Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp...

Tài liệu ạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp

.PDF
75
82
66

Mô tả:

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KINH TẾ TÀI CHÍNH Đề tài: Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp 1 Lời nói đầu  Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá đói giảm nghèo không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nghèo đói không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội được hưởng thụ thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về vấn đề kinh tế xã hội đối với sự phát triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn đề nghèo đói không được giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như quốc gia định ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn định, đảm bảo các quyền con người được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi. Theo số liệu thống kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoảng trên 2 triệu hộ nghèo đói chiếm 11% tổng số hộ trong cả nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói nhưng phải kể hơn cả là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn. Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên diễn đàn kinh tế. Giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Trong các năm qua, tuy đã có nhiều biện pháp hỗ trợ vốn cho người nghèo nhưng thực trạng mà đánh giá vốn chuyển tải đến người nghèo chưa được là bao nhiêu và hiệu quả sử dụng chưa cao. Tuy vậy nhìn tổng thể và trước những yêu cầu đặt ra thì quả thực còn nhiều mặt cần được đề cập để đi đến đưa ra những giải pháp cơ bản, lâu dài cho việc hỗ trợ vốn làm ăn tới người nghèo ở nước ta. Sau một thời gian thực tập tại vụ bảo trợ xã hội - Bộ Lao động Thương binh và xã hội, được sự tận tình hướng dẫn của thầy giáo Phạm Văn Liên và các đồng chí lãnh đạo, tập thể cán bộ vụ bảo trợ xã hội, kho bạc Nhà nước Trung ương, Ngân hàng phục vụ người nghèo, uỷ ban dân tộc miền núi... với ý thức mong muốn góp phần tích cực vào phát triển kinh tế của đất nước. Em mạnh dạn lựa chọn đề tài "Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp". Là vô cùng cần thiết. 2 1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích những vấn đề cơ bản: kinh tế thị trường và tính tất yếu nghèo đói trong nền kinh tế, vốn cho người nghèo và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo về mặt lý luận cũng như thực tiễn ở nước ta thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp về vốn hỗ trợ người nghèo ở nước ta hiện nay. 2. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài lấy vấn đề về vốn và sự vận động của vốn cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở nước ta làm đối tượng nghiên cứu. 3. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử có kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, xử lý hệ thống mô hình hoá, thực chứng và các phương pháp khác của nghiên cứu khoa học kinh tế. 4. Kết cấu đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình trong 3 chương. Chương 1 - Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta. Chương 2 - Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua. Chương 3 - Một số giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ người nghèo trong giai đoạn hiện nay. 3 Chương I Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta 1.1. Kinh tế thị trường và những ưu khuyết tật của nó. Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá đã phát triển tới trình độ cao, khi mà các quan hệ tiền tệ, giá cả, thị trường trở thành yếu tố chủ đạo cấu thành cơ chế vận hành của nền kinh tế và kể cả xã hội; ở đây quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá được vận động tự do bởi thống trị của nguyên tắc tự do cạnh tranh. Có thể nói kinh tế thị trường là sản phẩm cao cấp của sự tiến hoá lịch sử nhân loại. Quả thật trong lịch sử phát triển kinh tế, kinh tế thị trường đã phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm năng, tiền vốn, công nghệ để sản xuất một cách có hiệu quả cao. Với tư cách đó, nó chứa đựng nhiều ưu điểm so với các hình thái và tổ chức kinh tế trước nó. Phải kể đến là các ưu điểm sau. Một là: Kinh tế thị trường với điều kiện tồn tại các chủ thể kinh tế độc lập là tạo khả năng chủ động lựa chọn mô hình sản xuất kinh doanh khả dĩ, nếu xét tổng quát nền kinh tế lâu dài thì đây là yếu tố nội sinh thúc đẩy hiệu quả kinh tế toàn xã hội và từng cá nhân tăng lên. Hai là: Kinh tế thị trường với điều kiện trình độ phân công lao động xã hội tăng lên, theo đó làm tăng trình độ xã hội hoá nền sản xuất và thúc đẩy hiệu quả sản xuất tăng lên Ba là: Kinh tế thị trường với mục đích tối thượng là lợi nhuận trong mọi hoạt động kinh tế, theo đó tự nó đã thúc đẩy sản xuất mạnh mẽ so với các nền kinh tế trước đó. Bởi vì để giải quyết được 3 vấn đề (sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai) trong sản xuất của nền kinh tế thị trường, buộc từng chủ thể kinh tế phải tăng cường cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất phải thoả mãn nhu cầu của xã hội... Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm trên, kinh tế thị trường tuyệt nhiên không phải là một công cụ vạn năng để giải quyết hữu hiệu tất cả mọi vấn đề của nền kinh tế, mà kinh tế thị trường luôn hàm chứa trong đó không ít khuyết tật, cụ thể là: Thứ nhất: Kinh tế thị trường khi mà mục đích tối thượng là lợi nhuận, thì các chủ thể kinh tế chỉ quan tâm tới hiệu quả sản xuất thuần tuý như "người dùng chanh chỉ biết vắt hết nước" thì có thể gây ra một hậu quả nghiêm trọng đối với tiến trình phương pháp kinh tế, xã hội lâu dài. Điều này đã được minh chứng rõ khi con người khai thác tài nguyên, chặt cây, phá rừng đến một mức như huỷ diệt thì sự trả giá là không nhỏ tý nào từ môi trường sinh thái cân bằng cho sự phát triển đã trở thành môi trường đang bị huỷ diệt. Thứ hai: Sự cạnh tranh tự do vốn có của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến độc quyền và chính sự độc quyền là nguyên nhân lũng đoạn nền kinh tế theo hướng thu lợi riêng quá mức trên những tổn hại chung của 4 xã hội. Cạnh tranh tự do (hơn nữa là tự phát) là nguồn gốc tự nhiên, trực tiếp của tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội... Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp và cá nhân có tiền vốn kỹ thuật... làm ăn có hiệu quả, được khuyến khích làm giàu chính đáng, tuy nhiên, cạnh tranh nảy sinh trong cơ chế thị trường có thể dẫn đến những hậu quả xấu, nếu không có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh sẽ dẫn đến tìm mọi mánh khoé làm ăn theo hướng "mạnh được, yếu thua" thậm chí "cá lớn nuốt cá bé" từ đó dẫn đến kinh doanh trốn thuế, mua bán ép giá, lừa gạt, triệt tiêu lẫn nhau... đều làm cho thị trường tăng rối loạn. Cạnh tranh như thế, một số giàu lên nhanh chóng, song cũng không ít người rơi vào làm ăn thua lỗ, phá sản cơ nghiệp làm cho nền kinh tế bị kìm hãm và thất nghiệp, phân hoá thu nhập... và giàu nghèo cũng có nguồn gốc từ đây. Như vậy, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn tồn tại hai thái cực: một bên là tích cực đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, một bên là tiêu cực sẽ kìm hãm phát triển kinh tế xã hội và phân hoá đời sống các tâng lớp dân cư. Để thúc đẩy mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực thì đòi hỏi phải có vai trò điều tiết của Nhà nước. 1.2. Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường. Như trên đã phân tích, về thực chất, cơ chế thị trường tự nó không đủ khả năng điều chỉnh, khắc phục những khuyết tật do nó gây ra. Đó là lý do cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình vận hành của hệ thống thị trường trong mọi giai đoạn phát triển của nó. Đương nhiên sự can thiệp của Nhà nước phải có một định hướng rõ ràng, hơn nữa được thể hiện trên các chức năng nhất định. Chúng ta có thể nhìn nhận chức năng của Nhà nước thông qua các vấn đề sau (1) Một là: Với các công cụ chính sách, Nhà nước thực hiện điều tiết các quá trình kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường vĩ mô cho phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội. Thuộc hệ công cụ chính sách này như: chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách phát triển nông thôn, chính sách xoá đói giảm nghèo... Hai là: Nhà nước tạo tập và duy trì một hành lang pháp lý để điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện chức năng này Nhà nước có thể hạn chế những tiêu cực trong hoạt động kinh tế xã hội do cạnh tranh hoặc độc quyền gây ra. Ba là: Với tư cách là bộ máy quyền lực tập trung để điều chỉnh sự phát triển của xã hội thì Nhà nước không thể không có chức năng định hướng kinh tế để hướng hoạt động thị trường vào cơ cấu kinh tế và mục tiêu theo hướng đã chọn. Bởi vì chỉ có sự can thiệp của Nhà nước thông qua các định hướng phát triển và có giải pháp để thực hiện chúng thì nền kinh tế mới có thể phát triển đạt hiệu quả cao và lâu bền. Bốn là: Nhà nước có chức năng điều tiết và phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Đây không chỉ là chức năng kinh tế mà cả chức năng xã hội của Nhà nước. Điều này được lý giải bởi: bên cạnh những vấn đề kinh tế, nền kinh tế thị trường còn phát sinh nhiều vấn đề 5 xã hội to lớn cần được giải quyết như tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng về tài sản, thu nhập mà còn có kéo theo phân hoá xã hội như học vấn, văn hoá, lối sống, tệ nạn xã hội... nếu không có sự hạn chế bằng điều tiết của Nhà nước thì nó ngày một gia tăng hơn. Chỉ có Nhà nước, với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao của xã hội mới đủ khả năng điều chỉnh thông qua sử dụng các công cụ chính sách của mình. Tuy nhiên sự tác động của Nhà nước có hiệu quả đến mức độ nào còn tuỳ thuộc vào tính hữu hiệu của các công cụ, chính sách đã đề ra. Song trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì tác động của Nhà nước để đạt tới sự bình đẳng và công bằng tuyệt đối là khó có được, nếu không muốn nói đó là "giấc mơ". Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng thất nghiệp và đói nghèo vẫn luôn bám chặt trong cơ thể "xã hội". Tỷ lệ đói nghèo gia tăng hay giảm xuống phụ thuộc nhiều yếu tố, song chỉ có kết quả khi có bài thuốc đủ liều của Nhà nước. 1.3. Sự tồn tại khách quan của đói nghèo và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. 1.3.1. Sự tồn tại khách quan của nghèo đói trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và tồn tại khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Cho dù phát triển là một thách thức cấp bách trước loài người và nhờ phát triển có thể tạo ra những cơ hội tăng trưởng, song hiện nay vẫn còn có 1,12tỷ người đang sống ở mức nghèo khổ. Đặc biệt đối với nước ta quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi, đến nay nước ta còn khoảng trên 2 triệu hộ thuộc diện nghèo đói và chiếm 11% tổng số hộ trong cả nước. So với bình quân thế giới có tỷ lệ nghèo đói tập trung ở nông thôn trên 70% thì ở nước ta điều đó lại càng cao hơn, chiếm khoảng 90% (3). Mặc dù từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay nhất là từ sau khi có nghị quyết 10, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp đạt được kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đó. Nhờ vậy đời sống người nông dân và kinh tế nông thôn nước ta dần đi vào thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên thừa nhận và khuyến khích các hộ phát triển sản xuất hàng hoá, tất yếu dẫn đến phát triển không đồng đều giữa các hộ mà trước đây bị che đậy mờ đi bởi cơ chế tập trung bao cấp. Tình trạng đói nghèo không chỉ còn là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến và có xu hướng gia tăng ở nông thôn và các vùng khó khăn. Ngay cả những vùng đô thị, tình trạng thất nghiệp do thiếu vốn và thiếu điều kiện làm ăn đã và đang làm phát sinh một bộ phận hộ gia đình nghèo túng. Khoảng chênh lệch thu nhập giữa các phân tầng xã hội ngày một nới rộng. Cùng với công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" do Đảng ta khởi xướng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trường và trở nên giàu có. Song bên cạnh đó không ít người do nhiều nguyên nhân đã chấp nhận vào ngưỡng nghèo 6 đó. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là liên tục phấn đấu đưa toàn xã hội đến "công bằng văn minh", vì vậy Nhà nước đã và đang tập trung chỉ đạo thực hiện bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau để những vùng nghèo, dân cư có đời sống khó khăn vươn lên đạt tới sự công bằng nhất định trong xã hội. Song sự tác động của Nhà nước không bao giờ đạt được như mong muốn. Tình trạng nghèo đói ở nước ta vẫn tồn tại, thậm chí đã trở thành hiện tượng xã hội gay gắt. Đã đến lúc các quốc gia, hơn nữa toàn thế giới coi giải quyết vấn đề nghèo đói như một chiến lược toàn cầu. Bước vào thiên niên kỷ mới, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại. Hướng tới tương lai, tại khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc về phát triển xã hội, tháng 6/2000 ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ), cộng đồng quốc tế tiếp tục cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2015 giảm 1/2 số người nghèo trên thế giới. Hội nghị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "tấn công vào đói nghèo" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diện về xoá đói giảm nghèo. Đặc biệt tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9/2000 của Liên Hợp quốc tại Oasinhtơn (Mỹ), một lần nữa khẳng định chống đói nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI. Tại hội nghị này, chủ tịch Trần Đức Lương, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã đề nghị lấy thập niên đầu tiên của thế kỳ XXI làm thập niên dành ưu tiên cho xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn thế giới và đã được hội nghị đồng tình cao (4) Như vậy rõ ràng, giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta không chỉ là đòi hỏi về mặt xã hội (bao gồm chính trị, xã hội, đạo đức) mà còn đòi hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì nền kinh tế không thể tăng trưởng một cách bền vững, mỗi khi trong xã hội vẫn tồn tại lớp người nghèo đói khá đông. 1.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Để có những giải pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu thì trước hết phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Cũng như thầy thuốc muốn "bốc thuốc" đúng, trị được bệnh thì trước hết phải "chuẩn đoán bệnh" cho đúng. Nếu xét về nguồn gốc thì nghèo đói do nhiều nguyên nhân dẫn đến, có nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng cũng có nguyên nhân chỉ là tác nhân gián tiếp gây ra nghèo đói mà thôi. Trong "chuỗi" nguyên nhân gây ra nghèo đói phải kể đến các nguyên nhân sau: 1.3.2.1. Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn Vốn, kỹ thuật và kiến thức làm ăn là chìa khoá để người nghèo vượt khỏi ngưỡng nghèo đói. Do không đáp ứng đủ vốn nhiều người rơi vào thế luẩn quẩn, làm không đủ ăn phải đi làm thuê, vay nặng lãi, bán lúa non mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày nhưng nguy cơ nghèo đói vẫn thường xuyên đe doạ họ. Mặt khác do thiếu kiến thức làm ăn nên họ chậm đổi mới tư duy làm ăn, bảo thủ với phương pháp sản xuất kém hiệu quả. Thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn là một lực cản 7 lớn nhất hạn chế tăng thu nhập và cải thiện đời sống của hộ gia đình nghèo. 1.3.2.2. Nguyên nhân do sinh đẻ nhiều nhưng đất đai canh tác lại ít Mặc dù đã có cuộc vận động thực hiện chương trình sinh đẻ có kế hoạch nhưng nhìn chung ở vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc tỷ lệ sinh đẻ giảm xuống không đáng kể, thậm chí có nơi không giảm và tiếp tục gia tăng. Sinh đẻ nhiều dẫn đến trong một hộ gia đình người làm thì ít mà người ăn theo thì nhiều do đó thu nhập bình quân thấp, đời sống khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặt khác diện tích đất canh tác có hạn, hệ số sử dụng đất ở các vùng núi, vùng thiên tai không được nâng lên sản lượng thu hoạch bình quân có xu hướng giảm xuống thì điều tất yếu sẽ dẫn đến nghèo đói. 1.3.2.3. Nguyên nhân do thiếu việc làm. Thiếu việc làm bao giờ cũng là yếu tố tiềm ẩn dẫn đến nghèo đói. Đặc biệt đối với các vùng đô thị thì thất nghiệp là đồng hành với sự nghèo đói. Nói như vậy không có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm trở thành căn nguyên nghèo đói không xảy ra ở nông thôn. Mà thiếu việc làm theo mùa và không đủ công ăn việc làm cho nông dân đang luôn là mối đe doạ một bộ phận hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tụt xuống bờ vực nghèo đói. Bởi vậy tạo ra việc làm mới bằng các nghề phụ ở nông thôn nếu được giải quyết sẽ làm tăng thu nhập cho dân cư và tất yếu là sẽ giảm được nghèo đói. Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN hay giả định một định hướng hoàn mỹ hơn nhiều thì khuyết tật của cơ chế thị trường, tự nó không thể mất đi được, thậm chí vẫn thể hiện rất gay gắt. Ngay trên thị trường sức lao động, nếu như trước đây con người sinh ra hầu như đã được đảm bảo về việc làm, thì ngày nay muốn có việc làm phải qua cạnh tranh. Những người không có khả năng cạnh tranh do sức khoẻ, tàn tật, già yếu, thiếu kiến thức... thì chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng không có lối thoát và những người "gặt hái" chiến bại trong cạnh tranh cũng phải chịu đựng cuộc sống bếp bênh, nghèo đói. Sự tồn tại của thất nghiệp, nhất là trong lứa tuổi thanh niên không những là nguyên nhân gây nghèo đói cho gia đình mà còn có thể gây nhiều tiêu cực cho xã hội. Tình trạng thiếu việc làm đang là thách thức cho mọi quốc gia trong việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. ở nước ta để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo do Đảng ta khởi xướng thì giải quyết việc làm đang là vấn đề kinh tế xã hội luôn nằm trong chương trình nghị sự của chính phủ. 1.3.2.4. Nguyên nhân từ sức khoẻ. Sức khoẻ yếu và do đó thiếu sức lao động với tình trạng đói nghèo thường có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Nghèo nàn đói rách làm cho sức khoẻ suy giảm, ngược lại sức khoẻ yếu và thiếu sức lao động là nguyên nhân của sự nghèo khổ. Một khi con người không đủ sức lao động, 8 thường dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và tất yếu nghèo đói sẽ diễn ra. Đến lượt nó khi nghèo đói đã ngự trị thì không thể cải thiện được sức khoẻ tốt hơn. Cái vòng luẩn quẩn giữa sức khoẻ và nghèo đói đòi hỏi phải giải quyết cả hai vấn đề là: giảm nghèo đói và cải thiện sức khoẻ. Để cải thiện được sức khoẻ của cộng động đặc biệt là đối với người có thu nhập thấp, gia đình khó khăn thì mạng lưới y tế và Bảo hiểm xã hội có vai trò quyết định. 1.3.2.5. Nguyên nhân do hạ tầng cơ sở nông thôn được cải thiện chậm. Do hậu quả chiến tranh kéo dài, thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều vùng nên phần lớn đường xá nông thôn bị tàn phá và xuống cấp, trong khi đó nguồn kinh phí luôn thiếu vì vậy giao thông nông thôn nhiều nơi vẫn đang trong tình trạng khó khăn, không có khả năng để tu bổ hoặc làm mới. Nhiều cơ sở dịch vụ nông nghiệp trước đây do hợp tác xã nông nghiệp đảm nhận cung cấp. Song vị trí hợp tác xác nông nghiệp ngày nay đã và đang hạn chế khả năng này bởi nguồn vốn tạo lập của hợp tác xã rất khó khăn. Nhìn chung hợp tác nông nghiệp ngày này là thiếu kinh phí và thường không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ nông nghiệp cho dù họ có thu phí. Hạ tầng cơ sở nông thôn đặc biệt quan trọng với các vùng khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra. Do trạm bơm và kênh mương thuỷ lợi chưa đáp ứng được, nên một số vùng lụt, mất mùa xảy ra thường xuyên. Vì vậy những vùng này thiếu ăn vẫn triền miên hết năm này qua năm khác. 1.3.2.6. Nguyên nhân do có người trong gia đình mắc tệ nạn xã hội. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực đáng kể thì những mặt tiêu cực cũng ngày càng rõ nét. Một trong những mặt tiêu cực đó là số người mắc tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng như nghiện hút, cờ bạc, rượu chè... bên cạnh đó là tình trạng thương mại hoá tràn lan xâm nhập vào lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục làm cho đời sống xã hội có những biểu hiện xuống cấp, đạo đức xa sút, tâm lý hưởng thụ tăng lên... Đó là những thói hư tật xấu luôn tiềm tàng và phát sinh đối với những người lười nhác lao động, ăn tiêu không có kế hoạch, không có ý thức vươn lên. Vì vậy nếu họ xuất thân trong gia đình khó khăn nghèo túng thì gia đình đó ngày càng khó khăn hơn, còn nếu họ xuất thân trong gia đình khá giả thì gia đình họ ngày càng đi xuống. Đó chính là con đường dẫn đến phá sản cơ nghiệp, chấp nhận cảnh bần cùng đói rách. Đau đớn hơn nó là sự huỷ hoại ghê gớm đạo đức, nhân văn của con người và gây ám ảnh sự sợ hãi cho toàn xã hội. 1.3.2.7. Một số nguyên nhân khác. Hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài đã làm cho hàng triệu gia đình ít nhiều phải lâm vào cảnh đói nghèo, bệnh tật (chất độc mầu da cam, bom mìn dưới đất...) 9 Do ở nơi xa xôi, hẻo lánh, rừng sâu, núi cao, đảo xa thường không có đường ô tô và các phương tiện giao thông thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội. Mặt khác do không có hoặc thiếu, chậm thông tin về các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội (Kể cả ở địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế). Trong khi đó, phong tục tập quán và những hủ tục lạc hậu còn khá nghiêm trọng. Trình độ dân trí, trình độ văn hoá thấp, số người chưa biết chữ còn nhiều, hạn chế khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, cách làm ăn mới. Các cơ chế và chính sách đối với người nghèo chưa đồng bộ, còn chồng chéo với chính sách xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là chưa thực hiện được chính sách xã hội hoá trong việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Từ những nguyên nhân trên cho thấy việc xoá đói giảm nghèo không chỉ tiến hành riêng rẽ một hai giải pháp nào đó mà phải xử lý đồng thời tất cả các giải pháp trọng tâm, trọng điểm. 1.4. Khái nhiệm và những chuẩn mực về đói nghèo. Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung nhất cho rằng: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục... Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề xoá đói giảm nghèo một cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái niệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá đói nghèo của thế giới. 1.4.1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của thế giới 1.4.1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới. Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh là thời gian, không gian, giới và môi trường. Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ có mức sống dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có người nghèo khổ "tình thế" chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, tệ nạn xã hội, rủi ro. Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn nơi có 3/4 dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng. Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ thì phụ nữ khổ hơn nam giới. Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở những vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm. 10 Từ nhận dạng trên, Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói nghèo như sau: Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống. Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục... Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng. 1.4.1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới. Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo của một quốc gia bắt đầu từ việc vạch ra giới hạn đói nghèo. Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP). Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ và chỉ tiêu thu nhập thì chưa đủ để đánh giá. Vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này, tổ chức hội đồng phát triển hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI). Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản đó là: tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá mù chữ. Gần đây tổ chức UNDP đưa ra thêm chỉ số phát triển con người (HDI) bao gồm 3 chỉ tiêu sau: Tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập. Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ 121/175 nước trên thế giới (Tài liệu công bố năm 1997). Như vậy chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với các chỉ số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu nghèo chính xác hơn, khách quan hơn. Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới hai dạng chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được coi là hộ nghèo. Quy mô nghèo từng vùng của một quốc gia được xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đói trên tổng số hộ dân cư thuộc vùng hoặc quốc gia đó. 1.4.1.3. Chuẩn mức đói nghèo của thế giới. Nói chung quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Với quan niệm này, hiện trên thế giới có khoảng 1,12 tỷ người (20%) đang sống trong tình trạng nghèo khổ tức là sống dưới 420 USD người/năm hoặc 35 USD/người/tháng mà ngân hàng thế giới đã ấn định (2) - Các nước phát triển: Lấy Mỹ làm đại diện cho các nước phát triển. Năm 1992 Mỹ lấy chuẩn mực một người trong hộ có thu nhập bình quân tháng dưới 71 USD là người nghèo khổ (852 USD/năm). 11 - Các nước đang phát triển. Mỗi nước có một chuẩn mực khác nhau: Pakitstan là 6 USD/ người/ tháng, Indonexia 6 USD/ người/ tháng, Malayxia 28 USD/người/tháng, Nêpan 9 USD/người/tháng. - Cũng có những nước dùng chỉ tiêu Kalory/người/ngày như Bănglađét dưới 1650 kalory/người/ngày, các nước công nghiệp ở Châu Âu 2570 kalory/người/ngày, Châu Đại Dương 2.660 kalory/ người/ ngày, Châu Phi 2.340 kalory/người/ngày. 1.4.2 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá hộ đói nghèo ở Việt Nam. 1.4.2.1. Khái niệm. Tách riêng đói và nghèo không khái nhiệm chung như thế giới. - Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Nghèo gồm 2 dạng: + Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc và nhu cầu sinh hoạt hàng này gồm văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp. + Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét. - Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. 1.4.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam. - Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân 1 người một tháng (hoặc năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực (gạo) tương ứng một giá trị nhất định về giá cả. Khái nhiệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (tổng thu trừ đi tổng chi phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo. - Chỉ tiêu phụ: Là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập chữa bệnh đi lại... 1.4.2.3. Chuẩn mực xác định đói nghèo của Việt Nam ở nước ta, tiêu chuẩn và thước đo để xác định ranh giới nghèo đói hiên nay đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy vậy căn cứ và thu nhập biểu hiện bằng tiền vẫn là chỉ tiêu cơ bản để phản ánh mức sống. Bên cạnh đó do điều kiện giá cả không ổn định nên cần phải sử dụng cả hình thức hiện vật, phổ biến là quy ra gạo làm tiêu chuẩn. Việc sử dụng hình thức hiện vật quy ước này có tác dụng là loại bỏ được yếu tố giá cả, từ đó có thể so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian đơn giản, thuận tiện hơn. Đặc biệt là đối với người nghèo nói 12 chung và nông dân nghèo nói riêng, chỉ tiêu số lượng gạo bình quân một người một tháng là có ý nghĩa và rất thực tế bởi vì nhu cầu thiết yếu đầu tiên là đảm bảo đủ gạo ăn. Chuẩn mực đói nghèo ở nước ta được quy định tại thông báo số 1751/LĐTBXH ngày 20/5/1997 của Bộ lao động thương bình và xã hội như sau: Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 13 Kg gạo/người/tháng, tương đương 45 ngàn đồng (tính cho mọi vùng). Hộ nghèo: Phân theo 3 vùng có mức thu nhập như sau. - Vùng nông thôn miền núi hải đảo là hộ có thu nhập dưới 15Kg gạo/người/tháng, tương đương 55 ngàn đồng. - Vùng nông thôn đồng bằng trung du là hộ có thu nhập bình quân dưới 20Kg gạo/người/tháng, tương đương với 70 ngàn đồng - Vùng thành thị là hộ có thu nhập bình quân dưới 25Kg gạo/người/tháng, tương đương với 90 ngàn đồng. Trong thời kỳ 1992-2000 do điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta chưa cho phép, nên chúng ta phải áp dụng chuẩn nghèo thấp, chủ yếu là giải quyết vấn đề ăn (tương đương với chuẩn nghèo về lương thực của quốc tế). Trong năm, mười năm tới, phấn đấu nâng chuẩn nghèo lên khoảng 1,5 - 3 lần so với chuẩn cũ. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực tế và sau khi thảo luận thống nhất của các bộ ngành, đoàn thể trung ương, các tỉnh, thành phố, ngày 01/11/2000. Bộ lao động - Thương binh và xã hội đã ban hành quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH điều chỉnh chuẩn hộ nghèo từ năm 2001 như sau: - Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đồng/tháng, 960.000 đồng/năm. - Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đồng/tháng, 1.200.000 đồng/năm. - Vùng thành thị: 150.000đồng/tháng, 1.800.000đồng/năm 1.5. Các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo trong điều kiện ở nước ta 1.5.1. Tổng quan về vốn. 1.5.1.1. Khái niệm vốn. Trong bộ tư bản, Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn thông qua phạm trù tư bản. Theo Mác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư qua quá trình vận động của nó (T - H - SX - H - T) Trong điều kiện hiện nay, quan điểm của Mác cần hiểu như sau: Thứ nhất: Tư bản là giá trị. Điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị nhất định. Thứ hai: Vốn là một lượng giá trị mang lại giá trị thặng dư. Tức là chỉ lượng giá trị nào sau quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh đem lại giá trị thặng dư mới được gọi là vốn. Lượng giá trị "nằm im" và "bất động" không tạo ra giá trị thặng dư không được gọi là vốn. Từ sự nhận thức trên ta có thể đưa ra khái nhiệm tổng quát về vốn như sau: 13 Vốn là một lượng giá trị tài sản xã hội (tài sản hữu hình và tài sản vô hình) được dùng vào đầu tư kinh doanh nhằm thu được hiệu quả kinh tế - xã hội. 1.5.1.2. Các đặc trưng của vốn. Trong điều kiện hiện nay vốn có các đặc trưng sau đây. Một là: Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản hiện vật (như nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng...) được đưa vào sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Trong trường hợp này ta gọi là vốn hiện vật. Hai là: Vốn được biểu hiện bằng tiền (Tiền giấy nội tệ, ngoại tệ, tiền vàng, và các chứng chỉ có giá trị như tiền) được đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời nó. Trường hợp này ta gọi là vốn tài chính. Ba là: Vốn không chỉ được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình như vốn hiện vật, tiền, nhân lực (gọi là vốn hữu hình) mà vốn còn bao gồm cả giá trị của những tài sản vô hình chẳng hạn như chất xám, phát minh, giá trị nghệ thuật (gọi là vốn vô hình) Bốn là: Vốn là hàng hoá đặc biệt được đưa vào lưu thông trên thị trường vốn. Trong quá trình lưu thông, vốn sinh lời (T-T') vì vậy vốn phải đưa vào lưu thông và cần phải tạo môi trường cho lưu thông vốn (thị trường tiền tệ, thị trường tài chính). Năm là: Do phương thức chu chuyển, vốn có thể chia ra hai loại khác nhau đó là vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn dài hạn là vốn có mục đích sử dụng trên một năm hay còn gọi là vốn đầu tư. 1.5.2. Vốn cho người nghèo và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo 1.5.2.1. Đặc điểm vốn hỗ trợ cho người nghèo. Ngoài những đặc điểm chung của vốn thì vốn hỗ trợ cho người nghèo thể hiện rõ các đặc điểm riêng sau: - Vốn hỗ trợ cho người nghèo luôn gắn liền với sự rủi ro và mất vốn. Có người đã nói "cấp vốn cho người nghèo là cấp rủi ro". Quả thực, ông cha ngày xưa cũng đã có câu "tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống", đa số người nghèo do sử dụng vốn trong hoàn cảnh túng quẫn đã bị động nên hiệu quả sử dụng vốn thường không đạt theo ý muốn của họ. Thậm chí do thiếu đói người nghèo đã biến vốn hỗ trợ thành vốn cứu tế tức thì cho bản thân họ. Mặt khác, nếu rủi ro mất vốn họ thường rơi vào tình trạng "trắng tay", nợ nần, khó tìm ra nguồn vốn để bù đắp ngoài sự đảm bảo bằng thân xác, đói rách bần cùng. - Vốn hỗ trợ người nghèo cho dù được thực hiện bởi một kênh nào (trợ cấp cứu tế, cho vay, cho mượn...) đều phải thể hiện tính tài trợ của Nhà nước và cộng đồng cho họ. Trường hợp không được cấp bằng cứu tế thì phải cho vay lãi suất thấp hơn so với thị trường. Tức là vốn hỗ trợ cho người nghèo phải thực thi vị trí phi thị trường. Song rõ ràng để Nhà nước làm được việc này là rất khó. Bởi vậy phải có trách nhiệm của cộng đồng để tạo ra nguồn vốn đảm bảo tính khả dụng cho người nghèo. Hay nói cách khác đặc điểm vỗn hỗ trợ cho người nghèo là nguồn vốn tổng hợp và đa dạng. 14 - Để hỗ trợ vốn cho người nghèo có kết quả thì không chỉ hỗ trợ vốn bằng tiền (hoặc hiện vật quy ra tiền) mà còn hỗ trợ "vốn" kiến thức, việc làm, môi trường làm ăn và nhiều hỗ trợ khác. Bởi vậy đặc điểm của vốn hỗ trợ người nghèo có sự vận động ăn nhịp tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội khác. 1.5.2.2. Các kênh dẫn vốn cho người nghèo Trung tâm của bất kỳ mô hình tài chính nào trong nền kinh tế cũng đòi hỏi hoạt động của những "kênh dẫn" mà thông qua đó, vốn của những khoản tiết kiệm sẽ chuyển thành những khoản nợ của người sử dụng. Tuy nhiên do nhiều loại mô hình tài chính khác nhau và đa dạng (kênh chính thức hoặc không chính thức) nên tính chất và hiệu quả của các kênh dẫn vốn cũng khác nhau. Vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua chủ yếu từ các kênh sau: Thứ nhất: Hệ thống tài chính Nhà nước các cấp hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo với các nội dung sau: Ngân sách trợ cấp hỗ trợ khắc phục thiên tai. Ngân sách trợ cấp các vùng nghèo, xã nghèo để đầu tư hạ tầng xã hội sản xuất, trợ giá, trợ cước cho miền núi, vùng cao cho đồng bao dân tộc nói chung trong đó có người nghèo. Các khoản chi khác của ngân sách Nhà nước cho các mục tiêu mà thông qua đó, tác dụng của nó cải thiện đáng kể tình hình đói nghèo. Thứ hai: Hệ thống kho bạc Nhà nước với 61 kho bạc tỉnh (thành phố) và trên 600 kho bạc cấp huyện, quận, thị xã thực hiện cho vay theo các chương trình của Chính phủ (chương trình theo Nghị quyết 120/HĐBT, theo quyết định 327/CP...). Đối tượng vay vốn của chương trình không phải là hộ nghèo mà thông qua cho vay, các dự án để thu hút lao động và tăng thu nhập, trong đó cho một số hộ người nghèo. Ba là: Hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng phục vụ người nghèo, các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và đô thị, các hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó ngân hàng phục vụ người nghèo là lòng cốt hỗ trợ vốn cho các hộ nghèo. Thứ tư: Các đoàn thể, hiệp hội và các tổ chức xã hội với hàng trăm tổ chức theo mô hình khác nhau. Trong đó có nhiều tổ chức hoạt động tín dụng theo quy ước riêng của mình như quỹ xoá đói giảm nghèo của Hội liên Hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam... Thứ năm: Các doanh nghiệp tài trợ vốn cho các hộ nghèo thông qua các hình thức ứng trước vốn cho nông dân sản xuất và thu nợ bằng chính sản phẩm của họ. Thứ sáu: Các tổ chức quốc tế Chính phủ và phi Chính phủ tài trợ thông qua các chương trình nhân đạo, giải quyết việc làm... tài trợ này bao gồm cho vay có hoàn trả và viện trợ không hoàn lại. Thứ bảy: Các nhóm, tổ, phường, họ tương trợ tiết kiệm trong cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập và hỗ trợ vốn cho nhau làm ăn theo 15 quy định riêng. Ngoài ra còn các hoạt động tín dụng không chính thức khác của tư nhân hoạt động ngầm. Các tổ chức dẫn vốn nói trên có đặc trưng chung là sử dụng phương thức tài chính tài trợ cấp phát hoặc tài chính tài trợ hoàn trả, các kênh dẫn vốn áp dụng thủ tục cho vay, phạm vi cho vay và mức lãi suất rất khác nhau, tuỳ theo tính chất nguồn vốn và quan điểm tổ chức thực hiện dẫn vốn. Cách tiếp cận với người nghèo và quan điểm xử lý của các tổ chức ngoài khu vực tài chính Nhà nước và ngân hàng rất khác nhau. Có hình thức cho vay trực tiếp đến với người nghèo, có hình thức thông qua trung gian. Nhìn chung tài trợ vốn cho người nghèo vay vốn còn nhiều hạn chế, đang là nguyên nhân bất ổn định trên thị trường tài chính - tín dụng ở nước ta. 16 Chương II Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua - kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho người nghèo vay vốn và sự vận dụng vào Việt Nam. 2.1. Thực trạng đói nghèo ở nước ta. Việt Nam là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người là một trong các nước thấp nhất thế giới (năm 2000 mới đạt khoảng 380 USD). Tỷ lệ đói nghèo còn cao, theo chuẩn quốc gia thì tỷ lệ đói nghèo năm 1992 là trên 30%, năm 1998 là 15,7%, năm 1999 là 13% và năm 2000 là 11% như vậy tính bình quân mỗi năm giảm được 250.000 - 300.000. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới thông qua điều tra mức sống dân cư Việt Nam, tỷ lệ đói nghèo năm 1993 là trên 58%, năm 1998 là 37% và năm 2000 là khoảng 30%. Đói nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (khoảng 90% trong tổng số hộ nghèo đói của cả nước). Một số vùng, khu vực, đặc biệt vùng đồng bào dân tộc, khu căn cứ cách mạng, biên giới, hải đảo, tỷ lệ hộ đói nghèo rất cao. ở khu vực thành thị tỷ lệ hộ đói nghèo tuy thấp hơn, song chủ yếu là số dân mới nhập cư. Miền núi phía Bắc, vùng Bắc trung bộ và Tây Nguyên là những khu vực luôn có tỷ lệ hộ nghèo đói cao nhất. Sự phân cực giàu nghèo có chiều hướng gia tăng. Kết quả điều tra cho thấy: Mức chênh lệch về thu nhập khi so sánh 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất với 20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất ở vùng nông thôn là 7,3 lần (năm 1996) tăng lên 11 lần (năm 2000). Hệ số chênh lệch mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn khoảng 5 -7 lần, mức thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn so với thành thị hiện nay chỉ bằng khoảng 50%. Một số chỉ tiêu về cải thiện đời sống đạt được còn thấp so với mục tiêu đề ra, đặc biệt là chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm 2000, số trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn 33%, phần lớn là thuộc các gia đình nghèo, tỷ lệ phát triển dân số ở nhóm người nghèo cao (trên mức trung bình 1,5% của cả nước), tỷ lệ người biết chữ ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa mới đạt khoảng 50%, ở nông thôn chỉ khoảng 42% số hộ gia đình được dùng nước sạch và 20% có hố xí hợp vệ sinh. Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai, bão lụt, hạn hán, mất mùa khoảng từ 1 - 1,2 triệu người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và miền núi phía Bắc. Bình quân hàng năm có khoảng 20.000 - 25.000 hộ tái nghèo đói. ở một số vùng có những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói rất đặc thù. Vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là do điều kiện địa lý phức tạp và khó khăn, cơ sở hạ tầng thiếu và yếu kém, trình độ học vấn thấp, sinh đẻ nhiều, tập quán canh tác và tập tục lạc hậu, khó tiếp cận thông tin; vùng đồng bằng sông Hồng do đông dân, thiếu đất; vùng đồng bằng sông Cửu Long do chuyển nhượng ruộng đất nên 17 khoảng 10 - 12% tổng số hộ nông dân nghèo mất đất sản xuất; vùng Duyên Hải miền Trung thường xuyên bị thiên tai, bão lụt. 2.2 Tình hình tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua 2.2.1. Hỗ trợ vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước. Hiện nay hỗ trợ vốn từ ngân sách Nhà nước cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo bao gồm: Vốn giải quyết việc làm (chương trình 120), vốn thực hiện chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc (chương trình 327) vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn (chương trình 135), các khoản trợ cấp thiên tai và hỗ trợ phát triển nông thôn khác... trong đó nòng cốt là vốn giải quyết việc làm, vốn chương trình 135, vốn chương trình 327. Nhìn chung một số chương trình, dự án gắn với xoá đói giảm nghèo thời gian vừa qua được lồng ghép với nhau. Các chương trình và dự án gồm một số mục tiêu hướng vào việc nâng cao mức sống nói chung. Song nhìn tổng thể, từng chương trình và dự án có một tác động nhất định đến việc hỗ trợ cho người nghèo, vùng nghèo ở nước ta 2.2.1.1. Vốn giải quyết việc làm thực hiện qua kho bạc Nhà nước. Việt Nam là một trong số các nước phát triển dân số nhanh, đầu thế kỷ mới chỉ có 12 - 13 triệu người, hiện nay là gần 80 triệu người, tỷ lệ tăng dân số nhanh dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng và bức bách. Vì vậy giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta đang là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách mang tính chất tình thế, vừa cơ bản lâu dài mang tính chiến lược. Để thực hiện mục tiêu này có nhiều giải pháp khác nhau, trong đó lập Quỹ quốc gia giải quyết việc làm theo tinh thần Nghị quyết số 120/HĐBT (nay là Chính phủ) ngày 11/4/1992 là một giải pháp hết sức quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu chủ yếu sau đây: - Hỗ trợ vốn dưới hình thức cho vay tài trợ cho các tổ chức, đơn vị kinh tế, hộ gia đình để phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm mới, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực quốc gia, cải thiện đời sống cho người lao động. - Hỗ trợ một phần về tài chính dưới hình thức cấp phát cho các trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, thực hiện các chương trình dạy nghề gắn liền với sản xuất và các chương trình khác. - Chương trình quốc gia giải quyết việc làm của nước ta là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với mục tiêu góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và giải quyết việc làm, một vấn đề mà mọi nền kinh tế đều phải quan tâm giải quyết. Qua 8 năm hoạt động, chương trình đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội và kích thích tăng trưởng kinh tế cụ thể trên các mặt sau đây: 18 Qua bảng số 1 ta thấy từ nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp từ năm 1992 đến 31/12/2000 là 1414 tỷ đồng trong đó vốn cân đối trong kế hoạch ngân sách Nhà nước là 1289 tỷ đồng và vốn viện trợ nhân đạo của Chính phủ Tiệp Khắc (cũ) là 125 tỷ đồng; hệ thống kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ tài chính đã thực hiện cho vay hàng nghìn dự án với doanh số 4261 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 3.506.602 người lao động, bình quân mỗi năm tạo được việc làm cho khoảng 20-25% tổng số lao động cần được giải quyết. Vốn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm là một biện pháp tài chính quan trọng để kích thích sản xuất, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, tận dụng các điều kiện sẵn có về kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn. Từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng phát triển các loại cây con có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, các ngành nghề thu hút nhiều lao động như sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, may mặc, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng... Thông qua quỹ quốc giải quyết việc làm, người lao động đã tạo được việc làm có thu nhập, đời sống vật chất tinh thần được nâng cao. Nhiều người đã chủ động bỏ vốn đầu tư kinh doanh, dám nghĩ dám làm, vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội. Đặc biệt là các dự án vay vốn của các tổ chức đoàn thể quần chúng như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh... có ý nghĩa rất quan trọng, làm phong phú thêm các hoạt động mang tính chất kinh tế - xã hội. Cũng từ hoạt động của quỹ quốc gia giải quyết việc làm, các tổ chức này đã lồng ghép vào các chương trình xã hội khác một cách có hiệu quả như các chương trình "dân số - sức khoẻ - môi trường", chương trình phòng chống các tệ nạn xã hội, chương trình phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, phong trào thanh niên lập nghiệp... Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động những năm qua, quỹ cho vay giải quyết việc làm đã bộc lộ và nảy sinh một số tồn tại. Các tồn tại và nguyên nhân dẫn đến là: Thứ nhất: Việc duyệt dự án cho vay của Ban chỉ đạo địa phương còn chậm, bên cạnh đó việc thẩm định cấp tín dụng của kho bạc Nhà nước có lúc chưa kịp thời. Nhiều dự án nhận tiền vay mất cơ hội đầu tư. Thứ hai: Công tác quản lý vốn vay của các chủ dự án còn buông lỏng thiếu sự kiểm tra việc sử dụng vốn của từng hộ - một trong những nguyên nhân gây ra hiệu quả sử dụng vốn còn thấp... Thứ ba: Qua số liệu biểu số 1 cho biết, tính đến cuối năm 2000, ngân sách Nhà nước đã sử dụng 4261 tỷ đồng để cấp tín dụng tạo việc là cho 3.506.602 người. Bình quân suất vốn đầu tư chỉ chiếm xấp xỉ 1.300.000 đồng trên một việc làm mới là rất thấp. Con số này theo tính toán của các chuyên gia kinh tế là trên 5 triệu đồng cho một việc làm mới. 19 Thứ tư: Nợ quá hạn cho vay có xu hướng gia tăng: năm 1999 là 12,9% dư nợ nhưng năm 2000 chiếm 13,8%. Nguyên nhân tình trạng nợ quá hạn ngày càng gia tăng có thể có nhiều vừa chủ quan, vừa khách quan. Ngoại trừ yếu tố khách quan như thiên tai, rủi ro... thì không ít nguyên nhân do chủ quan của phía các chủ thể điều hành, xét duyệt các dự án. Thủ tục cấp tín dụng qua nhiều khâu, nhiều công đoạn đã tưởng chừng như chặt chẽ nhưng thực chất là phức tạp, hình thức sơ hở trong nội dung. Trong khi có nhiều thành viên tham gia quản lý nguồn vốn nhưng trách nhiệm không xuyên suốt. Qua khảo sát nhiều địa phương cho thấy việc xét duyệt dự án thường do ngành lao động đảm nhận. Những kiểm tra vốn vay và thu nợ dành riêng cho khobạc Nhà nước "ôm" trọn gói. Đã nhiều trường hợp nợ qúa hạn phát sinh, kho bạc phải "vác cặp đi xin" ý kiến của bạn chỉ đạo và nhờ sự ủng hộ của các thành viên xét cấp vốn. Một nguyên nhân khác cần được quan tâm và lý giải là do áp dụng lãi suất (hiện nay là 0,5%/tháng) cho vay ưu đãi dẫn đến không khuyến khích người vay trả nợ. Thậm chí một số người vay còn cho rằng thà chịu trả lãi suất nợ quá hạn 0,5%/tháng còn hơn là trả rồi đi vay ngân hàng chịu lãi suất 0,7 - 0,8%/tháng. Thứ năm: Địa bàn tiếp cận của chương trình tín dụng tạo việc làm quá rộng, trong khi đội ngũ nhân sự làm tín dụng của hệ thống kho bạc lại quá mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thứ sáu: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển cho chương trình quốc gia giải quyêt việc làm hàng năm có hạn bởi do chưa đủ cân đối ngân sách Nhà nước. Trong khi đó nhu cầu dự án ngày càng lớn, làm cho vốn cho vay dàn quá mỏng, không đáp ứng được những dự án có hiệu quả thu hút nhiều lao động. 2.2.1.2. Vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn (gọi tắt là chương trình 135) Sau 10 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, dự án và các giải pháp nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc. Bên cạnh những chủ trương, chính sách chung của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc miền núi, ngày 31/07/1998, thủ tướng chính phủ đã có quyết định 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu và vùng xa (gọi tắt là chương trình 135). Đây là một chương trình được cụ thể hoá từ nội dung Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng thành một chương trình kinh tế xã hội tổng hợp để vực dậy vùng khó khăn nhất của đất nước ta với mục tiêu tổng quát là "Nâng cao nhanh đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nuớc; góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng". Mục tiêu của chương trình gồm 2 giai đoạn: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan