Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội ảnh hưởng của đạo đức phật giáo đối với đạo đức thanh niên ở việt nam hiện nay ...

Tài liệu ảnh hưởng của đạo đức phật giáo đối với đạo đức thanh niên ở việt nam hiện nay

.PDF
86
493
66

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ QUYÊN ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ QUYÊN ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60220301 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐẶNG THỊ LAN HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng bản thân tôi, tôi tự nghiên cứu, tự tìm hiểu và hoàn thiện luận văn trong đó có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước với những trích dẫn vá sử dụng trong giới hạn cho phép. Luận văn này chưa được công bố trên các phương tiện thông tin, cũng không trùng với bất cứ luận văn nào tại thời điểm hiện tại. Hà Nội, ngày 25 tháng 07 năm 2016 Tác giả luận văn Hoàng Thị Quyên LỜI CẢM ƠN Lời cảm ơn đầu tiên và sâu sắc của tôi xin được dành gửi tới PGS.TS Đặng Thị Lan - người đã quan tâm và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn, giúp tôi có thêm nhiều kiến thức về vấn đề ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với thanh niên hiện nay cũng như giúp tôi rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Triết học, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi, dành nhiều công sức giảng dạy, hướng dẫn giúp đỡ chúng tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình và bạn bè đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và nghiên cứu trong suốt thời gian qua. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài, song không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự cảm thông và đóng góp ý kiến của quý các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và những người quan tâm đến những vấn đề được trình bày trong luận văn. Xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Hoàng Thị Quyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ SỰ DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM.....................................................................................................10 1.1. Một số nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo .................................................10 1.2. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ...........................................................36 Chương 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ..........................43 2.1. Khái quát thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay ............................43 2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến việc định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên ..................................................................................................................45 2.3. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo với việc hình thành niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức cho thanh niên .....................................................................................48 2.4. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo với việc điều chỉnh hành vi đạo đức của thanh niên ..................................................................................................................54 2.5. Một số khuyến nghị nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức phật giáo đối với đạo đức thanh niên hiện nay ........................................................................................................ 65 KẾT LUẬN ..............................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................75 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT CNXH : Chủ nghĩa xã hội CLB : Câu lạc bộ Nxb : Nhà xuất bản Tp : Thành phố MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đạo Phật là một hình thái triết học, tôn giáo và đạo đức ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên, được truyền vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng được “Việt Nam hóa” cho phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam, văn hóa và tín ngưỡng Việt Nam, có sức sống lâu dài và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, với những tư tưởng giáo lý gần gũi với tín ngưỡng, phong tục, tập quán của dân tộc nên Phật giáo đã nhanh chóng hội nhập với văn hóa Việt Nam. Ở nước ta, Phật giáo và tư tưởng dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, ban đầu mối quan hệ này là mối quan hệ hai chiều: Nếu như Phật giáo ảnh hưởng đến quá trình hình thành tư tưởng con người Việt Nam thì những phong tục tập quán, truyền thống dân tộc cũng tác động trở lại Phật giáo tạo nên một dòng Phật giáo riêng đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo vẫn là một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Nhiều người Việt Nam tuy không theo Phật giáo song vẫn tự nguyện thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức Phật giáo xem đó là một trong những phương châm sống của mình. Từ những năm cuối của thế kỷ XX, đất nước ta ngày càng chịu nhiều tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh những thành tựu đáng tự hào trên tất cả các mặt của đời sống xã hội thì có một điều không thể phủ nhận đó là sự mất cân đối trong quá trình phát triển con người - xã hội trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là sự thoái hóa đạo đức của một bộ phận giới trẻ, thanh niên. Thực trạng đạo đức thanh niên hiện nay có nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết. Bên cạnh những thanh niên có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức học tập và lao động, có sự cống hiến không nhỏ cho dân tộc thì có một bộ phận không nhỏ thanh niên đang có biểu hiện đi xuống của nhân cách đạo đức, nhiều biểu hiện của lối sống sa đọa trái với thuần phong mỹ tục của 1 dân tộc. Thái độ coi thường những giá trị truyền thống là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội đang ngày càng có chiều hướng gia tăng trong thanh niên và giới trẻ. Họ có xu hướng đề cao cá nhân, sống ích kỷ, lạnh lùng, không có tình nghĩa, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách nhiệm, ít quan tâm đến những người xung quanh… Hàng loạt những hiện tượng đau lòng diễn ra ở chốn học đường và trong xã hội khiến chúng ta không thể làm ngơ. Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nền đạo đức mà chúng ta đang xây dựng cần phải hướng tới một hệ thống giá trị tinh thần mà ở đó cái truyền thống và cái hiện đại cần phải được kết hợp với nhau chặt chẽ để nền văn hóa dân tộc nói chung và các giá trị đạo đức truyền thống nói riêng tham gia vào sự hòa nhập với các giá trị phổ biến toàn nhân loại mà không bị hòa tan, không làm mất đi bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Thanh niên là rường cột của nước nhà, là những chủ nhân tương lai của đất nước, nguồn lao động dồi dào của cả dân tộc. Nước nhà mạnh hay yếu là do thanh niên. Việc giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay trở thành vấn đề cấp bách nhằm đào tạo một thế hệ có trí tuệ, có thể chất cường tráng, đời sống tinh thần và đạo đức trong sáng, giàu bản lĩnh và thực sự có ý thức, trách nhiệm công dân, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Để thực hiện tốt quá trình này cần có nhiều biện pháp và những chủ thể khác nhau. Bên cạnh công tác giáo dục của nhà trường, của các đoàn thể xã hội, của pháp luật, đạo đức Phật giáo sẽ là một nhân tố quan trọng góp phần điểu chỉnh đạo đức và lối sống cho thanh niên nếu như chúng ta biết phát huy những giá trị tích cực của nó. Là một thành tố tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc, đạo đức Phật giáo đã giao thoa, hòa quyện, làm phong phú đạo đức truyền thống Việt Nam. Tinh thần từ bi, hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hội nhập cùng phát triển hiện nay của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Chính vì vậy, kế thừa, phát huy và có những phương pháp cụ thể nhằm chuyển tải giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức Phật giáo đến với giới trẻ, chắc chắn Phật giáo sẽ có những đóng góp hữu hiệu đối với quá trình giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Việt Nam hiện nay. 2 Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá tôn giáo một cách khách quan khoa học, Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu và quyền lợi tinh thần của một bộ phận nhân dân, nó còn tồn tại lâu dài và chi phối đời sống tinh thần văn hóa của một bộ phận dân chúng, trong đó có những giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích toàn dân, với công cuộc xây dựng xã hội mới. Việc khai thác những yếu tố tích cực của đạo đức Phật giáo và hạn chế những tác động tiêu cực của nó nhằm xây dựng đạo đức cho thanh niên hiện nay là điều rất cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tiễn đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới, Phật giáo có lịch sử phát triển lâu dài và có nhiều đóng góp cho tư tưởng cũng như đời sống nhân loại trên nhiều phương diện. Bên cạnh những giá trị về tư tưởng mang tính triết học sâu sắc, Phật giáo còn là triết lý sống, lối sống đang hấp dẫn một bộ phận không nhỏ các dân tộc trển thế giới. Chính vì vậy, Phật giáo được đông đảo giới khoa học trong và ngoài Phật giáo quan tâm nghiên cứu. Về các công trình nghiên cứu, chúng tôi có thể xếp thành các nhóm sau đây: 2.1. Các công trình nghiên cứu cơ bản về Phật giáo và đạo đức Phật giáo Đạo đức Phật giáo không chỉ được bàn đến trong một số các công trình riêng biệt mà trong nhiều cuốn sách bàn về Phật giáo nói chung, các tác giả đã đề cập khá nhiều đến đạo đức Phật giáo cũng như vai trò của đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội. Bộ sách: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (3 tập, 1994) của Nguyễn Lang, Nxb Văn học và cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát đã khái quát một cách toàn diện sự phát triển Phật giáo Việt Nam theo từng giai đoạn. Đây là tư liệu có giá trị đã khảo cứu Phật giáo Việt Nam một cách hệ thống, trong đó có nhiều phần viết về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc. 3 Cuốn “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Hinh (1999), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội có nội dung bước đầu tìm hiểu hệ thống hóa tư liệu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam, nghiên cứu tư tưởng Phật giáo Việt Nam qua đó làm rõ đặc điểm Phật giáo Việt Nam với tư cách là một sản phẩm tôn giáo được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập. Các cuốn sách: “Việt Nam Phật giáo sử lược”của Hoà thượng Thích Mật Thể và “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” do tác giả Nguyễn Tài Thư chủ biên đã hệ thống hoá Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập đến thế kỷ XX. Các tác giả đã chỉ rõ Phật giáo đến Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, vào các thời điểm khác nhau từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVI. Cuốn “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam”, tác giả Nguyễn Hùng Hậu (2002), Nxb Khoa học xã hội; với nội dung bàn đến Phật giáo từ giai đoạn du nhập đến hết thời Trần. Tác giả cho rằng Triết học Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu là Triết học Phật giáo. Với mục đích cứu con người thoát khổ, nhìn vẻ ngoài, Phật giáo chủ yếu bàn về nhân sinh. Nhưng để cho quan niệm nhân sinh này tồn tại một cách vững chãi phải dựa trên một cơ sở triết học, một nền tảng lý luận vô cùng sâu sắc. Từ chỗ bàn về thế giới quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật giáo nguyên thuỷ, tác giả bàn về thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam, sự độc đáo và sáng tạo của Phật giáo Việt Nam. Năm 2008, Nxb Phương Đông, Hà Nội đã xuất bản cuốn “Sức mạnh của Đạo Phật”của tác giả Jean – Claude Carriere, người dịch là Nguyễn Tiến Lộ. Đọc cuốn sách nà chúng ta thấy được những mảng đề tài, những câu chuyện dẫn giải gần gũi, giản dị, khúc triết và thực tiễn về Phật giáo. Tác giả đã đề cập đến một thực tế hiện nay là khi con người tham vọng, chạy đua, vươn tới những đỉnh cao danh vọng và giàu có vật chất, thì đời sống tâm linh, cái Đạo, cái Tâm, cái Thiện trong mỗi con người có khi bị thu nhỏ lại, nhường chỗ cho những băn khoăn, trăn trở, lo toan, cho những ham muốn bất tận của cuộc sống. 4 Năm 2010, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh cho xuất bản cuốn “Tìm hiều chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam” của tác giả Trần Hồng Liên. Trong cuốn sách này, tác giả đã làm rõ các vấn đề như: Chức năng của Phật giáo đối với vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, giúp người đọc hiểu rằng dù tác động trên bất cứ lĩnh vực nào thì tựu trung lại, Phật giáo cũng chỉ nhằm vào việc mang lại sự an vui, niềm hạnh phúc về cả vật chất và tinh thần cho con người. Trong tác phẩm: “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” do tác giả Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; phần viết về Phật giáo, các tác giả đã tập trung vào khái niệm từ, bi, hỉ, xả cùng các giá trị tư tưởng của Phật giáo với tư tưởng của con người Việt Nam. Cuốn “Đạo đức học Phật giáo” của Hoà thượng Thích Minh Châu (chủ biên, 1995), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành là cuốn sách bao gồm nhiều bài viết đã phản ánh những nội dung cơ bản về đạo đức Phật giáo và vai trò của nó trong việc bảo tồn và phát huy truyền thống đạo đức dân tộc. Nhiều tác giả đã phân tích sâu cơ sở và các phạm trù đạo đức Phật giáo, trong đó có các nội dung quan trọng như giới, hạnh, nguyện, thiện, ác… Tác giả Đặng Thị Lan với công trình “Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006 đã bàn đến những vấn đề trọng tâm của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với việc xây dựng nền tảng đạo đức trong xã hội, cùng với những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo, vận dụng những giá trị tốt đẹp của đạo đức Phật giáo trong việc hoàn thiện đạo đức, nhân cách con người Việt Nam hiện nay. 2.2. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam và thanh niên Việt Nam Hướng nghiên cứu này có các tác phẩm chủ yếu sau: “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”của Trần Ngọc Thêm, Nxb T.p Hồ Chí Minh (1997); “Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Thuận Hoá (1997); Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 5 (1980); “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” của Nguyễn Thị Bảy, Nxb. Thông tin, Hà Nội (1997); “Phật giáo với văn hoá Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy, Nxb. Hà Nội (1999)... Ngoài các công trình khoa học trên còn có rất nhiều bài viết đăng trên tạp chí thuộc các ngành khoa học xã hội về đạo đức như: Đặng Hữu Toàn “Hướng các giá trị truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường”(Tạp chí triết học, số 4 – 2001, tr.27- 32); tác giả Trần Nguyên Việt với “Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường”(Tạp chí triết học, số 5 – 2002, tr.20 - 25) . Cuốn: “Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội (1997); “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và Châu thổ Bắc Bộ”, Nxb Thông tin, Hà Nội (1997); “Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tài Thư (Triết học số 4/1993); “Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường” của tác giả Hoàng Thơ (Triết học số 7/ 2002). Về ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống đạo đức xã hội cũng có nhiều công trình luận án đã nghiên cứu. Tiêu biểu như công trình nghiên cứu của tác giả Tạ Chí Hồng với “Ảnh hưởng của Đạo đức Phật giáo đối với đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay” (Luận án Tiến sĩ triết học, năm 2003). Đây là luận án khá công phu, khảo cứu vị trí của vấn đề đạo đức trong tư tưởng Phật giáo, nội dung, đặc điểm, nếp sống và giá trị đạo đức Phật giáo, sự dung hợp giữa đạo đức Phật giáo với đạo lý Việt Nam, sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đời sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay và những giải pháp chủ yếu định hướng đối với những ảnh hưởng của Phật giáo. Luận án đề cập đến nhiều vấn đề thuộc đời sống đạo đức, song vấn đề ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam chưa được đề cập. Luận án Tiến sĩ: “Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người Việt Nam” của tác giả Đặng Thị Lan năm 2004, trường Đại học khoa học xã 6 hội và nhân văn Hà Nội đã khái quát khá đầy đủ các nội dung căn bản nhất của đạo đức Phật giáo mà theo tác tác giả đây cũng là những vấn đề có ảnh hưởng sâu đậm nhất đên đạo đức con người Việt Nam. Đặc biệt, luận án đã luận giả một cách thành công ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam trong truyền thống cũng như trong hiện tại nhất là giai đoạn Lý – Trần. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay cũng được tác giả khảo cứu công phu dưới hai lát cắt là: ảnh hưởng đến ý thức đạo đức và ảnh hưởng đến hành vi đạo đức. Một số tác động tiêu cực của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam cũng được tác giả đề cập và lý giải dưới góc độ triết học. Mỗi một tôn giáo đều có thế giới quan và nhân sinh quan riêng. Thế giới quan và nhân sinh quan ấy hàm chưa những tư tưởng về đạo đức. Khi con người tiếp nhận những tư tưởng đạo đức đó thì đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi thế giới quan và nhân sinh quan của tôn giáo đó. Luận án Tiến sĩ “Đạo đức Phật giáo với công tác giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế hiện nay” của Ngô Văn Trân bảo vệ tại Học viện KHXH Việt Nam (2012), đã đề cập khá sâu về đạo đức Phật giáo, chỉ ra nhân sinh quan tiến bộ và độc đáo của đạo đức Phật giáo. Đồng thời, luận án giới thiệu mô hình “Gia đình Phật tử” - một mô hình giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo tại Huế, các chủ thể khác tham gia giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Huế và những giải pháp nhằm phát huy đạo đức Phật giáo thông qua gia đình Phật tử trong công tác giáo dục thanh thiếu niên Phật tử ở Huế. Nhìn chung, luận án có những điểm độc đáo khi khai thác tác động của Phật giáo Huế đến thế hệ trẻ, song mới dừng lại khảo sát các tín đồ Phật giáo Huế mà chưa nghiên cứu rộng đến thanh thiếu niên Việt Nam nói chung. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nêu trên đã mang lại một cái nhìn khá toàn diện về lịch sử Phật giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội. Tác giả luận văn đã kế thừa được nhiều cách đánh giá, phân tích khác nhau về Phật giáo và ảnh hưởng đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội, cũng như cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu về ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức nhân 7 cách con người. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, luận văn đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo từ góc độ triết học đến đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, đặc biệt dưới tác động của kinh tế thị trường đã làm cho đạo đức của một bộ phận thanh niên biến đổi, suy thoái. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Phật giáo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đạo đức cho thanh niên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: Một là: Trình bày những nội dung căn bản của đạo đức Phật giáo và sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam Hai là: Phân tích những ảnh hưởng chủ yếu của đạo đức Phật giáo đến đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. Ba là: Đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Phật giáo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đạo đức cho thanh niên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đạo đức Phật giáo và các ảnh hưởng của nó đến đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Đạo đức Phật giáo bao gồm nội dung rất rộng, song trong giới hạn của luận văn Thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung làm rõ một số những giá trị, nguyên tắc, chuẩn 8 mực đạo đức căn bản nhất và mang tính đặc thù của Phật giáo. Đồng thời, đó cũng chính là những nội dung trong giáo lý đạo Phật có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến đạo đức con người Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng. - Về mặt thời gian: Luận văn khảo cứu ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức thanh niên ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luân văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin , kết hợp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, đặc biệt những quan điểm đổi mới nhận thức về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta từ khi đất nước đổi mới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu của triết học như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, thống kê, thu thập số liệu, so sánh, đối chiếu để rút ra các kết luận, nhận định khoa học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ hơn nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo và những tác động, ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, tìm hiểu về đạo đức Phật giáo và cho những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 7 tiết. Chương 1: Đạo đức Phật giáo và sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam Chương 2: Những ảnh hưởng cơ bản của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức của thanh niên VIệt Nam hiện nay. 9 Chương 1 ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ SỰ DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM 1.1. Một số nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo Khái niệm đạo đức Đạo đức với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội, do đó hiện có rất nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau về đạo đức. Theo nghĩa hẹp, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các quy tắc, nguyên tắc chuẩn mực mà nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người cũng như tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội. Theo nghĩa rộng, đạo đức là toàn bộ quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và trong quan hệ với tự nhiên. Ở phương Đông, do chịu ảnh hưởng chủ yếu từ tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, thường xem xét đạo đức trong phạm trù “Đạo”, đề cao chữ Nhân, chữ Nghĩa và tư tưởng “kiêm ái” của Mặc Tử. Ở phương Tây, từ thế kỷ XVII, XVIII, cùng với sự mở rộng và phát triển của kinh tế thị trường, J.Loocco (Anh), và M.Weber (Đức) đã đề cập đến các khái niệm về “đạo đức thị trường”, “đạo đức duy lý”. Đạo đức học Mác- Lênin cho rằng : đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, một phương thức điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua một hệ thống những giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực biểu thị sự quan tâm tự nguyện tự giác của con người với con người, con người với xã hội. Như vậy, theo quan điểm mác-xít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một định chế xã hội thực hiện các chức năng điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức là những nguyên tắc sống, những quy phạm gắn liền và phù hợp với một hình thái kinh tế- xã hội nhất định, được hình thành từ những điều kiện sinh hoạt vật chất của 10 xã hội, những quy phạm, nguyên tắc, tiêu chuẩn, lý tưởng này có tính nhất thời về lịch sử và mang tính giai cấp rõ rệt. Theo tác giả Huỳnh Khái Vinh, “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, gồm những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội” [76, tr. 182]. Chúng tôi cho rằng đây là định nghĩa phù hợp với cách chúng tôi triển khai nội dung của luận văn. Cấu trúc đạo đức Đạo đức vận hành như một hệ thống tương đối độc lập của xã hội. Cơ chế vận hành của nó được hình thành trên cơ sở liên hệ và tác động lẫn nhau của những yếu tố hợp thành đạo đức. Khi phân tích cấu trúc của đạo đức người ta xem xét nó dưới nhiều góc độ. Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng hạn, xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét trong mối quan hệ giữa người với người thì nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức phật giáo Theo tiến trình lịch sử, tôn giáo trở thành một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa, văn minh nhân loại. Xét trên bình diện thế giới, tôn giáo không chỉ là sự thể hiện niềm tin, mà còn là cầu nối văn hóa giữa các nước, các khu vực nên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người. Mặc dù mỗi tôn giáo có hệ thống giáo lý riêng song về cơ bản đều hướng con người tới Chân, Thiện, Mỹ. Phật giáo là một tôn giáo lớn, đã để lại cho nhân loại nhiều tư tưởng về tôn giáo, triết học, chính trị, mỹ học, văn hóa,…trong đó nổi bật nhất là tư tưởng đạo đức. Phật giáo về cơ bản không phải là một học thuyết về đạo đức, song xuất phát điểm của nó là chỉ dạy cho con người biết nguyên nhân của nỗi khổ và con đường giải thoát. Từ những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, Phật giáo rút ra hệ quả của chúng để xây dựng một hệ thống quan niệm đạo đức. Như vậy, đạo đức là nền tảng 11 quan trọng trong hệ thống giáo lý của Phật giáo. Đạo đức Phật giáo với các chuẩn mực, giá trị đạo đức mang tính phổ quát và nhân bản có giá trị không chỉ cho những người theo đạo Phật mà có rất nhiều điểm phù hợp với đạo đức xã hội xã hội nói chung. Từ những quan điểm về đạo đức ở trên, có thể định nghĩa đạo đức Phật giáo như sau: Đạo đức phật giáo là toàn bộ những quan niệm, giá trị, những quy tắc đạo đức được thể hiện trong các giáo lý Phật giáo (đặc biệt trong các điều răn cấm) nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và xã hội theo thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo. 1.1.1. Quan niệm của Phật giáo về Thiện - Ác, Từ bi Khái niệm Thiện - Ác Thiện và ác là hai từ của dân gian dành chỉ hai hiện tượng luôn hiện hữu trong cuộc sống, trong xử thế. Người dân thường căn cứ vào cách hành xử của con người trong cuộc sống hàng ngày mà xếp người này người kia là thiện hay ác, nhưng cách đánh giá này đôi khi mang tính phiến diện. Vậy để có cách nhìn, đánh giá đúng và toàn diện và Thiện, Ác, có thể tìm hiểu về khái niệm Thiện, Ác. * Thiện Về ngữ nghĩa, thiện là tính từ chỉ phẩm chất, hành vi của con người tốt lành, hợp với đạo đức. Cái thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hằng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. * Ác Về khía cạnh ngữ nghĩa, “ác” là một tính từ chỉ chung về tính cách của người hoặc một việc làm gây đau khổ, tai họa cho người khác. Một vấn đề cần được làm rõ khi bàn đến biểu hiện thiện và ác, đó chính là tính biện chứng của cặp phạm trù này, thể hiện: trong cái ác lại chứa cái thiện, trong cái thiện đôi khi lại có cái ác. Ví dụ việc con người thử nghiệm một loại thuốc mới trên động vật trước khi đưa ra sử dụng cho con người, việc làm này có cái ác là phải 12 hy sinh các động vật bé nhỏ để thử nghiệm, nếu thành công, việc làm gọi là ác ấy lại tạo ra việc thiện là có thể cứu chữa hàng trăm, hàng nghìn con người. Cặp phạm trù này đối lập mà xen kẽ, tách biệt mà giao hòa. Nhận thức thiện, ác dù dưới góc độ tâm linh, nhân thế hay khoa học đều phản ánh cái căn gốc của từ “con” và từ “người”, phần “con” biểu lộ tính ác, phần “người” biểu lộ tính thiện. *Một số quan niệm Thiện - Ác trong lịch sử Thứ nhất: Quan niệm của Nho giáo Trong Luận Ngữ, tư tưởng của Khổng Tử về tính người “vốn gần nhau, do tập tính mà xa nhau” [48, tr. 2] đã gây ra nhiều cách giải thích và cách hiểu khác nhau. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói nhiều đến các “hạng người” với những phẩm cách khác nhau: “Người quân tử có khi mắc phải điều bất nhân chăng? Chưa hề có kẻ tiểu nhân làm điều nhân bao giờ” [49, tr. 7]; “Người quân tử đạt tới chỗ cao thượng, kẻ tiểu nhân đạt tới chỗ thấp hèn” [49, tr. 24]; “Đối với những người từ bậc trung trở lên, có thể dạy bảo về phần hình nhi thượng; đối với những người từ bậc trung trở xuống, không thể dạy bảo về phần hình nhi thượng vậy” [50, tr. 19]. Tử Tư (483 – 402 TCN.), trong sách Trung Dung, đã dẫn lời Khổng Tử như sau: “Hoặc sinh ra đã biết, hoặc phải học mới biết, hoặc phải cố công gắng sức mới biết, nhưng kể về hiểu biết thì như nhau” [51, tr. 20]. Như vậy, Khổng Tử và cháu của ông vừa muốn phổ quát hoá các phẩm cách khác nhau của con người, vừa muốn nhất thể hoá về mặt lý luận các phẩm cách đó. Điều đó được thể hiện rõ nét qua việc nêu mối quan hệ giữa các hạng người về năng lực trí tuệ với tính người Kế thừa tư tưởng Khổng Tử, Mạnh Tử (372 – 289 TCN) đã có một cống hiến xuất sắc cho việc giải quyết vấn đề triết học về con người nói chung và vấn đề tính người nói riêng. Có thể nói, ông là người lần đầu tiên đề xướng lên một học thuyết mang tính hệ thống về tính người. Học thuyết đó gọi là thuyết Tính thiện, hay còn gọi là nhân tính hướng thiện. Mạnh Tử nói: “Người ta ai cũng có lòng bất nhẫn [trước những đau khổ của người khác… Sở dĩ nói ai cũng có lòng bất nhẫn, là vì người ta chợt thấy đứa bé sắp ngã xuống giếng, ai cũng chột dạ, xót xa. Chẳng phải mong làm thân với cha mẹ đứa bé, cũng không phải mong xóm làng, bạn bè khen 13 ngợi, cũng chẳng phải tránh tiếng xấu. Do đó mà xét, không có lòng trắc ẩn, chẳng phải là người; không có lòng tu ố, chẳng phải là người; không có lòng từ nhượng, chẳng phải là người; không có lòng thị phi, chẳng phải là người vậy. Lòng trắc ẩn là đầu mối của điều nhân, lòng tu ố là đầu mối của điều nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của điều lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí vậy. Người ta có bốn đầu mối đó, cũng như có hai tay, hai chân vậy” [47, tr. 859 – 862] Tuân Tử (khoảng 298 – 238 TCN), tác giả bộ Tuân Tử (có thể là do ông chấp bút gồm 32 thiên), là người có tư tưởng đối lập với thuyết Tính thiện của Mạnh Tử bằng khẳng định, bản tính con người vốn ác. Tuân Tử viết: “Tính của con người là ác, còn thiện là do con người làm ra. Tính của con người, sinh ra là có sự hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có; sinh ra có lòng muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa văn lý không có… Cho nên phải có thầy, có phép tắc để cải hoá đi, có lễ nghĩa để dẫn dắt nó, rồi sau mới có từ nhượng, hợp văn lý mà thành ra trị. Xét vậy mà thấy rõ tính của con người là ác, mà cái thiện là do con người làm ra vậy” [56, tr.354]. Thứ hai: Quan niệm của đạo đức học Mác xít Đạo đức học Mác xít cho rằng quan niệm thiện, ác của con người là một sản phẩm lịch sử. Ở mỗi thời đại, từ những quan hệ kinh tế, xã hội và giai cấp, con người hình thành nên những quan niệm thiện hay ác khác nhau tương ứng với xã hội trong thời đại đó. VD: Cái thiện trong thời kỳ phong kiến là cơm no, áo ấm cho người nông dân chân lấm tay bùn, là đối xử thương yêu, có tình với người làm. Cái thiện trong xã hội tư bản là tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái, làm sao đem lại cho công nhân chế độ làm việc và lương thưởng xứng đáng với công sức bỏ ra. Ngày xưa, cái thiện là trung với vua, hiếu với cha mẹ thì ngày nay có thêm nội dung mới là “trung với Đảng, hiếu với dân”. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan