghiên cứu việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế để giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông theo nhận định của cá nhân tôi, vấn đề còn mới và “khá nóng”; đặc biệt là trong vài năm gần đây khi cả Việt Nam và Phi-lip-pin đều bị những hành động đơn phương của Trung Quốc đe dọa sâu đến chủ quyền biển đảo quốc gia. Từ những sự kiện và xu hướng quốc tế trong vấn đề tranh chấp và giải quyết tranh chấp trên biển Đông, với mong muốn làm rõ hơn về Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế của luật quốc tế và việc áp dụng nguyên tắc với các tranh chấp trên Biển Đông, luận văn tập trung nghiên cứu đề tài của mình với những giá trị thực tiễn sau: - Đưa ra một cái nhìn khái quát về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế từ khi sơ khai hình thành cho đến nay, đã được chú ý và áp dụng ngày một rộng rãi. - Hệ thống hóa các phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và việc áp dụng các phương pháp đó trên thực tiễn. - Áp dụng nguyên tắc và các phương pháp hòa bình đối với vấn đề Biển Đông và giải quyết tranh chấp trên Biển Đông hiện nay. 2 - Phân tích tình hình thực tiễn để đưa ra lập trường của Việt Nam đối với việc hòa bình giải quyết tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là với vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở lập trường luật quốc tế hiện đại. - Đề cập đến một số giải pháp tăng cường sự đảm bảo quốc tế để thúc đẩy việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế; và một số kiến nghị đối với Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu: Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên Hợp quốc, chính thức tham gia Công ước Luật biển 1982. Cho đến nay, đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại, cũng như việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản vào thực tiễn giải quyết các tranh chấp quốc tế nói chung, các tranh chấp trên biển nói riêng. Tuy nhiên số lượng vẫn còn hạn chế và cũng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Bởi vấn đề biển Đông và tranh chấp trên Biển Đông thay đổi và diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường trước, đã trở thành “tâm điểm” không chỉ của các nước hữu quan liên quan mà còn của toàn thế giới. 3. Mục đích nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài luận văn, học viên hướng tới mong muốn làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế nói chung và áp dụng phương pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp trên biển Đông nói riêng. Qua đó, nhận xét, phân tích, hướng đến việc áp dụng trên thực tiễn nguyên tắc với Việt Nam trong vấn đề giải quyết tranh chấp trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hiện nay cũng như đưa ra một số giải pháp tăng cường sự đảm bảo quốc tế. 3 4. Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi, khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ, tác giả xin đề cập đến các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại; đi sâu phân tích về Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Phần liên hệ chủ quyền trên biển của Việt Nam và lập trường, tư tưởng kiên định hòa bình giải quyết tranh chấp trên biển của Việt Nam nhằm khẳng định chủ quyền và triển vọng giải quyết tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây chính là ý nghĩa liên hệ sâu xa mà luận văn hướng đến. 5. Tính mới và những đóng góp của đề tài: Việc nghiên cứu nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế nói chung và áp dụng hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế trên biển đã được nhiều học giả quan tâm, đã có nhiều nhà nghiên cứu, giảng viên các trường đại học, học viện đưa ra trong các luận văn nghiên cứu hay các tạp chí nghiên cứu pháp luật của quốc tế và Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đây được thực hiện dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu và hướng nghiên cứu về áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp trên Biển Đông của đề tài thì chưa nhiều nghiên cứu đề cập một cách tổng thể, toàn diện, cập nhật; bởi diễn biến mang tính thời sự và “điểm nóng” thay đổi theo thời gian của những tranh chấp, xung đột trên Biển Đông. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để làm rõ vấn đề trên, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Thu thập tài liệu để rà soát, phân tích, tham khảo thông tin. - Tổng hợp, kế thừa các nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả. 4 - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và đối chiếu tổng hợp để làm sáng rõ những vấn đề cần nghiên cứu. - Nghiên cứu trực tiếp các quy định của pháp luật Quốc tế; các quy định của pháp luật Việt Nam để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra cho luận văn. - Bên cạnh đó, đề tài cũng được nghiên cứu thông qua phương pháp phân tích, bình luận, tổng hợp, so sánh khi nghiên cứu một vấn đề cụ thể. 7. Ngoài phấn mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm ba chƣơng: Chương 1: Tổng quan lí luận về Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế. Chương 2: Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trên Biển Đông. Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu lực của việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế ở Biển Đông. Đây là một đề tài khó, rộng và phức tạp, trong khi kiến thức của tác giả còn hạn chế nên luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các thầy cô giúp đỡ, chỉ dạy để tác giả hoàn thiện thêm đề tài của mình. 5 Chƣơng I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ 1.1 Sơ lƣợc về giải quyết tranh chấp quốc tế 1.1.1. Khái quát chung về tranh chấp quốc tế Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về tranh chấp quốc tế trong các văn bản pháp lý. Theo Cuốn Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1992 giải thích về “tranh chấp” là đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa các bên. Theo quan niệm của Pháp viện Thường trực quốc tế - Cơ quan giải quyết tranh chấp của Hội Quốc liên (Tổ chức tiền thân của Liên Hợp Quốc) lại cho rằng: Tranh chấp là sự bất đồng về một quy phạm pháp luật hoặc một sự kiện nào đó giữa các chủ thể nhất định (trường hợp này là giữa các quốc gia) khi một trong các bên đưa ra yêu sách, đòi hỏi đối với bên kí nhưng bên đó không chấp nhận hoặc chỉ chấp nhận một phần. Theo Giáo trình Luật quốc tế của Ấn độ, Tiến sỹ S.K.Kapoor chủ biên tái xuất bản năm 1994 giải thích khái niệm về tranh chấp quốc tế: là sự tranh chấp giữa các quốc gia. Trường hợp có hành vi sai trái với một dân tộc hay với một quốc gia nào đó nhưng nếu Chính phủ của quốc gia đó không có hành động phản ứng lại thì cũng không được coi đó là tranh chấp quốc tế. - Sự tranh chấp phải xảy ra những hành vi cụ thể từ phía quốc gia gây sự. - Sự tranh chấp phải liên quan đến các đối tượng tranh chấp cụ thể của quốc gia bị hại.[31, tr.724]. Giáo trình Công pháp quốc tế của Mỹ năm 1990 có ghi: Việc giải quyết các tranh chấp quốc tế là việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia.[33] Căn cứ vào thực tiễn của pháp luật quốc tế hiện nay, có thể hiểu một cách chung nhất về tranh chấp quốc tế như sau: “Tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh 6 thực tế mà trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược nhau hoặc mâu thuẫn với nhau, và có những yêu cầu, hay đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau. Đó là sự không thỏa thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa đến sự mâu thuẫn, đối lập nhau về quan điểm pháp lý hoặc quyền giữa các bên chủ thể luật quốc tế với nhau”. Căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, có thể phân loại tranh chấp quốc tế như sau: - Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia: bao gồm tranh chấp song phương và tranh chấp đa phương. - Căn cứ vào tính chất của vụ tranh chấp: tranh chấp mang tính chất chính trị và tranh chấp có tính pháp lý. - Căn cứ vào đối tượng tranh chấp: tranh chấp về kinh tế về thực hiện nghĩa vụ thành viên về điều ước quốc tế hoặc tổ chức quốc tế… Như vậy, tranh chấp quốc tế có nhiều loại. Tuy nhiên, chúng ta cần quan tâm đến những tranh chấp quốc tế có tính chất nguy cơ ảnh hưởng đến hòa bình an ninh khu vực và thế giới. Các tranh chấp là mối đe dọa tới sự sống còn của nhân loại và bị luật quốc tế cấm. Tranh chấp quốc tế luôn được coi là vấn đề nhạy cảm đối với các quốc gia, đối với giới cầm quyền ở mỗi quốc gia. Bởi vậy, các tổ chức lớn tầm cỡ quốc tế “có tiếng nói” như Liên Hợp quốc cần tập hợp sức mạnh tổng hợp cũng như chú trọng tới việc dự liệu trước, đề xuất các quy định, các nguyên tắc trong luật pháp quốc tế để ngăn cản trước khi xảy ra, cũng như tìm giải pháp để chấm dứt các tranh chấp đã xảy ra. 1.1.2 Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp quốc tế cơ bản xuyên suốt trong luật quốc tế Các phương pháp bạo lực (chiến tranh) trong quan hệ quốc tế giữa các nước giai đoạn trước đây là phương pháp hay được đề cập. 7 Trước khi Hiệp ước Hòa bình Briand-Kellogg 1928 ra đời, trong quan hệ quốc tế việc dùng vũ lực hay chiến tranh được coi là biện pháp hợp pháp để giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia. Xâm lược một quốc gia độc lập chủ quyền hay xâm chiếm một bộ phận lãnh thổ của nước khác, luật quốc tế cổ điển gọi là “can thiệp – Intervention”. Khi đó, sẽ sử dụng lực lượng vũ trang đánh xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia khác và có thể hiểu là đánh chiếm và xóa bỏ một quốc gia.[27, tr.110] Sau khi Hiệp ước Hòa bình Briand-Kellogg 1928 và Hiến chương Liên hợp quốc ra đời, những chế định liên quan đến sử dụng vũ lực đã được thay đổi đáng kể và bị cấm trong luật quốc tế. Thời kì sau đó, trong luật quốc tế đã xuất hiện hai khái niệm về chiến tranh: chiến tranh chính nghĩa (just wars được luật pháp quốc tế cho phép và ủng hộ) và chiến tranh phi nghĩa (unjust wars - được coi là ngoài vòng pháp luật). Khi chiến tranh xảy ra giữa hai quốc gia, các bên thứ ba luôn muốn tránh tham gia chiến tranh với các bên và muốn giữ quan hệ với tất cả các bên tham chiến mà không nhất thiết cần đưa ra ý kiến xem chiến tranh nào là chính nghĩa.[29, tr.873-874] Trên thực tế, các quốc gia cùng tuân theo quy định của luật quốc tế về hòa bình nhưng nếu biết lợi ích quốc gia mình có nguy cơ bị đe dọa nghiêm trọng, họ sẽ nghĩ đến hành động sử dụng bạo lực hay nói cách khác là dùng chiến tranh để đảm bảo lợi ích của mình và thành lập những nguyên tắc mới cho những quan hệ quốc tế mới. Trong khoản 3, Điều 2, Hiến chương Liên Hợp quốc có quy định: “Tất cả các nước thành viên Liên Hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế và công lý”. Khoản 4, điều 2, của Hiến chương Liên Hợp quốc có ghi: “Tất cả các nước thành viên Liên Hợp quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực 8 trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất cứ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên Hợp quốc”. Như vậy, Hiến chương chỉ đề cập đến việc cấm đe dọa hay sử dụng vũ lực mà không đề cập cụ thể đến những khái niệm như “chiến tranh” hay “xâm lược”. Điều 51 Hiến chương Liên Hợp quốc lại ghi: “không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong trường hợp thành viên Liên Hợp quốc bị tấn công vũ trang…” Có thể hiểu rằng, nội dung điều 51 trên cho phép các nước thành viên Liên Hợp quốc được quyền tự vệ cá nhân hay tự vệ tập thể chính đáng nếu bị tấn công vũ trang. Trên thực tế, các quan hệ quốc tế cho thấy: pháp luật quốc tế hiện nay vừa cấm việc dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế lại vừa cho phép việc dùng vũ lực. Có những trường hợp luật quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc và cả Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc cho phép sử dụng một số biện pháp dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế hay để duy trì hòa bình an ninh quốc tế, như sau: - Tự vệ cá nhân và tự vệ tập thể; - Cấm vận, trả đũa dưới sự cho phép của Liên Hợp quốc; - Can thiệp (quân sự) vì mục đích nhân đạo; - Can thiệp (quân sự) vì mục đích khôi phục dân chủ; - Can thiệp (quân sự) vì mục đích khôi phục nhân quyền. Thời gian gần đây, lịch sử quan hệ quốc tế ghi nhận nhiều thành công của việc áp dụng các phương pháp hòa bình vào giải quyết tranh chấp quốc tế. Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc này gắn liền với sự hình thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn tiềm ẩn, phát sinh từ các 9 mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó là khi các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn xung đột hoặc không thống nhất được về quyền và lợi ích. Hệ thống Công ước Lahay năm 1899 và năm 1907 có Công ước về hòa bình giải quyết xung đột quốc tế, là công ước đa phương đầu tiên đề cập đến vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, Công ước mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra lời kêu gọi các quốc gia tự nguyện thực hiện các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng vũ lực. Trong quy chế Hội quốc liên có đưa ra quyền của các quốc gia dùng chiến tranh như là phương tiện giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên có đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia trong giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hoà bình nhưng quy định này không được đem ra giải quyết ở Tòa án hoặc đưa ra Hội đồng của Hội quốc liên với tính chất là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của mọi quốc gia. Và việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình chỉ được coi như một khả năng có thể xảy ra khi có tranh chấp mà thôi. Liên hợp quốc cùng với bản Hiến chương của mình lần đầu tiên đã nâng vấn đề giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế lên thành nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia; Khoản 3, điều 2 Hiến chương ghi nhận "Hội viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng phương pháp hòa bình, làm thế nào khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế cũng như đến công lý". Theo Công ước La-hay năm 1907, Định ước Hội Quốc liên, Tuyên bố Manila năm 1982; khoản 1, điều 33 Hiến chương Liên Hợp quốc và Tuyên bố của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc năm 1970 có thể tóm lược một số nhóm phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế sau: - Đàm phán ngoại giao trực tiếp; - Các biện pháp trung gian, hòa giải; 10 - Các biện pháp tư pháp (Tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế); - Giải quyết tranh chấp thông qua các tổ chức quốc tế hoặc trên cơ sở dàn xếp của các tổ chức khu vực; - Các phương pháp hòa bình khác mà các bên tự chọn. Điều 33 Hiến chương Liên Hợp quốc đã quy định cụ thể các biện pháp hòa bình mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn, đó là các con đường : "... đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức hoặc các hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác”. Như vậy, hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi quốc gia - thành viên của cộng đồng quốc tế. Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện pháp phù hợp nhất, sao cho mọi tranh chấp đều được giải quyết trên cơ sở của luật quốc tế và nguyên tắc công bằng. Thực tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là phương pháp thường xuyên được các quốc gia sử dụng để giải quyết khi có tranh chấp hoặc bất đồng với nhau. Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định rất nhiều biện pháp hòa bình, tạo điều kiện cho các chủ thể luật quốc tế lựa chọn khi giải quyết tranh chấp quốc tế mà xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của Luật quốc tế. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế cũng có những đặc điểm khác biệt so với luật quốc gia: thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế do các chủ thể luật quốc tế quyết định. Thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế từ trước tới nay thường vẫn áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp cơ bản sau: - Giải quyết trực tiếp tranh chấp; - Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba; -Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và các hiệp định khu vực; - Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán quốc tế. 11 1.2. Khái niệm Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế 1.2.1 Khái niệm, đặc điểm Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia bằng các biện pháp hòa bình là xu hướng tất yếu không thể phủ nhận và được tuyệt đại đa số các nước trên thế giới ủng hộ. Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia bằng các biện pháp hòa bình có thể hiểu là giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình (song phương hoặc đa phương) trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm đi tới một giải pháp công bằng cho tất cả các bên hoặc giải quyết các tranh chấp thông qua trung gian, hòa giải hoặc bằng các cơ chế tài phán quốc tế như Tòa án Công lý Quốc tế, Tòa án Quốc tế về Luật Biển và các tòa trọng tài khác… Thế nào là "tranh chấp quốc tế"? Luật quốc tế chưa có một định nghĩa chính xác về tranh chấp quốc tế được thừa nhận rộng rãi, nhưng đa số các tác giả đều cho rằng tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế và những bất đồng về các vấn đề cơ bản của quan hệ quốc tế. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến chương Liên hợp quốc và được khẳng định rõ hơn trong Tuyên bố năm 1970 "mỗi quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế của mình với các quốc gia khác bằng phương pháp hòa bình để không dẫn đến đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế và công bằng". Và các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế thường được viện dẫn trong hệ thống các cơ quan của Liên Hợp quốc. Về đặc điểm, các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế có bốn đặc điểm sau: Tính mệnh lệnh chung: tất cả các chủ thể đều phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế. Không một chủ thể hay nhóm chủ 12 thể nào của Luật Quốc tế có quyền hủy bỏ nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế. Bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để nguyên tắc cơ bản của LQT đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế. Các quy phạm điều ước và tập quán quốc tế có nội dung trái với các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế đều không có giá trị pháp lý. Ngoài ra, đối với các lĩnh vực xuất hiện các nguyên tắc chuyên biệt như: Luật Biển quốc tế, Luật hàng không dân dụng quốc tế... thì bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế, các bên còn phải chấp hành các nguyên tắc chuyên biệt trong từng lĩnh vực cụ thể. Về tính bao trùm: Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là chuẩn mực để xác định tính hợp pháp của toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Đồng thời chúng được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. Về tính hệ thống: Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, biểu hiện ở chỗ: việc tôn trọng hay phá vỡ nguyên tắc này sẽ làm ảnh hưởng đến nội dung và việc tuân thủ các nguyên tắc khác. Về tính thừa nhận rộng rãi: các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được áp dụng trong phạm vi toàn thế giới, đồng thời được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến Chương Liên Hợp quốc, Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế. Trong các đặc điểm trên, đặc điểm về tính mệnh lệnh chung là quan trọng nhất, đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế chi phối lại các nguyên tắc pháp luật chung và các nguyên tắc chuyên ngành. Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể Luật quốc tế. 13 1.2.2. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong luật quốc tế Việc sử dụng một số biện pháp hòa bình như: ngoại giao, đàm phán, trung gian, hòa giải… để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế đã được biết đến từ rất sớm. Nhưng ban đầu chưa có những quy phạm bắt buộc các quốc gia phải giải quyết tranh chấp bằng các phương pháp hòa bình, không được sử dụng vũ lực. Hệ thống Công ước Lahay năm 1899 và năm 1907 có Công ước về hòa bình giải quyết xung đột quốc tế, đây là văn kiện đa phương đầu tiên đề cập đến vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, Công ước này cũng chỉ đưa ra lời kêu gọi các quốc gia với khả năng có thể, ngăn ngừa việc dùng vũ lực, sử dụng tối đa các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng vũ khí. Trong quy chế của Hội quốc liên, ở một mức độ nhất định cũng đã xác định nghĩa vụ các quốc gia giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình dưới hình thức giải quyết ở Tòa án hoặc đưa ra Hội đồng của Hội quốc liên, nhưng vẫn không quy định giải quyết hòa bình tranh chấp là nghĩa vụ bắt buộc của mọi quốc gia thành viên cũng như không quy định cấm tiến hành chiến tranh. Tuy nhiên, Hiệp ước Paris năm 1928 về khước từ chiến tranh lại tuyên bố cấm chiến tranh xâm lược và nêu rõ trách nhiệm của các quốc gia chỉ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình. Điều 2 Hiệp ước khẳng định: các bên công nhận rằng việc điều chỉnh hoặc giải quyết mọi tranh chấp hoặc xung đột phát sinh với bất kỳ tính chất và nguyên nhân nào chỉ có thể bằng các phương pháp hòa bình. Năm 1945 với sự ra đời của Hiến chương Liên hợp quốc có nêu: “Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan