Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu ...

Tài liệu ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô

.PDF
145
809
69

Mô tả:

1 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1.1 Giới thiệu Cùng với chính sách tài khóa, CSTT giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm (Cochrane, 1998; Mishkin, 2002; Berument & Dincer, 2008). Một sự thay đổi trong lãi suất điều hành của NHTW sẽ có tác động đến lãi suất thương mại ngắn hạn, dài hạn của hệ thống ngân hàng, và tác động lên các hoạt động kinh tế. Chẳng hạn, khi lãi suất thương mại ngắn hạn và dài hạn giảm xuống, các hộ gia đình sẽ sẵn sàng hơn trong việc tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ, các doanh nghiệp sẽ ở vào vị thế sẵn sàng hơn để thực hiện việc đầu tư nhằm mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp cũng sẽ gia tăng việc thuê mướn nhân công và thúc đẩy sản xuất. Kết quả thông thường là thất nghiệp sẽ giảm đi, tài sản của các gia đình sẽ gia tăng, và kinh tế sẽ tăng trưởng. Bên cạnh đó, CSTT cũng có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát (Chowdhury và cộng sự, 1995; Kahn và cộng sự, 2002; Bhuiyan & Lucas, 2007; Berument & Dincer, 2008). Khi lãi suất giảm, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ gia tăng có xu hướng thúc đẩy tiền lương và các chi phí khác tăng theo, bởi nhu cầu cao hơn đối lao động và nguyên liệu, máy móc cần thiết cho sản xuất. Hơn nữa, diễn biến của CSTT sẽ tạo ra kỳ vọng về cách thức và kết quả mà nền kinh tế sẽ vận hành trong tương lai, trong đó có kỳ vọng về giá cả và tiền lương, và những kỳ vọng này sẽ tác động trực tiếp lên lạm phát hiện tại. Những phân tích trên về vai trò của CSTT đối với thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm cũng như tác động đến lạm phát chỉ mới xem xét trong điều kiện của một nền kinh tế đóng. Trong một nền kinh tế mở, mọi thứ không chỉ dừng lại ở đó. CSTT thắt chặt đi kèm với sự gia tăng lãi suất trong nước không chỉ tác động đến các nhân tố nội địa mà còn cả những yếu tố ở bên ngoài biên giới quốc gia (Romer, 1993; Rogoff, 2003; Woodford, 2007; Mishkin, 2009). Sự gia tăng này có thể đem lại cho các nhà đầu tư 2 nước ngoài một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn khi đầu tư vào các tài sản trong nước. Điều đó có nghĩa là những tài sản nội địa (theo đồng nội tệ) sẽ hấp dẫn hơn, do đó mà cán cân vốn sẽ biến động. Kết quả là đồng nội tệ có thể tăng giá, làm giảm giá của hàng nhập khẩu và tăng giá của hàng xuất khẩu, ảnh hưởng đến cán cân thương mại nói riêng và cán cân thanh toán nói chung. Đến lượt nó, việc giảm giá hàng nhập khẩu và tăng giá hàng xuất khẩu có thể kéo giảm đà tăng giá của hàng hóa và lạm phát trong nước. Việc gia tăng các nguồn vốn chảy vào có thể sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Nói cách khác, có thể độ mở nền kinh tế có vai trò trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô. Như vậy, các lý thuyết kinh tế đã thừa nhận độ mở của nền kinh tế có ảnh hưởng đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô. Về mặt thực nghiệm, trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu đề cập đến tác động này. Các nghiên cứu của Karras (1999a, 1999b, 2001), Berument và Dogan (2003), Işık và cộng sự (2005), Işık và Acar (2006), Berument và cộng sự (2007) đã cho thấy vai trò của độ mở đối với tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và tỷ giá hối đoái, ở các quốc gia phát triển và cả đang phát triển. Tuy nhiên, có ít nhất hai vấn đề mà những nghiên cứu thực nghiệm được tìm thấy chưa thể trả lời thỏa đáng. Thứ nhất, CSTT không chỉ có tác động lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và tỷ giá hối đoái ở các quốc gia mà còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc làm, giảm thất nghiệp; duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính; cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và nhiều tác động khác, theo Fry và cộng sự (2000), Mishkin (2004) hay Bordo (2007). Như vậy, độ mở nền kinh tế sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các tác động này (tức tác động lên thất nghiệp, cán cân thanh toán, sự ổn định của hệ thống tài chính và nhiều mục tiêu khác) của CSTT? 3 Thứ hai, ở các quốc gia chuyển đổi - đối tượng chưa có nghiên cứu nào thực hiện - thì có hay không sự ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô; nếu có thì sự tác động này diễn ra như thế nào, giống hay khác với tác động này ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển khác. Trên cơ sở các nhận định đó, luận án “Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô” là sự bổ sung cần thiết vào các nghiên cứu mang tính thực nghiệm đó. Luận án này sẽ tiến hành đánh giá tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi1, trong đó có Việt Nam dưới ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế. 1.2 Các nghiên cứu liên quan đến hướng nghiên cứu của luận án Tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô dường như là một đề tài hấp dẫn, bởi những nghiên cứu theo hướng này được thực hiện với số lượng lớn và thực sự đa dạng. Tuy nhiên, đánh giá ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động này vẫn còn một khoảng trống để các nghiên cứu thực nghiệm khác có thể thực hiện. Một trong những nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô được ghi nhận là Karras (1999a), đây có thể xem là nghiên cứu mở đường cho những nghiên cứu về sau theo hướng này. Trong nghiên cứu này, Karras (1999a) chọn mẫu số liệu gồm 38 quốc gia, cả phát triển và đang phát triển, sử dụng hai thước đo bao gồm tỷ lệ (XK+NK)/GDP và tỷ lệ NK/GDP để đại diện cho độ mở nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ mở nền kinh tế càng lớn thì tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế càng yếu, nhưng tác động của CSTT lên lạm phát sẽ càng mạnh hơn. 1 Như đã trình bày, CSTT không chỉ tác động lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp, tại sao luận án chỉ đo lường ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên ba yếu tố này xin được làm rõ ở phần 1.6 chương 1 (Đối tượng và phạm vi nghiên cứu). 4 Cũng trong năm 1999, Karras tiếp tục công bố một nghiên cứu khác theo hướng này. Lần này Karras (1999b) sử dụng dữ liệu của 37 quốc gia, tiến hành đo lường ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tỷ giá hối đoái. Tác giả rút ra kết luận rằng trong điều kiện độ mở nền kinh tế càng lớn, thì tác động của CSTT lên tỷ giá hối đoái càng yếu đi. Karras (2001) tiếp tục là một nghiên cứu về mối quan hệ giữa độ mở nền kinh tế và tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế. Mẫu nghiên cứu gồm 8 quốc gia (Úc, Canada, Đức, Italia, Nhật Bản, Nam Phi, Anh và Mỹ) trong giai đoạn quý 1/1960 đến quý 4/1993. Kết quả một lần nữa cho thấy độ mở của nền kinh tế càng lớn thì ảnh hưởng của CSTT lên tăng trưởng kinh tế càng nhỏ. Nghiên cứu này của Karras tiếp tục củng cố kết quả mà Karras (1999a) đã đạt được khi tiến hành với mẫu nghiên cứu khác. Sau các nghiên cứu của Karras2, các nghiên cứu tiếp theo của hướng này lặp lại các đo lường mà Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện3, nhưng với các mẫu số liệu khác, trong những khoảng thời gian khác. Có thể kể ra như các nghiên cứu của Berument và Dogan (2003), Işık và cộng sự (2005), Işık và Acar (2006), Berument và cộng sự (2007) hay Coric và cộng sự (2012). Kết quả từ các nghiên cứu này có cả đồng nhất và không đồng nhất với các nghiên cứu mà Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện. Có thể thấy rằng số lượng các nghiên cứu theo hướng này còn tương đối ít. Mặt khác, các nghiên cứu từ Việt Nam khi đánh giá tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô như Nguyễn Quỳnh Hoa (2008), Bùi Duy Phú (2009), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2010), Hoàng Xuân Bình (2011), Nguyễn Khắc Quốc Bảo (2013), 2 Cho đến thời điểm các nghiên cứu của Karras (1999a, 1999b, 2001) được xuất bản thì tác giả chưa tìm thấy những nghiên cứu khác được công bố trước đó cùng chủ đề này. Trong bài nghiên cứu của mình, Karras (1999a, 1999b, 2001) cũng không cho thấy rằng có những nghiên cứu trước cùng chủ đề đã được công bố. 3 Cho đến thời điểm hoàn thành luận án này, tác giả chưa tìm thấy những nghiên cứu có hướng tiếp cận chủ đề này khác với cách tiếp cận của Karras (1999a, 1999b, 2001). Vì vậy, quan điểm cho rằng “các nghiên cứu tiếp theo của hướng này lặp lại các đo lường và Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện” có thể thay đổi trong trường hợp tác giả tìm thấy những nghiên cứu có cách tiếp cận khác với cách tiếp cận của Karras (1999a, 1999b, 2001). 5 Nguyễn Thị Ngọc Trang và cộng sự (2013) đều chưa xem xét đến yếu tố độ mở kinh tế. 1.3 Khe hở nghiên cứu Về mặt lý thuyết, các nhà kinh tế vẫn còn nhiều tranh cãi về tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, trong điều kiện không xem xét và có xem xét đến yếu tố độ mở của nền kinh tế4. Khi đề cập đến vai trò của CSTT, như nghiên cứu này sẽ chỉ ra, vẫn tồn tại ít nhất bốn trường phái lớn có những quan điểm khác nhau về vấn đề này (trường phái cổ điển, trường phái Keynes, trường phái các nhà kinh tế học tiền tệ và trường phái các nhà kinh tế học tân cổ điển)5. Trong điều kiện của nền kinh tế mở, hai luồng quan điểm trái ngược nhau của các nhà kinh tế về tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác vẫn tồn tại song hành (Romer, 1993; Rogoff, 2003; Ball, 2006; IMF, 2006; Kohn, 2006; Yellen, 2006; Papademos, 2007; Woodford, 2007; Mishkin, 2009). Về mặt thực nghiệm, những nghiên cứu được tìm thấy đã xem xét những khía cạnh: (i) ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên lạm phát, tăng trưởng kinh tế; và (ii) ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tỷ giá hối đoái. Ngoài các nghiên cứu của Karras (1999a, 1999b, 2001), các nghiên cứu tiếp theo dù sử dụng số liệu khác, trong những khoảng thời gian khác song chỉ kiểm định những mối quan hệ mà Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện trước đó. Như vậy, mối quan hệ giữa độ mở nền kinh tế và tác động của CSTT lên thất nghiệp, cán cân thanh toán quốc tế và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác vẫn chưa được xem xét. Đối với nghiên cứu về tác động của CSTT đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát dưới ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế, số lượng nghiên cứu ở phạm vi toàn cầu còn khá hạn chế. Hơn nữa, các nghiên cứu này được thực hiện đối với các quốc gia phát triển và 4 5 Các tranh luận này được trình bày chi tiết ở mục 2.2 và 2.3 chương 2. Được trình bày chi tiết ở mục 2.2 chương 2. 6 đang phát triển mà chưa có nghiên cứu nào được thực hiện đối với các quốc gia chuyển đổi, vốn có những đặc thù so với các quốc gia khác không thuộc nhóm này. Bên cạnh đó, điều đáng quan tâm là các nghiên cứu thực nghiệm đã không đem lại một kết quả nhất quán, nghĩa là khó có thể sử dụng một nghiên cứu thực nghiệm nào đó để diễn giải cho một mẫu quan sát khác. Chẳng hạn, Berument và cộng sự (2007) đi đến kết luận rằng tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có thể còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác mà tác giả chưa đề cập đến. Nghiên cứu đã không rút ra được kết luận mang tính tổng quát nào về các mối quan hệ này. Kết quả nghiên cứu đối với trường hợp Thổ Nhĩ Kỳ của Berument và Dogan (2003) cũng có phần không đồng nhất với kết quả nghiên cứu ban đầu của Karras (1999a). Như vậy, không có một kết quả nhất quán cho các trường hợp đã nghiên cứu, và mang lại cơ hội cho những nghiên cứu thực nghiệm mới. Một vấn đề nữa cũng tạo ra cơ hội để luận án này được thực hiện, đó là tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu nào ở trong nước xem xét sự thay đổi trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô trong điều kiện có quan tâm đến độ mở của nền kinh tế. Những đề tài được tìm thấy thường tập trung nghiên cứu về tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, các phương thức truyền dẫn của CSTT ở Việt Nam… mà chưa xem xét đến yếu tố độ mở của nền kinh tế trong các tác động này của CSTT (Nguyễn Quỳnh Hoa, 2008; Bùi Duy Phú, 2009; Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 2010; Hoàng Xuân Bình, 2011; Nguyễn Khắc Quốc Bảo, 2013; Nguyễn Thị Ngọc Trang và cộng sự, 2013). Dựa vào những phân tích trên, luận án này sẽ tập trung vào nghiên cứu ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đối với tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, bao gồm: tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi. Từ đó, những gợi ý chính sách rút ra từ kết quả nghiên cứu có thể hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, trong đó có NHNN trong việc điều hành CSTT thời gian tới. 7 Như vậy, có thể thấy rằng còn nhiều khe hở để luận án này được thực hiện. Tuy vậy, để luận án có ý nghĩa cao hơn, kết quả của luận án có thể là một sự đóng góp thực sự nếu có thể chứng minh được rằng, ngoài việc kiểm tra lại (vì đã được thực nghiệm trước đây) ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát thì việc kiểm tra ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp (chưa được thực nghiệm trước đây) ở các quốc gia chuyển đổi là một nghiên cứu cần thiết. Sự cần thiết của nghiên cứu này khi và chỉ khi không thể dùng kết quả đánh giá ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát để suy ra ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp một cách chắc chắn. Thật vậy, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp vốn là những đối tượng có mối quan hệ với nhau khá mật thiết. Định luật Okun là minh chứng tiêu biểu cho quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp (Okun, 1962), còn sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp theo mô hình đường cong Phillips (Phillips, 1958) là minh chứng cho mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát. Tuy nhiên, không thể lấy kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế hay lạm phát để suy ra kết quả về ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên thất nghiệp. Việc suy luận đơn giản có thể sẽ dẫn đến sai lầm bởi ít nhất hai lý do sau: Thứ nhất, nhiều lý thuyết cho rằng có sự tồn tại của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (nonaccelerating inflation rate of unemployment - NAIRU), tức mức thất nghiệp thấp nhất của một nền kinh tế mà không có sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát (Friedman, 1968; Phelps, 1968; King, 1999b). Các lý thuyết này cho rằng trong dài hạn thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ trở về mức thất nghiệp tự nhiên và sẽ được quyết định duy nhất bởi các yếu tố thuộc về phía cung lao động (Pichelmann & Schuh, 1997) hay được quyết định bởi mức thuế thu nhập cá nhân6, chi phí người sử dụng lao động phải trả, các quy định về thị trường đối với hàng hóa được sản xuất, tỷ lệ tham gia công đoàn và lợi ích thay 6 Tác giả dùng từ tax wedge, tức là sự chênh lệch giữa mức thu nhập mà người lao động đem về nhà so với mức mà người sử dụng lao động trả cho họ. 8 thế của thất nghiệp (Gianella và cộng sự, 2008). Khi đó, không thể dùng tăng trưởng kinh tế hay lạm phát để suy ra thất nghiệp. Điều đó có nghĩa rằng tăng trưởng kinh tế cao không phải bao giờ cũng là câu trả lời chắc chắn của tình trạng thất nghiệp thấp. Còn đường Phillips dài hạn cho rằng nếu một quốc gia cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tự nhiên, thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ vẫn ở mức tự nhiên mà tỷ lệ lạm phát lại bị nâng lên liên tục, tức không có đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn. Về mặt thực nghiệm, Malley và Molana (2007) trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế chỉ ra rằng ở Đức thì mối quan hệ ngược chiều này là rõ ràng, còn 6 quốc gia còn lại của nhóm G77 cho thấy tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp là tương quan thuận, tức tăng trưởng kinh tế cao cũng đồng thời tồn tại thất nghiệp cao. Hay nghiên cứu về Macedonia, một quốc gia chuyển đổi cho thấy không tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp (Sadiku, 2015). Trong khi đó, Aghion và Howitt (1994) cho rằng tăng trưởng kinh tế nhờ sự phá hủy sáng tạo (creative destruction) sẽ làm thất nghiệp gia tăng. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác cũng cho thấy không có sự đánh đổi đáng kể giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn như Gordon (1996), Nishizaki (1997), Apel và Jansson (1999) hay Kajuth (2014). Thứ hai, cần chú ý ảnh hưởng của độ mở đến thất nghiệp ở các quốc gia. Nếu đơn giản cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến thất nghiệp giảm đồng nghĩa với việc không xem xét đến vai trò của độ mở nền kinh tế (và rất nhiều yếu tố khác). Khả năng thúc đẩy việc làm thông qua tăng trưởng kinh tế trong một nền kinh tế đóng và trong một nền kinh tế mở là khác nhau. Độ mở có thể góp phần giúp thất nghiệp giảm (Felbermayr và cộng sự, 2011a); có thể làm thất nghiệp gia tăng trong ngắn hạn, sau đó giảm dần trong dài hạn (Dutt và cộng sự, 2009) hay độ mở cũng có thể làm thất nghiệp gia tăng (Wajid & Kalim, 2013). Như vậy, quan điểm cho rằng thương mại tự do có thể 7 Gồm Mỹ, Canada, UK, Pháp, Đức, Ý và Nhật Bản. 9 làm chi phí sản xuất thấp hơn, ít các quy định bảo hộ hơn và sự cạnh tranh giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài gay gắt hơn có thể làm thất nghiệp gia tăng; trong khi quan điểm ngược lại cho rằng thương mại tự do giúp mở rộng thị trường xuất khẩu, kết quả là nhu cầu về hàng hóa cao hơn có thể giúp nhiều người có việc làm hơn (Davidson và cộng sự, 1999). Vì vậy, việc thực nghiệm ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp là một nghiên cứu hoàn toàn mới và cần thiết. Kết quả này là điểm mới lớn nhất, cũng là đóng góp quan trọng nhất của luận án đối với hướng nghiên cứu này. 1.4 Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở phân tích khe hở nghiên cứu, luận án này được thực hiện nhằm các mục tiêu như sau:  Mục tiêu 1. Đánh giá sự thay đổi trong tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999-2003.  Mục tiêu 2. Đánh giá sự thay đổi trong tác động của CSTT lên lạm phát ở các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999-2003.  Mục tiêu 3. Đánh giá sự thay đổi trong tác động của CSTT lên thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999-2003. 1.5 Câu hỏi nghiên cứu Sự thay đổi trong tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp thể hiện qua việc tác động này mạnh lên hay yếu đi khi độ mở kinh tế ở các mức độ khác nhau (lớn hoặc nhỏ). Vì vậy, để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu, tức đánh giá được sự thay đổi trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các quốc gia chuyển đổi dưới ảnh hưởng 10 của độ mở nền kinh tế trong thời gian nghiên cứu, luận án cần trả lời được các câu hỏi sau:  Câu hỏi 1: Tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia chuyển đổi sẽ thay đổi như thế nào khi độ mở của nền kinh tế càng lớn (hoặc càng nhỏ)?  Câu hỏi 2: Tác động của CSTT lên lạm phát ở các quốc gia chuyển đổi sẽ thay đổi như thế nào khi độ mở của nền kinh tế càng lớn (hoặc càng nhỏ)?  Câu hỏi 3: Tác động của CSTT lên thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi sẽ thay đổi như thế nào khi độ mở của nền kinh tế càng lớn hoặc (hoặc càng nhỏ)? 1.6 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án này là sự thay đổi trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô của các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999 – 2013, bao gồm tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp, dưới ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế. Trong nghiên cứu này, luận án chưa xem xét ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến sự thay đổi trong tác động CSTT lên sự ổn định của hệ thống tài chính, cán cân thanh toán quốc tế và nhiều mục tiêu khác của CSTT đơn thuần vì lý do hạn chế về số liệu8. Đây là một trong những hạn chế của nghiên cứu này. Tác giả hi vọng có thể tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về chủ đề này để hoàn thiện hơn đánh giá ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các quốc gia chuyển đổi trong thời gian tới, khi số liệu cho phép.  Phạm vi nghiên cứu: 8 Tác giả đã tìm kiếm các nguồn số liệu trong khả năng về thời gian và tài chính nhưng các số liệu được tìm thấy để tính toán các chỉ tiêu về sự ổn định tài chính, cán cân thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu về độ lớn của mẫu để bảo đảm nghiên cứu định lượng có ý nghĩa thống kê. 11 Với mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, luận án chọn mẫu gồm 169 quốc gia chuyển đổi theo phân loại của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) để tiến hành nghiên cứu, bao gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Nga, Albania, Azerbaijan, Bulgaria, Séc, Estonia, Hungaria, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Rumania, Slovakia, Slovenia và Ukraina. Tuy nhiên, do số liệu của Lithuania về tăng trưởng kinh tế không đầy đủ nên mẫu nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế chỉ gồm 15 quốc gia. Sự tương đồng của Việt Nam và các quốc gia trong mẫu10 là cơ sở để chọn mẫu nghiên cứu, cũng như những hàm ý chính sách đối với Việt Nam có thể rút ra từ kết quả nghiên cứu này. 1.7 Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng để ước lượng ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp. Để thực hiện được phương pháp này, đòi hỏi phải xây dựng được mô hình nghiên cứu tin cậy và phương pháp ước lượng phù hợp với mô hình và dữ liệu sử dụng. - Mô hình nghiên cứu Luận án sử dụng mô hình do Karras (1999a, 1999b, 2001) xây dựng để đo lường ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Đối với trường hợp đo lường ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên thất nghiệp, luận án dựa theo mô hình của Karras (1999a, 1999b, 2001), tuy nhiên có những điều chỉnh cho phù hợp. Kiểm định về sự phù hợp của mô hình mà 9 Việc chỉ chọn 16 quốc gia chuyển đổi mà không phải tất cả các quốc gia chuyển đổi một lần nữa vì lý do hạn chế về số liệu. Việc mở rộng mẫu nghiên cứu chưa thể thực hiện ở thời điểm này do nguồn số liệu chưa cho phép. Tuy vậy, số liệu bị thiếu của các quốc gia chuyển đổi chủ yếu ở các năm trước đây. Trong thời gian gần đây thì số liệu của các quốc gia chuyển đổi đã được thu thập tốt hơn. Do đó, những nghiên cứu sau này có thể giải quyết giới hạn này của luận án. Mặc dù vậy, như trình này ở mục 3.3.3 (Thu thập dữ liệu) thì mẫu của luận án vẫn bảo đảm kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê. 10 Được trình bày ở mục 3.3.3 (Thu thập dữ liệu). 12 luận án thực hiện cho thấy có thể sử dụng mô hình này để đo lường ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp, trường hợp các quốc gia chuyển đổi. - Phương pháp ước lượng Dữ liệu được luận án sử dụng tập hợp của 15 - 16 quốc gia chuyển đổi, trong giai đoạn 1999 – 2013 là kiểu dữ liệu bảng (panel data). Vì vậy, luận án sử dụng phương pháp ước lượng Moment tổng quát hệ thống 2 bước (System Generalized method of moments two-step – SGMM two-step) bởi phương pháp này giải quyết được một số nhược điểm của dữ liệu và mô hình như hiện tượng tự tương quan, phương sai sai số thay đổi, và đặc biệt là vấn đề nội sinh mà các phương pháp khác, mặc dù phù hợp với kiểu dữ liệu bảng như bình phương bé nhất thông thường thô (Pooled OLS), mô hình tác động cố định (Fixed effect model) và mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effect model) nhưng không xử lý được11. Bên cạnh phương pháp định lượng được sử dụng chủ yếu, luận án cũng sử dụng thêm các phương pháp phân tích dựa trên thống kê mô tả (tập trung ở chương 5) để so sánh, chỉ ra những điểm tương đồng hay khác biệt giữa Việt Nam với kết quả ước lượng từ mô hình, nhằm có cơ sở để đưa ra một số hàm ý chính sách đối với việc hoạch định và điều hành chính sách vĩ mô nói chung và CSTT nói riêng ở các quốc gia chuyển đổi, có liên hệ với thực tế Việt Nam. 1.8 Kết quả đạt được và những đóng góp mới Kết quả ước lượng cho thấy trong điều kiện các quốc gia ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, độ mở nền kinh tế có vai trò quan trọng đối với tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô. Độ mở nền kinh tế càng lớn, tác động của CSTT lên tăng trưởng và thất nghiệp giảm đi; trong khi đó tác động của CSTT lên lạm phát được khuyếch đại hơn. Những ảnh hưởng này của độ mở kinh tế, như các lý thuyết đã 11 Giải thích về sự lựa chọn phương pháp ước lượng và mô hình nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết trong chương 2. 13 chỉ ra, chủ yếu là do các yếu tố có nguồn gốc nhập khẩu (nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hóa trong nước và hàng tiêu dùng nhập khẩu). Điểm mới quan trọng nhất là luận án đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đối với ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi. Các nghiên cứu trước đây (được tìm thấy) chưa thực hiện đối với hướng này, ở phạm vi trong và ngoài nước. Hơn nữa, việc vận dụng các lý thuyết kinh tế hiện có để xây dựng giả thuyết của mô hình về ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp cũng là một sự đóng góp về mặt lý thuyết đối với mối quan hệ này, điều chưa được đề cập một cách có hệ thống trước đây. Bên cạnh đó, phương pháp ước lượng mà luận án áp dụng cũng là một điểm mới so với các nghiên cứu trước đây về cùng chủ đề này. Phương pháp này được các lý thuyết kinh tế lượng và các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá là phù hợp với kiểu dữ liệu và mô hình của luận án, có thể đem lại kết quả ước lượng tốt hơn. Từ các điểm mới quan trọng của luận án, nghiên cứu này là sự đóng góp về mặt thực nghiệm cho việc điều hành CSTT ở các quốc gia chuyển đổi, đặc biệt là đối với một trong những mục tiêu quan trọng của CSTT: thất nghiệp. Kết quả của nghiên cứu này đem lại cơ sở cho thấy việc điều hành CSTT cần được hoạch định một cách thận trọng, có xem xét đến độ trễ của chính sách, đặc biệt cần chú ý đến độ mở khi hội nhập kinh tế quốc tế ở hầu hết các quốc gia là một xu hướng chủ đạo trong điều kiện hiện nay. 1.9 Kết cấu của luận án Để thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu, luận án được thiết kế thành 5 chương, bao gồm các nội dung chính như sau: Chương 1. Giới thiệu. Chương này giới thiệu các nội dung cơ bản của luận án như sự cần thiết của luận án, các nghiên cứu có liên quan, khe hở nghiên cứu, việc xây dựng mô hình và lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp, kết quả nghiên cứu và những 14 đóng góp mới của luận án. Chương này cũng trình bày các nội dung chính trong từng chương của luận án để người đọc dễ theo dõi. Chương 2. Khung lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm. Chương này trình bày các khái niệm quan trọng được sử dụng trong luận án như CSTT và độ mở của nền kinh tế. Bên cạnh đó, lý thuyết của các trường phái trên thế giới đánh giá vai trò, tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô; các quan điểm khác nhau về vai trò của độ mở nền kinh tế và ảnh hưởng của nó đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô; các bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô cũng được trình bày một cách chi tiết nhằm làm nền tảng cho việc thực hiện các chương tiếp theo. Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu. Chương này trình bày các giả thuyết nghiên cứu; các mô hình nghiên cứu sử dụng trong luận án; cách thức thu thập và nguồn dữ liệu cũng như các phương pháp ước lượng phù hợp đối với kiểu dữ liệu và mô hình của luận án nhằm đạt được kết quả ước lượng tốt nhất. Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận. Chương 4 trình bày về mô tả thống kê các biến phụ thuộc và các biến độc lập của các mô hình nghiên cứu và chi tiết kết quả ước lượng đối với từng mô hình. Ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp lần lượt được trình bày. Kết quả này cũng được tiến hành kiểm tra tính vững của ước lượng nhằm khẳng định các ước lượng của luận án là vững và đáng tin cậy. Kết quả và sự nhất quán khi kiểm định tính vững của ước lượng là cơ sở để thực hiện chương tiếp theo, liên quan đến các hàm ý chính sách đối với CSTT ở các quốc gia chuyển đổi, có liên hệ đến thực tế của Việt Nam. Chương 5. Kết luận và gợi ý chính sách. Chương này bên cạnh kết luận về kết quả ước lượng của các mô hình, sẽ tập trung vào các gợi ý đối với các nhà hoạch định chính sách, chủ yếu là CSTT ở các quốc gia chuyển đổi. Trong quá trình xây dựng và áp dụng CSTT, các NHTW cần lưu ý đến tác động có độ trễ của CSTT lên các yếu tố 15 kinh tế vĩ mô và vai trò của độ mở nền kinh tế, những tác động tích cực và tiêu cực của yếu tố này đến hiệu quả của CSTT. 16 CHƯƠNG 2. KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM Chương này trình bày một số nền tảng quan trọng về CSTT và độ mở nền kinh tế được sử dụng trong luận án, nhằm làm cơ sở cho việc trình bày các lý thuyết kinh tế của các trường phái trên thế giới liên quan đến vai trò và tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô dưới ảnh hưởng của độ mở. Bên cạnh đó, những bằng chứng thực nghiệm về tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô đã thực hiện cũng được trình bày một cách chi tiết nhằm giúp xác định hướng đi, khe hở nghiên cứu cho việc thực hiện luận án này. 2.1 CSTT và độ mở nền kinh tế 2.1.1 Mục tiêu, công cụ và cơ chế truyền dẫn của CSTT Để có cơ sở cho việc trình bày mục tiêu, công cụ và cơ chế truyền dẫn của CSTT, luận án tiến hành lượt khảo một số quan điểm của các nhà kinh tế về CSTT ở các nghiên cứu trước đây. Kahn và Jacobson (1989) cho rằng CSTT là tổng hợp các quy tắc và hành động được thực hiện bởi NHTW nhằm đạt được những mục tiêu của nó. Lattie (2000) thì cho rằng, CSTT đề cập đến những hành động được thực hiện bởi NHTW, để tác động đến khối tiền và tín dụng trong nền kinh tế. CSTT hoạt động thông qua hệ thống tài chính – mà chủ yếu là các NHTM – bằng việc kiểm soát tiền gửi và tín dụng, NHTW sẽ tác động đến các hoạt động trong nền kinh tế. Đơn giản hơn, CSTT là bất kỳ một chính sách gì có liên quan đến cung tiền, theo Labonte (2008) hay là các cách quản lý cung tiền trong nền kinh tế như Zealand (2009) quan niệm. Còn với Mathai (2009), CSTT có thể tóm gọn là khái niệm được dùng để chỉ việc điều chỉnh cung tiền trong nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu kết hợp là sự ổn định của lạm phát và tăng trưởng kinh tế. 17 Như vậy, có thể nói rằng CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình, điều chỉnh khối tiền cung ứng hoặc các mức lãi suất chính sách nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội đã đề ra. Rõ ràng có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi thế nào là CSTT. Nhưng các góc nhìn khác nhau này vẫn cho thấy một nguyên tắc chung, đó là: (i) CSTT được thực hiện thông qua các hoạt động của NHTW; (ii) NHTW dùng các công cụ của CSTT tác động đến các mục tiêu trung gian như khối tiền, lãi suất hay tín dụng…; và (iii) các mục tiêu trung gian này sẽ gián tiếp tác động đến các mục tiêu vĩ mô theo chiều hướng mà NHTW mong muốn đạt được. Cách nhìn nhận khác nhau về CSTT đặt ra vấn đề cần quan tâm là các mục tiêu của CSTT là gì, thực tế CSTT áp dụng ở các quốc gia có giống nhau về mục tiêu hay không? Bên cạnh đó, CSTT được vận hành như thế nào, cơ chế tác động đến các mục tiêu trung gian ra sao để NHTW có thể đạt được các mục tiêu cuối cùng của mình? 2.1.1.1 Mục tiêu của CSTT Cơ chế vận hành của CSTT là NHTW dùng các công cụ của CSTT để tác động vào các mục tiêu trung gian và qua đó tác động đến các mục tiêu vĩ mô (nhằm đạt được các mục tiêu cuối cùng của CSTT). Khi nói đến mục tiêu của CSTT, thì thường đó phải là mục tiêu cuối cùng mà CSTT mong muốn đạt được, tuy nhiên cũng cần làm rõ thêm về các mục tiêu trung gian nhằm hiểu chính xác hơn cơ chế hoạt động của CSTT. Mục tiêu cuối cùng: Mục tiêu trung gian: NHTW - Cung tiền; - Lãi suất điều hành; - Tín dụng. - Ổn định giá cả; Tăng trưởng kinh tế; Việc làm cao; Cân bằng cán cân thanh toán…; (Nguồn: Lattie, 2000) Hình 2.1 Các mục tiêu của CSTT 18 - Mục tiêu cuối cùng của CSTT Các nhà kinh tế không đạt được sự đồng thuận về các mục tiêu cuối cùng của CSTT. Holtrop (1963) cho rằng mục tiêu chính của CSTT là ổn định mức giá và ổn định tỷ giá hối đoái. Tuy vậy, những nghiên cứu gần đây cho thấy dường như mục tiêu cơ bản của CSTT trong dài hạn là ổn định giá cả, theo Kahn và Jacobson (1989); King (1999); Mishkin (1999); Ólafsson (2006) hay Orphanides (2013). Loayza và Schmidt-Hebbel (2002) trong bài nghiên cứu chuyên sâu về chức năng của CSTT và những kênh truyền dẫn của nó, cũng nhận thấy ở hầu hết các quốc gia thì CSTT có mục tiêu cơ bản là ổn định giá cả. Nhiều mục tiêu khác cũng có thể xem là nhiệm vụ mà CSTT cần phải thực hiện, như theo đuổi tình trạng thất nghiệp thấp, ổn định hệ thống tài chính và duy trì sự hoạt động bình thường của hệ thống thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, mục tiêu ổn định giá cả được nhiều quốc gia xem là mục tiêu ưu tiên của CSTT và thông thường được luật hóa trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, cũng có thể CSTT được thực hiện nhằm mục tiêu ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế bền vững và một hệ thống tài chính ổn định (Cecchetti & Krause, 2002). Trong khi đó, Mishkin (2004) thì liệt kê các mục tiêu của CSTT bao gồm: (i) thất nghiệp thấp, (ii) tăng trưởng kinh tế, (iii) ổn định giá cả, (iv) ổn định lãi suất, (v) ổn định thị trường tài chính, và (vi) ổn định thị trường ngoại hối. Có thể thấy rằng, với Mishkin thì nhiệm vụ của CSTT ở một quốc gia là khá nặng nề, bao gồm cả các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp, kiểm soát lạm phát và hàng loạt các mục tiêu cần ổn định khác. Gần đây hơn, Bordo (2007) cho rằng, ngày nay CSTT có ba mục tiêu chủ chốt, đầu tiên và quan trọng nhất là ổn định giá cả, tức duy trì ổn định một tỷ lệ lạm phát thấp; thứ hai là ổn định nền kinh tế, thường được hiểu là thất nghiệp thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; và thứ ba là ổn định hệ thống tài chính, tức vận hành hệ thống thanh toán một cách thông suốt, hiệu quả nhằm ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng tài chính. 19 Như vậy, mục tiêu của CSTT theo các nhà kinh tế là không đồng nhất. Điều đó có thể là một nguyên nhân để lý giải vì sao thực tế ở các quốc gia khác nhau, mục tiêu của CSTT cũng rất khác biệt. Nếu như Fry và cộng sự (2000) cho ta thấy sự đa dạng của các mục tiêu này ở những quốc gia trên thế giới thì ở Việt Nam hiện tại, CSTT có thể xem như nhằm một mục tiêu duy nhất được luật hóa, đó là ổn định giá cả thông qua chỉ tiêu lạm phát12. Phần trước luận án đã đề cập một cách tổng quát về một số mục tiêu cuối cùng mà một NHTW cần đạt được, phần tiếp theo sẽ xem xét cụ thể nội dung của một số mục tiêu đó, tức đạt mục tiêu đó là đạt được điều gì. + Mục tiêu ổn định giá cả Như đã đề cập, đây là mục tiêu cơ bản của CSTT mà hầu hết các NHTW trên thế giới đều hướng đến. Điều này là dễ hiểu bởi sự ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt, nằm trong mục tiêu tổng thể là sự ổn định và phát triển của các yếu tố kinh tế vĩ mô. Sự ổn định giá cả giúp các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định về tiêu dùng, đầu tư… một cách có cơ sở và đáng tin cậy hơn. Sự ổn định giá cả cũng giúp môi trường kinh tế vĩ mô trở nên dễ dự báo hơn, giúp thị trường tài chính có thể hoạt động trơn tru và hiệu quả hơn. Xa hơn nữa, nó giúp việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả, điều này là nhân tố quyết định sự phồn thịnh của xã hội trong dài hạn. Mục tiêu này thường được lượng hóa bằng chỉ số CPI. Điều lưu ý là mục tiêu ổn định giá cả hướng đến sự ổn định của giá trị tiền tệ trong dài hạn chứ không phải trong ngắn hạn, và ổn định giá cả không có nghĩa là lạm phát bằng không (0). Điều đó được giải thích là CSTT thường có độ trễ cũng như một tỷ lệ lạm phát hợp lý được cho là có tác dụng bôi trơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 12 Điều 3 Luật NHNN năm 2010 qui định: “Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”. 20 + Mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đây có thể xem là mục tiêu ưu tiên tiếp theo của CSTT ở nhiều quốc gia trên thế giới. Làm được điều này bởi CSTT có thể tác động đến chi tiêu và của cải trong xã hội. Thông qua sự thay đổi của lãi suất, NHTW có thể làm thay đổi tiết kiệm và đầu tư, tức tác động đến tăng trưởng kinh tế (Mishkin, 1996; George và cộng sự, 1999). + Mục tiêu việc làm cao Việc làm cao không chỉ là mục tiêu của CSTT, mà gần như là của tất cả các chính sách vĩ mô. Thất nghiệp là nguyên nhân của nghèo đói, của sự mất ổn định xã hội và rõ ràng, thất nghiệp cao không góp phần tăng trưởng kinh tế và sự phồn thịnh của xã hội. Mục tiêu việc làm cao có nghĩa rằng, CSTT hướng đến việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp thực tế bằng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Thông thường thì mục tiêu này và mục tiêu tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều trường hợp có thể giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp và ngược lại (Okun, 1962). Do đó, các CSTT trước hết thường hướng đến việc thúc đẩy tăng trưởng thông qua các giải pháp khuyến khích doanh nghiệp gia tăng đầu tư, người dân gia tăng tiết kiệm… có thể giúp đạt được mục tiêu việc làm cao13. + Mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái Việc duy trì tỷ giá hối đoái ổn định giúp cho các hoạt động kinh tế đối ngoại trở nên hiệu quả và ít bất trắc hơn (Auboin & Ruta, 2011). Bên cạnh đó, việc ổn định tỷ giá hối đoái có thể nằm trong mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán tổng thể cũng như dự trữ ngoại hối của quốc gia trong từng thời kỳ (Friedman và Roosa, 1967; Kandil, 2009). Do đó, ổn định tỷ hối đoái cũng là mục tiêu được CSTT ở nhiều quốc gia thực hiện. Ở Việt Nam, như đã đề cập, mục tiêu duy nhất của CSTT là ổn định giá cả, và tỷ giá hối đoái không được xem 13 Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra trường hợp tăng trưởng cao vẫn tồn tại thất nghiệp cao như Aghion và Howitt (1994), Malley và Molana (2007) hay Sadiku và cộng sự (2015).
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan