Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ áp dụng công ước nairobi vào hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại tại...

Tài liệu áp dụng công ước nairobi vào hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại tại cục hải quan tỉnh quảng ninh thực trạng và giải pháp

.DOC
89
413
137

Mô tả:

0 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ ---------***--------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Thuế và hải quan ÁP DỤNG CÔNG ƯỚC NAIROBI VÀO HOẠT ĐỘNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH QUẢNG NINH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Họ và tên sinh viên : Hoàng Mỹ Linh Mã sinh viên : 0851030010 Lớp : Anh 9 - Khối 4 KT Khóa : 47 Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. Nguyễn Hoàng Ánh 1 Hà Nội, tháng 5 năm 2012 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Hoàng Ánh đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận tốt nghiệp. Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại Học Ngoại thương Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức trong bốn năm học tập. Vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Cuối cùng, em chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh và các cô chú, anh chị công chức phòng Chống buôn lậu và xử lý vi phạm đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để em thực tập tại đơn vị. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 CHƯƠNG 1 VAI TRÒ CỦA CÔNG ƯỚC NAIROBI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI.......3 1.1. Khái quát chung về Công ước Nairobi........................................................3 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và lịch sử phát triển........................................................3 1.1.2. Nội dung Công ước Nairobi.......................................................................7 1.2. Vai trò của Công ước Nairobi đối với hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại trên thế giới..............................................................................12 1.2.1. Văn bản hướng dẫn chung cho hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại trên toàn thế giới..............................................................................12 1.2.2. Tăng cường huy động hợp tác quốc tế trong ngành hải quan..................12 1.2.3. Thiết lập một cơ chế chung cho các quốc gia thành viên trong việc trao đổi thông tin hải quan.........................................................................................12 1.2.4. Hỗ trợ hoạt động giám sát, điều tra và quá trình tố tụng tư pháp............13 1.2.5. Tạo môi trường thương mại quốc tế trong sạch, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế............................................................................................14 1.3. Thực trạng áp dụng Công ước Nairobi trong hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại trên thế giới................................................................14 1.3.1. Tình hình chung........................................................................................14 1.3.2. Nghiên cứu trường hợp của Hải quan Lithuania......................................16 1.3.3. Nghiên cứu trường hợp của Hải quan Nga...............................................19 1.3.4. Bài học kinh nghiệm cho Hải quan các nước trên thế giới......................22 CHƯƠNG 2 ÁP DỤNG CÔNG ƯỚC NAIROBI VÀO HOẠT ĐỘNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TẠI HẢI QUAN QUẢNG NINH ................................................................................................................................. 25 2.1. Tình hình áp dụng Công ước Nairobi của Hải quan Việt Nam...............25 2.1.1. Hợp tác đa phương....................................................................................25 2.1.2. Hợp tác song phương................................................................................26 2.2. Tình hình áp dụng Công ước Nairobi tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh..................................................................................................................... 28 2.2.1. Vài nét về Cục Hải quan Quảng Ninh......................................................28 2.2.2. Thực trạng áp dụng Công ước Nairobi tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh.....................................................................................................................41 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÔNG ƯỚC NAIROBI VÀO HOẠT ĐỘNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TẠI QUẢNG NINH..........................................................57 3.1. Đánh giá thực tiễn áp dụng Công ước Nairobi vào hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại ở Hải quan Quảng Ninh......................................57 3.1.1. Những thành quả đạt được........................................................................57 3.1.2. Những hạn chế tồn tại và khó khăn vướng mắc thực tế phát sinh...........59 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng Công ước Nairobi vào hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan Quảng Ninh........................................................................................................61 3.2.1. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại tại biên giới Việt – Trung..................................................61 3.2.2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh đối với công tác hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu trong tình hình mới..............................................................................62 3.2.3. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ năng lực, nghiệp vụ của cán bộ công chức Hải quan Quảng Ninh trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu.. 64 3.2.4. Tăng cường công tác nghiên cứu, thực hiện thống nhất pháp luật về Hải quan; đẩy mạnh thu thập thông tin, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát hải quan........................................................................................................66 3.2.5. Đổi mới hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật, vận động quần chúng tham gia đấu tranh phòng, chống buôn lậu...........................68 3.2.6. Tăng cường lực lượng kiểm soát tại các khu vực trọng điểm, đẩy mạnh đồng bộ các hình thức hoạt động đấu tranh phòng, chống buôn lậu.................70 3.2.7. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Hải quan với các cơ quan chức năng trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu qua biên giới Việt – Trung ở Quảng Ninh.........................................................................................................72 3.2.8. Tích cực tham mưu và tranh thủ sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và Tổng cục Hải quan đối với công tác đấu tranh chống buôn lậu...........73 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh................................75 3.3.1. Dự báo tình hình buôn lậu tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.........................................................................................................................75 3.3.2. Một số kiến nghị, đề xuất.........................................................................76 KẾT LUẬN............................................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................81 PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Kết quả một số mặt hàng trọng điểm bắt giữ trong 3 năm ( 2008 – 2010) .....................................................................................................................................40 Bảng 2.2. Số liệu chống buôn lậu hàng hóa xuất nhập khẩu năm của các cơ uan chức năng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.................................................................. 41 Bảng 2.3. Kết quả đấu tranh chống buôn lậu của Hải quan Quảng Ninh giai đoạn 2003 – 2005................................................................................................................45 Sơ đồ 2.1. Bộ máy tổ chức Cục hải quan tỉnh Quảng Ninh......................................31 1 LỜI MỞ ĐẦU Vào nửa cuối của thế kỉ XX, khi thương mại quốc tế ngày một phát triển thì bên cạnh những lợi ích to lớn thu được, nhiều quốc gia lại đứng trước mối lo lắng về sự gia tăng các vụ buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới cũng như các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Yêu cầu cấp thiết lúc bấy giờ là phải tìm ra một công cụ hợp tác quốc tế để hỗ trợ Hải quan các nước trong việc đấu tranh phòng chống các vi phạm hải quan này. Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan (Công ước Nairobi) được Hội đồng Hợp tác Hải quan thông qua năm 1977 nhằm đáp ứng yêu cầu đó. Việt Nam – một quốc gia đang phát triển cũng không nằm ngoài xu thế phát triển này. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO thì thực tế khách quan đòi hỏi Hải quan Việt Nam phải tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan các nước để nâng cao hiệu quả của hoạt động điều tra, ngăn ngừa và trấn áp các vi phạm hải quan, phát huy vai trò của lực lượng kiểm soát hải quan trong cuộc chiến chống buôn lậu và gian lận thương mại. Vì vậy, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định và thỏa thuận song phương, đa phương về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan với nhiều nước trên thế giới dựa trên khuôn khổ của Công ước Nairobi; trong đó quan trọng nhất phải kể đến hai thỏa thuận đã ký kết với Trung Quốc. Đối với hải quan các tỉnh biên giới Việt – Trung, hai thỏa thuận này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động hợp tác chống buôn lậu và gian lận thương mại. Quảng Ninh - tỉnh biên giới phía Đông Bắc của Tổ quốc, nơi có cả đường biên giới trên bộ và trên biển tiếp giáp với đất nước Trung Quốc chính là một trong những khu vực hoạt động buôn lậu qua biên giới Việt - Trung sôi động nhất. Điều này đồng nghĩa với việc Hải quan Quảng Ninh phải gánh trên vai một trách nhiệm năng nề trong cuộc chiến chống buôn lậu và gian lận thương mại. Trong bối cảnh đó, hoạt động hợp tác quốc tế với Hải quan Trung Quốc càng trở nên cấp thiết và quan trọng, bởi chỉ khi hoạt động hợp tác giữa hai bên được tăng cường và đi vào chiều sâu, đặc biệt là trên phương diện trao đổi thông tin tình báo và hỗ trợ điều tra 2 xác minh các vụ án thì các biện pháp nghiệp vụ phòng chống, ngăn ngừa vi phạm hải quan tại khu vực biên giới mới thực sự thu được hiệu quả. Trong những năm qua, Hải quan Việt Nam nói chung và Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã rất chú trọng vào công tác hợp tác quốc tế. Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác này còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Trên thực tế, hoạt động hợp tác giữa Hải quan tỉnh Quảng Ninh – Việt Nam và Hải quan Nam Ninh – Trung Quốc đã vấp phải những khó khăn trở ngại cần phải nghiên cứu làm rõ để có biện pháp giải quyết kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Chính vì vậy mà người viết đã lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp “Áp dụng Công ước Nairobi vào hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh – thực trạng và giải pháp” với hy vọng sẽ đưa ra một cái nhìn khách quan về hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan đối với hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại. Đề tài giúp làm rõ hơn những vấn đề lý luận của Công ước Nairobi – Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan và thực trạng áp dụng Công ước này vào hoạt động hợp tác quốc tế tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời, đề tài cũng đề xuất một số giải pháp, kiến nghị mang tính thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống buôn lậu qua biên giới Việt - Trung của Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. Khóa luận tốt nghiệp ngoài phần mở đầu và phần kết luận được bố cục thành ba chương lớn: Chương I. Vai trò của công ước Nairobi đối với hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại trên thế giới. Chương II. Áp dụng công ước Nairobi vào hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh. Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng Công ước Nairobi vào hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh. 3 CHƯƠNG 1 VAI TRÒ CỦA CÔNG ƯỚC NAIROBI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Khái quát chung về Công ước Nairobi. Công ước Nairobi được thông qua ngày 9 tháng 6 năm 1977 dưới sự bảo trợ của Hội đồng Hợp tác Hải quan (Customs Co-operation Council - CCC) nay là Tổ chức Hải quan Thế giới (World Customs Organization – WCO) và chính thức có hiệu lực từ ngày 21 tháng 5 năm 1980. Đây là Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan (International Convention on mutual administrative assistance for prevention, investigation and repression of Customs offences). Công ước này cho phép cơ quan hải quan của các nước thành viên trực tiếp hỗ trợ hành chính lẫn nhau (trao đổi thông tin, điều tra, trao đổi kinh nghiệm…) để thực thi đúng pháp luật hải quan qua điều tra, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm hải quan làm phương hại đến kinh tế, thương mại, tài chính và lợi ích của các quốc gia thành viên. 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và lịch sử phát triển. 1.1.1.1. Hoàn cảnh ra đời. Ngay từ khi mới thành lập, Hội đồng Hợp tác Hải quan (Customs Cooperation Council - CCC) đã luôn luôn tìm kiếm một công cụ hợp tác quốc tế để hỗ trợ hải quan các nước trong việc đấu tranh chống các vi phạm hải quan. Vì vậy trong nhiều năm liên tiếp, Hội đồng đã thông qua nhiều văn bản khác nhau quy định về hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan. - Ngày 5 tháng 12 năm 1953, Hội đồng thông qua khuyến nghị về hỗ trợ hành chính lẫn nhau giữa các quốc gia. - Ngày 28 tháng 6 năm 1954, Hội đồng thông qua một khuyến nghị về thu thập thông tin liên quan đến tội phạm hải quan thành một hệ thống, theo đó thông tin được lưu trữ bởi Ban thư ký Hội đồng. - Ngày 8 tháng 6 năm 1967, một khuyến nghị khác lại được Hội đồng thông qua nhằm mở rộng hệ thống thông tin này bằng việc cho phép thu thập thông tin 4 không chỉ liên quan đến những người bị kết án (tội phạm hải quan) mà còn cả những nơi che giấu phương tiện vận tải, các thủ đoạn buôn lậu, danh mục hàng hoá buôn lậu hoặc gian lận bằng cách giả mạo hoặc làm giả (tài liệu, con dấu hải quan…). - Năm 1967, Hội đồng đã thông qua nghị quyết mời các nước phát triển là thành viên của Hội đồng hỗ trợ lẫn nhau giữa cơ quan hải quan của họ với các cơ quan hải quan khác, dựa trên quan điểm phòng ngừa và phát hiện lưu lượng vận chuyển bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần. - Nghị quyết năm 1967 đã được bổ sung bởi khuyến nghị thông qua ngày 8 tháng 6 năm 1971 về tự do trao đổi thông tin liên quan đến lưu lượng vận chuyển bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần. - Ngày 22 tháng 5 năm 1975, Hội đồng đã mở rộng phạm vi khuyến nghị năm 1967 bằng một khuyến nghị mới về thu thập thông tin liên quan đến gian lận hải quan. Ngoài những tội phạm hải quan bị kết án, khuyến nghị này còn đề cập đến cả những người thuộc diện nghi ngờ có hành vi buôn lậu hoặc gian lận thương mại. - Ngày 16 tháng 6 năm 1976, Hội đồng thông qua một khuyến nghị về việc cấm và ngăn chặn việc nhập khẩu, xuất khẩu và chuyển giao quyền sở hữu tài sản văn hóa bất hợp pháp và đề nghị các nước thành viên nâng cao việc giúp đỡ về mặt hành chính nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động chống buôn lậu các tác phẩm nghệ thuật và cổ vật. Việc liên tục ban hành các văn bản pháp luật khác nhau cho thấy Hội đồng Hợp tác Hải quan ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động hợp tác quốc tế nhằm phòng chống gian lận hải quan, thông qua nhiều công cụ xử lý cụ thể hơn với nhiều loại hình buôn lậu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số quốc gia thành viên của Hội đồng vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc hỗ trợ hành chính lẫn nhau bởi các khuyến nghị này vẫn chưa phải là một phương tiện hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu của hoạt động quốc tế chống lại gian lận hải quan, vấn đề đang trở thành mối quan tâm lớn của nhiều các quốc gia. Vì lý do này, năm 1974, Hội đồng chỉ đạo Ban thường trực kỹ thuật chuẩn bị một bản dự thảo Công ước đa phương về hỗ trợ hành chính lẫn nhau, sao cho tính pháp lý đủ hiệu quả và ràng buộc, song vẫn phải thu hút được nhiều quốc gia tham gia. Cuối cùng, ngày 9 tháng 6 năm 1977, tại cuộc họp của Hội 5 đồng tại Nairobi (Kenya), Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra, trấn áp các vi phạm hải quan (hay còn gọi là Công ước Nairobi) đã được Hội đồng thông qua. Công ước này cho phép cơ quan hải quan của các nước thành viên cung cấp các hỗ trợ đặc biệt về hành chính dựa trên cơ sở yêu cầu lẫn nhau (trao đổi thông tin, điều tra, trao đổi kinh nghiệm…) để thực thi đúng pháp luật hải quan qua điều tra, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm hải quan làm phương hại đến kinh tế, thương mại, tài chính và lợi ích xã hội của các quốc gia thành viên. Cho đến nay, Công ước Nairobi vẫn được xem là một công cụ hợp tác quốc tế hữu hiệu nhằm hỗ trợ cơ quan hải quan mỗi nước trong việc đấu tranh chống các vi phạm hải quan. 1.1.1.2. Nguyên nhân ra đời. Từ năm 1953 đến năm 1977, trải qua hơn 20 năm, Hội đồng Hợp tác Hải quan mới đi đến thông qua Công ước Nairobi như một công cụ hoàn thiện, thống nhất và duy nhất trong hoạt động hợp tác quốc tế chống lại các vi phạm hải quan. Nhìn lại suốt quãng thời gian đó, có thể nói sự ra đời của Công ước Nairobi là do ba nguyên nhân. Thứ nhất, vi phạm hải quan ngày một gia tăng với mức độ càng lúc càng tinh vi, điều này làm ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, xã hội và sự lưu thông thương mại của mỗi quốc gia nói riêng và của thế giới nói chung. Thứ hai, hoạt động đấu tranh chống vi phạm hải quan sẽ bớt khó khăn và hiệu quả hơn nhiều khi có sự hợp tác giữa cơ quan hải quan của các quốc gia. Thứ ba, việc ra đời Công ước Nairobi cũng nhằm mục tiêu hoàn thiện vai trò của Hội đồng Hợp tác Hải quan (Customs Co-operation Council - CCC), tiến đến xây dựng Tổ chức Hải quan Thế giới (World Customs Organization – WCO) thống nhất sau này. 1.1.1.3. Lịch sử phát triển. - Từ năm 1977 đến năm 2003: Sau khi được thông qua vào ngày 9 tháng 6 năm 1977 dưới sự bảo trợ của Hội đồng Hợp tác Hải quan và chính thức có hiệu lực từ ngày 21 tháng 5 năm 1980, Công ước Nairobi tạo nên một khung pháp lý thống nhất cho sự hợp tác sâu rộng và hiệu quả hơn giữa các cơ quan hải quan trên thế giới. Từ năm 1977 đến năm 2003, trải qua gần 30 năm, Công ước đã có hơn 50 thành viên tham gia. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Công ước này vẫn còn nhiều vướng mắc, vì vậy mỗi hai năm một lần các thành viên của Công ước lại tổ chức 6 các cuộc họp thường kỳ để giải quyết các vấn đề này. Kết thúc mỗi cuộc họp, thông thường Hội đồng đều thông qua một khuyến nghị khác bổ sung cho Công ước Nairobi. Số lượng khuyến nghị này ngày một gia tăng để hoàn thiện một cơ chế chung cho hoạt động hợp tác quốc tế ngành hải quan trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, song số lượng văn bản quá nhiều lại gây ra nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. - Từ sau năm 2003: Để tạo thuận lợi hơn nữa cho việc hợp tác qua lại giữa các cơ quan hải quan, năm 2003, Công ước Johanesburg đã được thông qua nhằm bổ sung cho các vướng mắc của Công ước Nairobi năm 1977. Công ước này là một công cụ mới tạo thuận lợi cho việc giúp đỡ qua lại về hành chính giữa các thành viên của Tổ chức Hải quan Thế giới. Công ước chính thức có hiệu lực từ năm 2004 sẽ mang đến cho hải quan các nước một loại công cụ hiện đại, phù hợp và đáp ứng đầy đủ cho việc trao đổi thông tin quốc tế, giúp quá trình kiểm tra hải quan có hiệu quả hơn. Một sự hợp tác chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn giữa các cơ quan hải quan của các nước là mục tiêu chính của Công ước này. Đó là sự hợp tác được dựa trên các nguyên tắc tương hỗ đã trở thành một điều khoản bắt buộc ngay từ khi ký kết. Khi có hiệu lực, Công ước Johanesburg sẽ cung cấp cơ sở pháp lý cho việc trao đổi thông tin và các quy định nhằm giúp đỡ về hành chính, về yêu cầu giữa các bên tham gia ký kết, nhằm áp dụng đúng đắn pháp luật hải quan. Công ước bao gồm nhiều quy định trong khuôn khổ hợp tác đa quốc gia và báo trước việc tập hợp thông tin trên cơ sở các dữ liệu nhằm giúp đỡ các nước ký kết trong lĩnh vực chống tội phạm xuyên quốc gia, lĩnh vực gian lận và an ninh biên giới. Công ước này cũng giới thiệu một số thuận lợi và những kỹ thuật hiện đại trong hợp tác chống gian lận như dự báo để cung cấp thông tin trước khi gửi hàng trong lĩnh vực an ninh quốc tế. Công ước còn bao gồm những điều khoản cho phép cơ quan hải quan trao đổi tự động qua sự hiểu biết và qua hướng dẫn trong Công ước. Nếu như Công ước Nairobi đã thực hiện tốt vai trò của nó trong việc điều tiết hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan trong suốt giai đoạn 1977 – 2003 thì từ năm 2004 trở về sau, Công ước Johanesburg đã tạo nên một khung pháp lý hoàn chỉnh hơn đối với hoạt động này. Nhưng Công ước Johanesburg ra đời không loại trừ Công ước Nairobi ra đời trước đó mà cả hai cùng song song có hiệu lực, tạo 7 nên một hệ thống văn bản có tính pháp lý cao áp dụng trên phạm vi toàn cầu, từ đó thiết lập một cơ chế chung cho các cơ quan hải quan trên thế giới trong cuộc chiến chống buôn lậu xuyên quốc gia và gian lận thương mại trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên cho đến nay Công ước Nairobi vẫn được chấp nhận rộng rãi hơn với số lượng các nước thành viên đông đảo và hơn hết, Công ước này vẫn khẳng định được những vai trò quan trọng của nó trong hoạt động hợp tác quốc tế của hải quan mỗi nước. Nói đến sự giúp đỡ hành chính lẫn nhau giữa các cơ quan hải quan trong hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại, người ta vẫn nghĩ đến Công ước Nairobi như một văn bản pháp lý được ra đời sớm nhất, có giá trị vô cùng to lớn trong lịch sử hải quan toàn cầu. 1.1.2. Nội dung Công ước Nairobi. Công ước bao gồm một phần thân Công ước và 11 phụ lục có thể được chấp nhận độc lập lẫn nhau. Trong khi thân Công ước chủ yếu tập trung đưa ra một số khái niệm cơ bản liên quan đến vi phạm và gian lận hải quan; cũng như các thủ tục hỗ trợ cụ thể của các quốc gia thành viên thì phần phụ lục lại đưa ra 11 vấn đề khác nhau trong hoạt động hợp tác hải quan nhằm ngăn ngừa, điều tra, trấn áp các vi phạm hải quan trong phạm vi quốc tế. 1.1.2.1. Một số khái niệm cơ bản: Ngay chương đầu tiên của phần thân Công ước, Hội đồng Hợp tác Hải quan đã đưa ra một loạt các khái niệm liên quan đến các vi phạm hải quan nhằm xác lập một cách hiểu chung và thống nhất nhưng cũng rất linh hoạt giữa các nước thành viên. - “Pháp luâ ât hải quan là tất cả những những quy định pháp luâ ât được cơ quan hải quan thông qua và giám sát liên quan tới hoạt đô âng xuất khẩu, nhâ âp khẩu hoă âc quá cảnh hàng hóa” (the term "Customs law" means all the statutory or regulatory provisions enforced or administered by the Customs administrations concerning the importation, exportation or transit of goods)1. - “Vi phạm hải quan là sự không tuân thủ hoă âc ý định không tuân thủ pháp luâ ât hải quan” (the term "Customs offence" means any breach, or attempted breach, 1 Tổ chức Hải quan Thế giới, 1977, Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan, chương I, điều 1, khoản a, tr.7. 8 of Customs law)1. Do thẩm quyền của cơ quan hải quan của các quốc gia khác nhau nên định nghĩa này cũng mang ý nghĩa không hoàn toàn giống nhau cho tất cả các bên ký kết. Hầu hết các định nghĩa trong Công ước Nairobi đều được diễn đạt bằng những thuật ngữ rất chung chung. Nếu cần thiết, các nước thành viên của Công ước có thể đưa ra các quy định thích hợp trong phạm vi quốc gia mình để xác định rõ hơn định nghĩa này. Có thể thấy từng nội dung của Công ước Nairobi đều rất linh hoạt, không gò bó, nhằm tạo điều kiện tối đa cho các quốc gia thành viên có thể tùy chỉnh từng chương, từng phụ lục sao cho phù hợp nhất với điều kiện thực tế của hải quan mỗi nước. - “Gian lâ ân hải quan là mô ât hành vi vi phạm, theo đó mô ât chủ thể gian dối để trốn tránh các khoản thuế hoă âc các quy định cấm và hạn chế xuất khẩu, nhâ âp khẩu do cơ quan hải quan đưa ra hoă âc nhằm đoạt các lợi thế thương mại trái với pháp luâ ât hải quan” (the term "Customs fraud" means a Customs offence by which a person deceives the Customs and thus evades, wholly or partly, the payment of import or export duties and taxes or the application of prohibitions or restrictions laid down by Customs law or obtains any advantage contrary to Customs law)2. - “Buôn lậu là hành vi gian lâ ân hải quan, hàm ý viêcâ đưa hàng hóa qua mô ât biên giới hải quan mô ât cách bí mâ ât” (the term "smuggling" means Customs fraud consisting in the movement of goods across a Customs frontier in any clandestine manner)3. Định nghĩa này không những bao gồm trường hợp hàng hoá đã được che giấu để thoát khỏi sự kiểm soát của hải quan tại biên giới (dưới mọi hình thức phương tiện vận tải), mà còn cả các trường hợp hàng hoá mặc dù không phải che giấu nhưng không được khai báo hải quan đúng cách. - “Nghĩa vụ và thuế xuất khẩu, nhập khẩu là nghĩa vụ hải quan và tất cả các nghĩa vụ khác như thuế, lệ phí hoặc các khoản thu khác được thu trong hoặc có liên quan đến hoạt động nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hoá nhưng không bao gồm phí và lệ phí dịch vụ” (the term "import or export duties and taxes" means Customs 1 Tổ chức Hải quan Thế giới, 1977, Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan, chương I, điều 1, khoản b, tr.7 2 Tổ chức Hải quan Thế giới, 1977, Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan, chương I, điều 1, khoản c, tr.7 3 Tổ chức Hải quan Thế giới, 1977, Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan, chương I, điều 1, khoản d, tr.7 9 duties and all other duties, taxes, fees or other charges which are collected on or in connection with the importation or exportation of goods but not including fees and charges which are limited in amount to the approximate cost of services rendered) 1. Định nghĩa này cũng được xuất hiện trong nhiều văn kiện quốc tế khác của Hội đồng Hợp tác Hải quan (Tổ chức Hải quan Thế giới), đặc biệt là Công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa hóa các thủ tục hải quan (Công ước Kyoto) năm 1973. Trong mối liên quan này, Ủy ban thường trực kỹ thuật cho rằng sự hỗ trợ lẫn nhau của hải quan các nước thành viên theo quy định của Công ước Nairobi không áp dụng trong trường hợp bán phá giá (kể từ khi Luật chống bán phá giá của WTO/GATT bao gồm các biện pháp hỗ trợ về chủ đề này) hoặc thuế đối kháng (được nêu tại Điều VI của WTO/GATT). 1.1.2.2. Nội dung chính của Công ước: Nội dung chính của Công ước Nairobi xoay quanh vấn đề các quốc gia thành viên đồng ý hỗ trợ lẫn nhau nhằm thực hiê nê mục tiêu của Công ước, theo các điều khoản của Công ước này; nhằm giúp đỡ lẫn nhau trong việc ngăn ngừa, điều tra, trấn áp các vi phạm hải quan. Nội dung chính được cụ thể hóa bằng 23 điều thuộc 6 chương của phần thân Công ước. - Phạm vi áp dụng của Công ước được đề cập đến ở điều I đến điều IV. Khi một nước kí kết tham gia Công ước Nairobi nghĩa là hải quan nước đó cam kết sẽ sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan, phù hợp với các điều khoản của Công ước này. Cơ quan hải quan của các bên tham gia ký kết có thể đề nghị sự giúp đỡ lẫn nhau trong thẩm quyền mà họ được giao trong việc tiến hành điều tra hoặc trong khuôn khổ của một thủ tục pháp lý hoặc hành chính, nhưng không bao gồm việc đề nghị bắt giữ, thu hồi các khoản thuế, tiền phạt và các khoản phí cho cơ quan hải quan khác. Nếu mô êt quốc gia thành viên, trong trường hợp nhâ nê thấy viê êc hỗ trợ như vâ yê , ảnh hưởng tới chủ quyền, an ninh hoă êc các lợi ích trọng yếu của quốc gia hoă êc làm phương hại đến quyền lợi thương mại hợp pháp của các doanh nghiê êp, có quyền từ chối hoă êc hạn chế hợp tác với những điều kiê ên và yêu cầu nhất định. Đồng thời nếu mô êt quốc gia thành viên đưa ra mô tê đề nghị mà bản thân quốc gia 1 Tổ chức Hải quan Thế giới, 1977, Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan, chương I, điều 1, khoản e, tr.7 10 này cũng không thể thực hiê nê được trong trường hợp được mô tê quốc gia khác đề nghị; quốc gia thành viên này phải xem xét lại tính khả thi trong đề nghị của mình. Quyết định có hỗ trợ hay không phụ thuô êc vào quốc gia thành viên được đề nghị. - Quyền lợi và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên được quy định trong phần các thể thức giúp đỡ lẫn nhau giữa các cơ quan hải quan từ điều V đến điều VIII của phần thân Công ước. Theo đó, các hồ sơ, tài liê êu thu thâ êp được theo Công ước này chỉ được sử dụng nhằm phục vụ các mục đích được quy định trong Công ước, và phải tuân thủ đúng yêu cầu của cơ quan hải quan đã cung cấp các hồ sơ, tài liê êu đó. Bên tiếp nhâ nê thông tin có trách nhiê êm bảo mâ tê các thông tin được cung cấp với chế đô ê tương tự như các thông tin thu thâ êp được trên chính lãnh thổ của mình. Viê êc sử dụng các thông tin được cung cấp vào mục đích khác chỉ được chấp nhâ nê khi có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan hải quan đã cung cấp thông tin. Viê êc trao đổi thông tin giữa các quốc gia thành viên trong Công ước Nairobi được tiến hành trực tiếp giữa các cơ quan hải quan. Khi được đề nghị giúp đỡ, các cơ quan hải quan sẽ tiến hành tất cả những biện pháp cần thiết để thực hiện đề nghị giúp đỡ, trong phạm vi khuôn khổ pháp luật và các quy định hiện hành trên lãnh thổ của mình và có trách nhiệm trả lời các đề nghị này trong thời hạn sớm nhất có thể. Các đề nghị hỗ trợ nên được lâ pê thành văn bản, kèm theo các tài liê uê cần thiết, được viết bằng ngôn ngữ thuâ nê tiê nê cho bên tiếp nhâ nê . Trong trường hợp khẩn cấp không thể lâ êp đề nghị thành văn bản thì cần nhanh chóng có thư xác nhâ nê bằng văn bản. Mọi chi phí phát sinh theo Công ước này sẽ do bên đề nghị chịu. - Cách thức gia nhập Công ước rất linh hoạt, cho phép các quốc gia không phải chấp nhận thực hiện tất cả các quy định của Công ước mới có thể trở thành thành viên, mà chỉ cần chấp nhận ít nhất một phụ lục. Điều XI của Công ước Nairobi cũng chỉ ra rằng viê cê tham gia Công ước không hạn chế viê cê mô tê số quốc gia thành viên có cơ chế hợp tác chă êt chẽ hơn trong tương lai, đồng thời khuyến khích các nước thành viên ký kết các hiệp định song phương về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan. Tính linh hoạt và tính mở của Công ước rất cao khi nhấn mạnh rằng viê êc các quốc gia thành viên có cách hiểu khác nhau khi thực thi Công ước sẽ do các quốc gia tự dàn xếp sao cho phù hợp với thẩm quyền của hải quan mỗi nước. 11 Mọi cơ quan thành viên của Hội đồng và mọi quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc hoặc của các cơ quan chuyên môn của Liên hiệp quốc đều có thể trở thành thành viên của Công ước Nairobi bằng việc ký Công ước, không bảo lưu việc phê chuẩn; hoặc bằng việc gửi văn bản phê chuẩn sau khi đã ký Công ước có bảo lưu việc phê chuẩn; hoặc bằng việc gia nhập vào Công ước. Các văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập được nộp cho Tổng thư ký của Hội đồng. 1.1.2.3. Các phụ lục của Công ước: Công ước Nairobi có 11 phụ lục, đây là phần cụ thể hóa nghĩa vụ của các nước thành viên khi cam kết tham gia Công ước này. Theo đó hải quan của các nước thành viên cần tuân thủ các nghĩa vụ này khi tham gia vào Công ước quốc tế về giúp đỡ lẫn nhau nhằm ngăn ngừa, điều tra, trấn áp các vi phạm hải quan. Như đã nói ở trên, chỉ cần chấp nhận ít nhất một trong số 11 phụ lục dưới đây thì cơ quan hải quan của các nước đã có thể trở thành thành viên chính thức của Công ước Nairobi: - Phụ lục 1: Chủ đô nê g hỗ trợ. - Phụ lục 2: Hỗ trợ khi được yêu cầu, nhằm xác định thuế xuất khẩu, nhâ pê khẩu. - Phụ lục 3: Hỗ trợ khi được yêu cầu, liên quan tới quản lý hải quan. - Phụ lục 4: Hỗ trợ khi được yêu cầu, liên quan tới giám sát hải quan. - Phụ lục 5: Tham vấn và thông báo khi được yêu cầu, thay mă tê mô tê cơ quan hải quan khác. - Phụ lục 6: Công chức hải quan hiê nê diê nê tại tòa án nước ngoài. - Phụ lục 7: Công chức hải quan hiê ên diê ên tại mô êt quốc gia thành viên khác. - Phụ lục 8: Tham gia điều tra tại nước ngoài. - Phụ lục 9: Thu thâ pê thông tin. - Phụ lục 10: Hỗ trợ chống buôn lâ uê ma túy và các chất hướng thần khác. - Phụ lục 11: Hỗ trợ chống buôn lâ uê tác phẩm nghê ê thuâ êt, cổ vâ êt và các tài sản văn hóa khác. 1.2. Vai trò của Công ước Nairobi đối với hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại trên thế giới. 12 1.2.1. Văn bản hướng dẫn chung cho hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại trên toàn thế giới. Hiện nay tội phạm xuyên quốc gia đang liên tục gia tăng và vấn đề toàn cầu hóa thị trường dường như lại càng tạo cơ hội nhiều hơn cho tổ chức tội phạm. Kể từ khi gia tăng kiểm soát biên giới, ngành hải quan đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống tội phạm có tổ chức. Hải quan mỗi quốc gia cần phải tăng cường hành động để ngăn chặn, điều tra và trấn áp các vi phạm hải quan đang ngày một gia tăng. Bằng việc sửa đổi, bổ sung điều 18 của Công ước về vấn đề bảo lưu, những trở ngại chính trong việc ra nhập Công ước Nairobi đã bị dỡ bỏ, Công ước này chính thức trở thành một công cụ thống nhất và có hiệu quả trong hoạt động hợp tác quốc tế ngành hải quan mà nhiều quốc gia mong muốn tham gia để gia tăng sức mạnh của mình trong cuộc chiến chống buôn lậu và gian lận thương mại trên phạm vi toàn thế giới. 1.2.2. Tăng cường huy động hợp tác quốc tế trong ngành hải quan. Kể từ khi ra đời cho đến nay, trải qua hơn 30 năm, Công ước Nairobi ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong hoạt động hợp tác quốc tế chống buôn lậu và gian lận thương mại nói chung và vận chuyển trái phép các chất ma túy, chất hướng thần và các tài sản văn hóa nói riêng. Rõ ràng rằng Công ước Nairobi đã tạo ra một khuôn khổ pháp luật lý tưởng cho sự hợp tác sâu rộng và ngày một hiệu quả hơn giữa hải quan các nước thành viên. 1.2.3. Thiết lập một cơ chế chung cho các quốc gia thành viên trong việc trao đổi thông tin hải quan. Sự ra đời của Công ước Nairobi đã khuyến khích hải quan các nước tích cực trao đổi thông tin nghiệp vụ cũng như các thông tin tình báo để hỗ trợ lẫn nhau trong việc đấu tranh chống các vi phạm hải quan. Trước khi Công ước này ra đời, Hội đồng đã liên tiếp thông qua nhiều khuyến nghị vào các năm 1953, 1954, 1967, 1971 và 1975 cho phép cơ quan hải quan các nước thành viên thiết lập và tăng cường hợp tác, chủ yếu là dựa trên mối quan hệ song phương trong hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại, vận chuyển trái phép các chất ma túy và các loại tài sản văn hóa. Nhưng phải đến năm 1977, khi Công ước Nairobi ra đời được xem như một văn kiện quốc tế có tính ràng buộc cao, được chấp thuận trên phạm vi 13 rộng khắp thì hoạt động trao đổi thông tin giữa cơ quan hải quan các nước về hoạt động chống buôn lậu mới thực sự có hiệu quả. Thông tin hải quan và các hồ sơ, tài liệu khác được trao đổi trực tiếp giữa các quốc gia thành viên thông qua điện thoại, fax, email, công hàm… mà không phải qua bất kỳ một cơ quan nào khác, giúp tiết kiệm thời gian trong việc xử lý nghiệp vụ. Việc mở rộng trao đổi thông tin về lưu lượng vận chuyển bất hợp pháp như vậy giúp nâng cao hiệu quả hợp tác trực tiếp và đa phương giữa các quốc gia thành viên nhằm bảo vệ nền kinh tế quốc gia khỏi hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại. Ngoài ra các thông tin được trao đổi giữa các cơ quan hải quan sẽ được lưu trữ tại Ban thư ký của Hội đồng để giúp tính toán các chỉ số trung tâm liên quan đến các vụ buôn lậu. Ban thư ký này không chỉ quản lý các chỉ số trung tâm và lưu hành các thông tin nội bộ mà còn quyết định những thông tin nào cần được lưu hành; đồng thời sử dụng thông tin từ các chỉ số để lập bản tóm tắt và nghiên cứu về xu hướng của các vụ gian lận hải quan. Ngoài ra, Công ước Nairobi cho phép việc chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ trực tiếp lẫn nhau giữa các cơ quan hải quan trong các hoạt động nghiệp vụ khác. Như vậy, cơ quan hải quan của mỗi nước có thể trao đổi và học hỏi lẫn nhau để hoàn thiện chuyên môn, tạo nên một hệ thống hải quan quốc tế đồng đều về kỹ thuật nghiệp vụ, từ đó nâng hiệu quả của hoạt động kiểm soát hải quan, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên toàn thế giới. 1.2.4. Hỗ trợ hoạt động giám sát, điều tra và quá trình tố tụng tư pháp. Mỗi quốc gia thành viên đều được hỗ trợ bởi các quốc gia thành viên khác trong phạm vi thẩm quyền và khả năng của họ trong hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại đối với các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Họ có thể sử dụng lời khai, chứng cứ tội phạm… của các nước khác để làm căn cứ trong quá trình điều tra, ngăn chặn và xử lý vi phạm; đồng thời tiếp tục kiểm soát việc sử dụng thông tin hoặc tài liệu của một nước thành viên khác trong khuôn khổ hỗ trợ hành chính lẫn nhau, do sự cần thiết phải bảo vệ tính bảo mật thông tin liên lạc. Gia nhập Công ước Nairobi giúp các nước thành viên có cơ sở cho các hoạt động hợp tác trong giám sát, điều tra các vi phạm hải quan và các thủ tục tố tụng tư 14 pháp. Các quốc gia đã có thể hỗ trợ lẫn nhau trong vấn đề này ngay cả khi không bị ràng buộc trách nhiệm. Thông tin tình báo, tài liệu hoặc các thông tin khác truyền đạt hoặc lưu trữ trong phạm vi Công ước có thể được sử dụng cho việc điều tra, ngăn chặn và trấn áp những hành vi vi phạm pháp luật hải quan, bao gồm cả việc sử dụng trong thủ tục tố tụng tư pháp hoặc thủ tục hành chính. Điều 5 của Công ước bổ sung thêm rằng không có bất kì sự hạn chế nào trong việc sử dụng các thông tin kể trên, trừ khi hải quan chính quyền quy định rằng đó là những thông tin nội bộ tuyệt mật. Có thể nói, sự hợp tác đa phương hoặc song phương giữa các quốc gia dựa trên khuôn khổ của Công ước này đã giúp các cơ quan hải quan khẳng định vai trò của mình một cách hiệu quả hơn trong cuộc chiến chống buôn lậu và gian lận thương mại. 1.2.5. Tạo môi trường thương mại quốc tế trong sạch, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự ra đời của Công ước Nairobi còn cho thấy ảnh hưởng tích cực của việc hợp tác và hội nhập quốc tế ngành hải quan đối với quan hệ ngoại giao và sự phát triển ngoại thương của mỗi quốc gia. Nói cách khác, đối với mỗi quốc gia, công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực hải quan có một tác động to lớn trong việc tạo ra cơ sở vững chắc cho việc hội nhập sâu hơn trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội khác. Nhờ Công ước Nairobi, hợp tác quốc tế giữa các cơ quan hải quan đã trở thành một công cụ quan trọng trong việc điều tiết tự do hóa thương mại và mở rộng thương mại quốc tế. Các thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các quốc gia dựa trên khuôn khổ của Công ước này chủ yếu xoay quanh vấn đề tăng cường hoạt động hợp tác của cơ quan hải quan với mục tiêu tạo một sân chơi bình đẳng cho các nhà kinh tế và tạo sự thống nhất về pháp luật hải quan cũng như các quy tắc thương mại quốc tế. 1.3. Thực trạng áp dụng Công ước Nairobi trong hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại trên thế giới. 1.3.1. Tình hình chung. Ngày nay, Công ước Nairobi ngày càng khẳng định vai trò của nó trong hoạt động hợp tác quốc tế nhằm phòng chống, điều tra và trấn áp tội phạm hải quan. Từ những quốc gia đầu tiên gia nhập như Jordan (ngày 09 tháng 06 năm 1978), Malawi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng