Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và sinh sản...

Tài liệu ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và sinh sản của artemia franciscana

.PDF
53
122
60

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN THÁI THANH HIỀN ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨC ĂN KHÁC NHAU LÊN SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG VÀ SINH SẢN CỦA Artemia franciscana LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH SINH HỌC BIỂN 2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN THÁI THANH HIỀN ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨC ĂN KHÁC NHAU LÊN SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG VÀ SINH SẢN CỦA Artemia franciscana LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH SINH HỌC BIỂN CÁN BỘ HƯỚNG DẪN PGs. Ts. Ngô Thị Thu Thảo 2013 LỜI CẢM TẠ Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô Ngô Thị Thu Thảo đã dành nhiều sự quan tâm, giúp đỡ cho tôi, luôn hướng dẫn và tạo mọi điều kiện để tôi có thể thực hiện và hoàn thành xong đề tài luận văn tốt nghiệp. Xin gửi lòng biết ơn của tôi đến các thầy cô đang công tác tại khoa Thủy sản – trường Đại học Cần Thơ và các bạn đã khích lệ, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi những lời cảm ơn tới các anh chị và các bạn của trại thực tập Động vật thân mềm đã quan tâm, giúp đỡ cũng như những góp ý đáng quý đến tôi để tôi có thể hoàn thành được đề tài. Và với tất cả tình cảm của mình, tôi xin gửi đến gia đình và người thân những lời cảm tạ chân thành từ đáy lòng đã luôn động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể bước đến ngày hôm nay. Cuối cùng, mong thầy cô và các bạn hãy nhận xét và đóng góp những ý kiến quý báo cho tôi để tôi có thể hoàn chỉnh những thiếu sót trong bài luận văn của mình. i MỤC LỤC Trang Tóm tắt.....................................................................................................................v CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................. 1 1.1 Giới thiệu chung ................................................................................................ 1 1.2 Mục tiêu đề tài ................................................................................................... 3 1.3 Nội dung đề tài .................................................................................................. 3 CHƯƠNG II: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ............................................................ 3 2.1 Giới thiệu chung về Artemia ............................................................................. 3 2.1.1 Đặc điểm phân loại ...................................................................................... 4 2.1.2 Môi trường sống .......................................................................................... 4 2.1.3 Vòng đời và hình thái .................................................................................. 4 2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng .................................................................................. 6 2.1.5 Đặc điểm sinh sản ........................................................................................ 6 2.2 Một số loại thức ăn cho Artemia ....................................................................... 7 2.3 Chế phẩm sinh học .......................................................................................... 12 CHƯƠNG III: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 18 3.1 Địa điểm và thời gian thực hiện ....................................................................... 18 3.2 Vật liệu nghiên cứu ......................................................................................... 18 3.2.1 Dụng cụ thí nghiệm và hóa chất ................................................................ 18 3.2.2 Nguồn nước ............................................................................................... 18 3.2.3 Nguồn trứng giống Artemia ...................................................................... 18 3.2.4 Thức ăn cho Artemia ................................................................................. 18 3.3 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 18 3.3.1 Cách ủ cám với Bacillus subtilis ............................................................... 18 3.3.2 Bố trí thí nghiệm ........................................................................................ 19 3.3.3 Cách pha thức ăn ....................................................................................... 19 3.3.4 Chăm sóc và quản lý ................................................................................. 20 ii 3.3.5 Phương pháp thu thập số liệu .................................................................... 21 3.3 Phương pháp phân tích số liệu ........................................................................ 22 CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................... 23 4.1 Kết quả thí nghiệm chung ................................................................................ 23 4.1.1 Các chỉ tiêu môi trường .............................................................................. 23 4.1.2 Sinh trưởng của Artemia............................................................................. 27 4.2 Kết quả sinh sản trong 30 ngày nuôi ................................................................ 29 CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ......................................................... 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 36 PHỤ LỤC .............................................................................................................. 40 iii DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG Hình 2.1: Artemia franciscana ................................................................................... 3 Hình 2.2: Vòng đời phát triển của Artemia (Jumalon et al., 1982) ............................ 5 Bảng 3.1: Khối lượng thức ăn cho 1000 cá thể Artemia ............................................ 20 Bảng 3.2: Khẩu phần tiêu chuẩn cho 1 con Artemia .................................................. 21 Hình 4.1: Biến động nhiệt độ môi trường nước trong 14 ngày nuôi .......................... 23 Hình 4.2: Biến động pH trong 14 ngày nuôi .............................................................. 24 Hình 4.3: Biến động hàm lượng nitrite trong 14 ngày nuôi ....................................... 24 Hình 4.4: Biến động hàm lượng ammonia trong 14 ngày nuôi .................................. 25 Bảng 4.1: Biến động các chỉ tiêu môi trường trong 14 ngày nuôi ............................. 26 Bảng 4.2: Tỷ lệ sống (%) của Artemia sau 14 ngày nuôi ........................................... 27 Hình 4.5: Biến động tỷ lệ sống của Artemia trong 14 ngày nuôi ............................... 28 Bảng 4.3 Chiều dài thân (mm) của Artemia sau 14 ngày nuôi................................... 28 Hình 4.6: Biến động chiều dài của Artemia trong 14 ngày nuôi ................................ 29 Hình 4.7: Biến động nhiệt độ trong 30 ngày nuôi Artemia ........................................ 30 Bảng 4.4: Sức sinh sản thực tế trong thời gian thí nghiệm ........................................ 30 Bảng 4.4: Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sức sinh sản của Artemia ................. 31 Hình 4.8: Tỷ lệ sinh sản giữa cyst và nauplii của các nghiệm thức (%) .................... 32 Bảng 4.5: Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến một số chỉ tiêu sức sinh sản khác của Artemia ................................................................................................................. 33 Bảng 4.6: Tỷ lệ % con đực và cái Artemia chết trong thời gian nuôi sinh sản .......... 33 iv TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến sinh trưởng và sinh sản của Artemia. Mật độ thả nuôi của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu là 500 con/L nước ở độ mặn 80‰ và cho ăn bằng các loại thức ăn gồm cám thường, cám ủ Bacillus subtilis và Frippak 2. Thí nghiệm gồm 5 nghiệm thức: đối chứng (cho ăn bằng cám thường); cám ủ Bacillus subtilis; 50% cám thường + 50% Frippak 2; 50% cám ủ Bacillus + 50% Frippak 2; 100% Frippak 2. Sau 14 ngày nuôi, tỷ lệ sống Artemia thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng (44,4%) và đạt cao nhất ở nghiệm thức nuôi bằng cám ủ Bacillus subtilis (49,1%) khác biệt so với các nghiệm thức còn lại (P<0,05). Chiều dài Artemia đạt thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng (5 mm) có khác biệt thống kê so với các nghiệm thức khác (P<0,05) và chiều dài cao nhất ở nghiệm thức 5 (6,19 mm). Sau thời gian 1 tháng nuôi riêng 20 cặp Artemia của mỗi nghiệm thức trong ống falcon 50 mL với độ mặn 80 ‰ thì tổng số phôi đạt cao nhất ở nghiệm thức 50% cám ủ Bacillus + 50% Frippak 2 là 6924 phôi khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức cám thường thấp nhất chỉ có 1533 phôi. Tổng số nauplii thu được trong khi tiến hành thí nghiệm đạt cao nhất ở nghiệm thức 4 (6522 nauplii) và thấp nhất ở nghiệm thức 1 (1533 nauplii). Số trứng bào xác thấp nhất vẫn ở nghiệm thức 1 (0 cyst), cao nhất là nghiệm thức 4 (402 cyst) và có khác biệt so với các nghiệm thức còn lại. v CHƯƠNG I ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Giới thiệu chung Cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, ngành nuôi trồng thủy sản đang có những bước tiến mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm cũng như cải thiện cuộc sống cho người dân. Do đó vấn đề nguồn thức ăn để cung cấp cho việc nuôi trồng luôn được người nuôi quan tâm. Ngoài các loại thức ăn công nghiệp trên thị trường thì nguồn thức ăn tươi sống cũng nhận được ưu tiên hàng đầu, trong đó Artemia được xem là lựa chọn lý tưởng cho các loại giáp xác, cá. Sorgeloos (1980), Artemia là một nguồn thực phẩm tuyệt vời, có thể cung cấp thức ăn chất lượng cho cá và động vật giáp xác. Cả ấu trùng Artemia và con trưởng thành có đều đáp ứng các nhu cầu dinh dưỡng của nhiều loại sinh vật (Espinosa Fuentes et al., 1997). Hàm lượng đạm trên 50%, chất béo trên 10% và HUFA (Highly Unsaturated Fatty Acid) biến động trong khoảng 0,3 - 15mg/DW (Sorgeloos et al.,1996; Lim et al., 2003), sinh khối Artemia ngày càng trở thành nguồn thức ăn được chọn lựa để thay thế cho nhiều loại thức ăn tươi sống khác như Moina, trùng chỉ, giun đỏ… trong ương nuôi tôm, cá giai đoạn giống. Tuy nhiên, so với ấu trùng vừa mới nở, giá trị dinh dưỡng của Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành là rất cao. Theo Nguyễn Văn Hòa và ctv. (2007) thì Artemia trưởng thành có giá trị dinh dưỡng rất cao, hàm lượng đạm chiếm gần 70% và rất giàu axit amin. Ngoài ra, Artemia còn chứa một lượng đáng kể vitamin, kích dục tố và sắc tố. Khi được sử dụng làm thức ăn cho động vật giáp xác, Artemia trưởng thành giúp tăng cường sự thành thục sinh sản và giúp tăng tỷ lệ thụ tinh cho các đối tượng nuôi (Naessens et al., 1997; Wouterset et al., 1998). Hơn thế nữa, khả năng đẻ trứng hay còn gọi là bào nang (cyst) làm cho Artemia trở thành nguồn thức ăn tiện lợi và dồi dào cho ấu trùng cá (Dhont, 1993). Léger et al., (1986) nhận định rằng các trứng cyst của Artemia được lưu trữ thời gian dài trong hộp, sau đó muốn sử dụng chỉ cần ấp qua 24 giờ, điều đó làm cho chúng trở thành loại thức ăn thuận tiện, nhanh chóng và được xem như là nguồn thức ăn tươi sống có sẵn cho việc nuôi một số loài giáp xác như tôm, tôm hùm và cua. Những năm gần đây, nghiên cứu áp dụng chế phẩm sinh học vào nuôi trồng thủy sản đang được quan tâm nhiều hơn bởi những tác động tích cực mà chúng mang lại như: kích thích sự tăng trưởng, tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện môi trường ao nuôi,... Trong nghề nuôi giáp xác, việc nuôi tôm thẻ chân trắng 1 (Litopenaeus vannamei) trong môi trường biofloc có bổ sung chế phẩm sinh học có khác biệt ý nghĩa về tỷ lệ sống (P=0,002) so với môi trường không bổ sung chế phẩm sinh học. Trong khi 100% ấu trùng tôm chết khi thêm chủng Vibrio parahaemolyticus vào bể nuôi thì nghiệm thức có bổ sung chế phẩm sinh học cho tỷ lệ sống đạt 90,1% và trọng lượng ấu trùng đạt được là 7,8 mg so với nghiệm thức dùng kháng sinh thì tỷ lệ sống đạt 83,8% và trọng lượng là 6,0 mg (Garriques and Arevalo, 1995). Nogami et al., (1997) bổ sung chủng vi khuẩn PM-4 (Thalassobacter utilis) vào bể nuôi ấu trùng ghẹ chấm (Portunus trituberculatus) làm tăng tỷ lệ sống lên 27,2% so với bể không có bổ sung PM-4 là 6,8%. Hơn nữa, PM-4 làm ức chế sự tăng trưởng của dòng vi khuẩn gây bệnh Vibrio anguillarum và các dòng Vibrio spp. khác, thậm chí nó còn ức chế cả sự phát triển của nấm Haliphthoros sp. Đối với Artemia, nhiều dòng vi khuẩn cũng được phân lập và có tác dụng tăng năng suất nuôi Artemia sinh khối. Các vi khuẩn này giúp bảo vệ Artemia chống lại vi khuẩn gây bệnh, giảm tỉ lệ tử vong trong thí nghiệm cảm nhiễm, ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh (Verschere et al., 1999; Gomez-Gil et al., 1998, Phạm Thị Tuyết Ngân, 2011). Trong các loại thức ăn cho Artemia thì cám gạo – phụ phẩm nông nghiệp – được nông dân sử dụng phổ biến, tuy nhiên theo Nguyễn Văn Hòa (2007) thì hiệu quả sử dụng chỉ khoảng 20%. Vì vậy, việc nghiên cứu bổ sung các loại men vi sinh cũng như chế phẩm sinh học vào cám gạo nhằm tăng giá trị dinh dưỡng và hiệu quả sử dụng thức ăn của Artemia là rất cần thiết và đề tài “Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và sinh sản của Artemia franciscana” được thực hiện với hy vọng sẽ có những đóng góp nhất định cho người nuôi Artemia cũng như là tiền đề cho những nghiên cứu sau này có liên quan. 1.2. Mục tiêu đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của các thức ăn khác nhau lên sự sinh trưởng, tỷ lệ sống và một số chỉ tiêu sinh sản của Artemia franciscana. 1.3. Nội dung đề tài Theo dõi các chỉ tiêu về chiều dài, tỷ lệ sống, các chỉ tiêu sinh học sinh sản của Artemia franciscana khi cho ăn các loại thức ăn khác nhau. 2 CHƯƠNG II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1. Giới thiệu chung về Artemia Hình 2.1: Artemia franciscana (Jean-François Cart) 2.1.1. Đặc điểm phân loại Trích dẫn bởi Nguyễn Văn Hòa và ctv. (2005) Artemia thuộc nhóm động vật giáp xác với hệ thống phân loại như sau: Ngành: Arthropoda Lớp: Crustacea Lớp phụ: Branchiopoda Anostraca Bộ: Họ: Artemiidae Giống: Artemia Leach (1819). Trên thế giới có nhiều giống Artemia thuộc các quần thể lưỡng tính, với 6 loài được mô tả: Artemia salina: Lymington (Anh Quốc, đã biến mất). Artemia tunisiana: Châu Âu. Artemia franciscana: Bắc, Trung và Nam Mỹ. Artemia perrsimilis: Argentina. 3 Artemia urmiana: Iran. Artemia monica: Mono Lake, Canada-USA. Ngoài ra, còn phát hiện thêm quần thể Artemia trinh sản (quần thể không có con đực và không có sự thụ tinh trong quá trình sinh sản). Vì thế Artemia được xem là tên chung cho tất cả các loài. 2.1.2. Môi trường sống Ngoài tự nhiên, Artemia thường xuất hiện ở các thủy vực có nồng độ muối cao (>70‰) do ở những nơi đó các loài vật dữ (cá tôm, giáp xác lớn) và các sinh vật ăn lọc khác không thể xuất hiện. Artemia có cấu tạo cơ thể mềm, nhỏ, bơi lội chậm chạp và màu sắc rất hấp dẫn các sinh vật khác. Vì vậy, ở những thủy vực có độ mặn thấp, Artemia dễ gặp phải nhiều kẻ thù và các loài tảo không thích hợp cho Artemia sẽ xuất hiện. Độ mặn dưới 70‰ thường xuất hiện giáp xác chân chèo (Copepoda) là địch hại của ấu trùng Artemia (Tất Anh Thư và Võ Thị Gương, 2010). Ngược lại, độ mặn quá cao (>120‰) có thể gây chết cho Artemia. Độ mặn cao còn là dẫn xuất tốt cho nhiệt độ vì vậy trong ao nuôi thích hợp nhất là duy trì ở mức 80-100‰ (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2005). Wear và Haslett (1986), khi độ mặn thấp sẽ có nhiều địch hại và nhiều loài tảo không thích hợp xuất hiện; khi độ mặn tăng cao sẽ hạn chế sức sản xuất sơ cấp trong ao nuôi, hoặc làm giảm hiệu quả lọc thức ăn của Artemia. Hơn nữa khi độ mặn tăng cao thì nhiệt độ cao và hàm lượng oxy giảm gây ra các căng thẳng về sinh lý cho Artemia, hậu quả là tăng trưởng chậm, sức sinh sản giảm, mức độ phục hồi quần thể thấp, nếu quá ngưỡng sẽ gây chết hàng loạt (Vanhaeck và Sorgeloos, 1989). Artemia có thể thích nghi ở nơi có nồng độ muối cao là do khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu tốt, cơ thể Artemia tổng hợp được các sắc tố hô hấp nhằm thích ứng với nơi có độ mặn cao (nồng độ Oxy thấp) và Artemia có khả năng sinh sản trứng bào xác khi gặp điều kiện môi trường bất lợi. Ngoài ra do sự phân bố ở nhiều vùng địa lí khác nhau nên mỗi loài Artemia sẽ thích nghi với ngưỡng nhiệt độ khác nhau. Browne et al., (1988) cho rằng hầu hết các dòng Artemia không thể sống được khi nhiệt độ dưới 6oC và trên 35oC và khả năng chịu đựng nhiệt độ khác nhau tùy đặc trưng của từng dòng. 2.1.3. Vòng đời và hình thái của Artemia Artemia có vòng đời ngắn (ở điều kiện tối ưu có thể phát triển thành con trưởng thành sau 7-8 ngày nuôi), sức sinh sản cao (Sorgeloos, 1980b; Jumalon, et al., 1982, Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2005) và quần thể Artemia luôn luôn có hai phương thức sinh sản là đẻ trứng và đẻ con (Browne et al., 1984). Tuổi thọ trung 4 bình của cá thể Artemia trong các ao nuôi ở ruộng muối khoảng 40-60 ngày tùy thuộc điều kiện môi trường (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2005). Hình 2.2: Vòng đời phát triển của Artemia (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007). Khi gặp điều kiện bất lợi, Artemia đẻ trứng bào xác. Trứng bào xác sẽ ngừng trao đổi chất và ngưng phát triển khi được giữ khô. Nếu cho vào nước biển, trứng có hình cầu lõm sẽ hút nước và phồng to. Sau khoảng 20 giờ, màng nở bắt đầu nứt ra và phôi xuất hiện. Phôi được bao bọc bởi màng nở và treo dưới vỏ trứng (giai đoạn bung dù), ấu trùng tiếp tục phát triển. Sau một thời gian, màng nở bị phá vỡ và ấu trùng Artemia được phóng thích (giai đoạn trứng nở). Ấu trùng Artemia mới nở (Instar I) có chiều dài khoảng 400-500 μm, màu vàng cam, mắt Nauplius ở phần đỉnh đầu và có ba đôi phụ bộ. Mặt bụng ấu trùng được bao phủ bằng mảnh môi lớn. Ấu trùng trong giai đoạn này không ăn được thức ăn ngoài vì bộ máy tiêu hóa chưa hoàn thiện, chúng sống dựa vào khối noãn hoàng. Sau khi nở khoảng 8-10 giờ (tùy thuộc vào nhiệt độ), ấu trùng chuyển sang giai đoạn Instar II. Lúc này chúng có thể ăn được các thức ăn cỡ nhỏ (vi tảo, vi khuẩn,…) có kích thước từ 1-50 μm bằng đôi anten II, bộ máy tiêu hóa đã hoạt động. Ấu trùng trải qua 15 lần lột xác để trở thành con trưởng thành. Từ giai đoạn 10 trở đi, các thay đổi về hình thái và chức năng quan trọng bắt đầu: anten mất 5 chức năng vận chuyển và trải qua sự biệt hóa về giới tính. Ở con đực, chúng phát triển thành càng bám, trong khi anten của con cái thì bị thoái hóa thành phần phụ cảm giác. Các chân ngực được biệt hóa thành ba bộ phận chức năng. Các đốt chính và nhánh chân trong (vận chuyển và lọc thức ăn), nhánh chân ngoài dạng màng (mang). Artemia trưởng thành có chiều dài khoảng 10mm (tùy loài). Con đực có đôi gai giao cấu ở phía sau vùng ngực, con cái thì có túi ấp hoặc tử cung ở ngay sau đôi chân ngực thứ 11. Khi Artemia trưởng thành, chúng sẽ bắt cặp giao phối và sinh sản. 2.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng Artemia là loài sinh vật ăn lọc không chọn lựa và thức ăn của chúng là vi tảo, vi khuẩn, sinh vật đơn bào, mùn bã hữu cơ,… chúng có khả năng lọc được những hạt lơ lửng trong môi trường nước có kích thước từ 1-50 μm (D’Agostino et al., 1980; Dhont and Sorgeloos, 2002; Van Stappen, 1996). Ở giai đoạn ấu trùng, chúng có thể sử dụng thức ăn có kích cỡ 25-30 μm và kích thước 40-50 μm khi trưởng thành (Dobbeleir et al., 1980). Ở ruộng nuôi, thức ăn cho Artemia chủ yếu dựa vào việc bón phân gây màu tảo trực tiếp trong ao nuôi hoặc gián tiếp trong ao gây nuôi tảo. Ngoài ra chúng còn sử dụng được các phụ phẩm từ nông sản hoặc từ ngành công nghiệp chế biến có giá thành thấp như: cám gạo, cám ngũ cốc, bột đậu nành,... là nguồn thức ăn thích hợp cho việc nuôi Artemia ở mật độ cao (Dhont and Lavens, 1996). Tuy nhiên, các loại thức ăn này có kích thước hạt lớn nên Artemia không thể lọc được, do đó cần được tiếp tục xử lý để đạt được kích thước của hạt thức ăn nhỏ hơn 50 μm. 2.1.5. Đặc điểm sinh sản Theo Sorgeloos (1980) Artemia phát triển thành con trưởng thành sau 2 tuần nuôi và bắt đầu tham gia sinh sản. Khi trưởng hành con đực dùng đôi càng ôm phần bụng của con cái gọi là “hiện tượng bắt cặp” để thụ tinh cho hoạt động sinh sản và hiện tượng này kéo dài suốt vòng đời của chúng. Quá trình giao phối xảy ra trong tư thế bắt cặp, con đực sẽ cong mình và dùng một trong hai gai sinh dục chuyển sản phẩm sinh dục vào buồng trứng của con cái và trứng sẽ được thụ tinh. Trứng phát triển trong hai buồng trứng dạng ống ở phần bụng. Trong vòng đời con cái có thể tham gia sinh sản cả hai phương thức sinh sản là đẻ con và đẻ trứng và trung bình mỗi con đẻ khoảng 1500-2500 phôi. Artemia cái có thể tham gia cả hai hình thức sinh sản: - Sự đẻ con (Ovoviviparity): trứng thụ tinh sẽ phát triển thành ấu trùng bơi lội tự do và được con cái phóng thích ra ngoài môi trường nước. 6 - Sự đẻ trứng (Oviparity): các phôi chỉ phát triển đến giai đoạn phôi vị (gastrula) và sẽ được bao bọc bằng một lớp vỏ dày (được tiết ra từ tuyến vỏ trong tử cung) tạo thành trứng nghỉ (cyst) hay còn gọi là sự “tiềm sinh” (diapause) và được con cái sinh ra. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh sản của Artemia như: thức ăn, nhiệt độ, độ mặn,… Khi các yếu tố trên tác động theo chiều hướng bất lợi đối với Artemia, thì chúng sẽ sinh sản bằng cách đẻ trứng bào xác. Ngược lại, Artemia sẽ đẻ con khi môi trường sống thuận lợi. Ở độ mặn thấp (dưới 80‰) Artemia đẻ con và ngược lại, độ mặn cao (trên 80‰) Artemia đẻ trứng (Sorgeloos, 1980; Browne et al., 1984). 2.2. Một số loại thức ăn dành cho Artemia Hiện nay, thức ăn cho Artemia thường là tự người nuôi làm ra để cung cấp cho các hoạt động sản xuất Artemia. Các loại thức ăn phổ biến như: tảo tươi, tảo khô, phân gà, các phụ phẩm từ nông nghiệp và công nghiệp, các loại thức ăn cho ấu trùng tôm, cá,… Trong ao nuôi sinh khối, thức ăn của Artemia là các loài vi tảo được nuôi gây màu trực tiếp trong ao trước khi thả giống hoặc gián tiếp trong ao bón phân gây màu. Thành phần tảo không chỉ ảnh hưởng đến sinh trưởng và sinh sản của Artemia, mà còn ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng của sinh khối (Nguyễn Văn Hòa và ctv. 2007). Sinh trưởng của Artemia được cho ăn bằng hỗn hợp nhiều loại tảo khác nhau thường cao hơn so với một loại tảo riêng biệt vì mỗi loại tảo có thể có chất dinh dưỡng này nhưng lại thiếu chất dinh dưỡng khác. Lora-Vilchis et al., (2004) đã sử dụng hai loài tảo Isochrysis sp. và Chaetoceros muelleri làm thức ăn trong giai đoạn đầu của Artemia. Kết quả cho thấy rằng sau 7 ngày nuôi tỉ lệ sống của Artemia không khác biệt có ý nghĩa, ở nghiệm thức Artemia được cho ăn bằng tảo Isochrysis sp. tỉ lệ sống là 85%, ở nghiệm thức Artemia được cho ăn bằng tảo Chaetoceros muelleri có tỉ lệ sống là 93%. Trong thí nghiệm nuôi thu sinh khối Artemia franciscana của Phan Thành Đông và ctv. (2012) thì 2 nghiệm thức dòng Vĩnh Châu (NT1) và dòng Great Salt Lake (NT2) có thức ăn là tảo tươi Chaetoceros sp. và bổ sung cám gạo và tảo khô khi ao mất tảo. Kết quả là chiều dài ngày 13 của dòng GSL có kích thước lớn hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với dòng VC do ở ngày nuôi thứ 13 dòng VC đã đạt kích thước tối đa. Chiều dài sau 17 ngày nuôi trong điều kiện nuôi trong ao đất tại Ninh Hòa - Khánh Hòa thì Artemia dòng GSL đạt kích thước lớn hơn so với dòng VC (9,15 ± 0,07 mm so với 8,27 ± 0,04 mm). Về tỷ lệ sống thì ngày 14 đạt 71,25 ± 1,29 % và 64,25 ± 1,71% theo thứ tự NT1 và NT2. Ngoài ra, 7 Artemia dòng VC bắt cặp vào ngày 8, ngày 10 đối với dòng GSL và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Sức sinh sản của con cái trung bình dao động 46-58 (phôi nauplius/con cái), NT1 có sức sinh sản trung bình đạt cao hơn (57,39 ± 0,52 phôi nauplius/con cái) so với NT2 (46,74 ± 0,47 phôi nauplius/con cái). Sự khác biệt ở 2 chỉ tiêu sinh sản trên của 2 nghiệm thức có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Và theo tác giả Artemia franciscana dòng GSL có năng suất sinh khối và đánh giá hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với dòng Vĩnh Châu. Theo Nguyễn Văn Hòa và ctv. (2005) khi nuôi bằng tảo tạp và tảo Chaetoceros sp. phân lập cho thấy Artemia có tỉ lệ sống cao hơn ở nghiệm thức tảo tạp trong 2 ngày đầu, nhưng sau đó tỉ lệ sống ở nghiệm thức Chaetoceros sp. cao hơn và duy trì đến hết đợt nuôi (13 ngày). Về sinh sản, sau 40 ngày nuôi thì tổng số phôi được sinh ra từ một con cái Artemia cho ăn bằng tảo phân lập Chaetoceros sp. là 661±406 phôi/con cái, trong khi đó ở Artemia cho ăn bằng tảo tạp chỉ đạt được là 284±99 phôi/con cái, và tuổi thọ của Artemia cho ăn bằng tảo Chaetoceros sp. cũng kéo dài hơn Artemia cho ăn bằng tảo phân lập. Qua phân tích các thành phần acid béo trong Artemia khi cho ăn bằng hai loại tảo khác nhau thì thấy tảo có kiểm soát (Chaetoceros sp. được phân lập từ vùng biển Vĩnh châu) rất tốt để làm thức ăn cho Artemia, vì đã cải thiện chất lượng sinh khối khá rõ rệt nếu so với việc sử dụng tảo không có kiểm soát (tảo tạp). Nguyễn Văn Hòa và ctv. (2006), cho thấy rằng cả hai loài tảo Chaetoceros sp. và Nitzschia sp. được phân lập từ ao bón phân gây màu tảo ở vùng ruộng muối ở vùng biển Vĩnh Châu đều có thể sử dụng làm thức ăn cho Artemia mặc dù Chaetoceros sp. là lựa chọn tốt nhất xét cả về mặt tỷ lệ sống và tăng trưởng. Sau 7 ngày nuôi với thức ăn là tảo Chaetoceros sp. quần thể đã xuất hiện sự bắt cặp và 10 ngày nuôi đã có một số con cái mang trứng non. Trong khi đó, Artemia cho ăn bằng tảo Nitzschia sp. vẫn còn giai đoạn con non (juveniles) và tiền trưởng thành ở ngày nuôi thứ 10. Cũng theo tác giả, Chaetoceros sp. tuy giàu EPA nhưng nghèo DHA nên việc Artemia được cho ăn bằng tảo Chaetoceros sp. có thể nói là thức ăn tốt cho tôm, cá nhưng để đạt kết quả tốt nhất thì nên được giàu hóa với DHA, hoặc bổ sung thêm loài tảo giàu DHA làm thức ăn cho chúng trước khi đem cho tôm cá ăn. Để cải thiện chất lượng của Artemia thì có thể sử dụng vi tảo làm thức ăn để tăng hàm lượng HUFA cũng như PUFA của Artemia lên. Lavens and Sorgeloos (1991), được trích dẫn bởi Nguyễn Tấn Sỹ (2012), chứng tỏ rằng sử dụng vi tảo thuộc chi Nannochloropsis, Chaetoceross và Chlorella làm thức ăn cho Artemia sẽ nâng cao hàm lượng PUFA. Nguyễn Văn Hòa và ctv. (2006) cho rằng Artemia thường được cải thiện chất lượng bằng kỹ thuật giàu hóa (sử dụng sản phẩm giàu 8 hàm lượng acid béo làm thức ăn cho Artemia) trước khi đem cho tôm, cá ăn. Luong Van Thinh và ctv. (1999) đã dùng 13 loài tảo biển với thành phần HUFA khác nhau làm thức ăn cho Artemia, sau 7 ngày nuôi cho thấy thành phần HUFA trong thức ăn biểu hiện rõ ràng trong thành phần HUFA của Artemia. Tuy vi tảo là nguồn thức ăn tốt nhất cho Artemia nhưng chi phí nuôi tảo thuần khá cao, do đó nuôi sinh khối tảo thuần cho Artemia khá tốn kém. Hơn nữa, không phải tất cả tảo đơn bào là thích hợp cho Artemia. Bên cạnh đó, tảo khô cũng cho hiệu quả sinh trưởng tốt, đặc biệt là khi các điều kiện chất lượng nước được giữ ở mức tối ưu. Nhưng, điểm yếu khi sử dụng tảo khô vẫn là chi phí cao, phần lớn tảo khô tan trong nước nên Artemia không thể ăn được, đồng thời làm suy giảm chất lượng nước của môi trường nuôi (Dhont and Lavens (1996)). Cũng theo Dhont and Lavens (1996), vi khuẩn và nấm men có thể thay thế vi tảo là thức ăn cho Artemia nhờ các đặc điểm: Đường kính tế bào nhỏ hơn 20µm và thành phần dinh dưỡng khá hoàn chỉnh; Vách tế bào cứng ngăn chặn sự hòa tan chất dinh dưỡng trong nước của môi trường nuôi; Sản phẩm sẵn có ở qui mô thương mại và giá thành chấp nhận được (thường được sử dụng làm thức ăn gia súc). Trong nghề nuôi Artemia, người ta còn sử dụng thức ăn nhân tạo như thức ăn cho tôm nhằm nâng cao tỷ lệ sống cũng như sức sinh sản của chúng. Naegel (1999) trong thí nghiệm nuôi sinh khối của mình đã so sánh nuôi Artemia bằng tảo Chaetoceros và thức ăn thương mại Nestum (thức ăn cho trẻ con), kết quả cho thấy sau 14 ngày nuôi tỉ lệ sống và tăng trưởng của hai nghiệm thức này là như nhau nhưng hàm lượng lipid của Artemia được cho ăn bằng thức ăn Nestum cao hơn Artemia được cho ăn tảo Chaetoceros. Trần Hữu Lễ và Nguyễn Văn Hòa (2013), bổ sung thức ăn cho tôm sú số 0 vào việc nuôi Artemia cho kết quả sức sinh sản của Artemia đạt (53±18 phôi/con cái) cao hơn so với nghiệm thức bổ sung thức ăn cám gạo (42 ± 9 phôi/con cái) và đối chứng – nước tảo và phân gà (43 ± 10 phôi/con cái). Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Năng suất trứng bào xác ở nghiệm thức bổ sung thức ăn tôm số 0 đạt cao nhất (157,2 ± 15,0 kg/ha/vụ) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại (tương ứng cám gạo và đối chứng là 96,0 ± 15,8 kg/ha/vụ và 65,4 ± 5,9 kg/ha/vụ). Tỷ suất lợi nhuận khi nuôi Artemia có bổ sung thức ăn tôm số 0 đạt cao nhất (3,1 ± 0,4 lần) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mô hình nuôi truyền thống - đối chứng (1,4 ± 0,2 lần) mặc dù chi phí cho việc nuôi này là đáng kể. Nguyễn Thị Kim Phượng và Nguyễn Văn Hòa (2013) thu được các chỉ tiêu sinh trưởng và sinh sản của nghiệm thức có thức ăn cho tôm cao hơn các nghiệm 9 thức khác, gần tương đương so với nghiệm thức nuôi bằng tảo Chaetoceros – tỷ lệ sống và tổng phôi của nghiệm thức nuôi bằng tảo là 88,0±2,40 và 1531±16 so với nghiệm thức nuôi cho ăn 100% thức ăn tôm sú số 0 là 85,3±47,1 và 1707± 286. Theo tác giả, tuy nuôi bằng tảo Chaetoceros thì Artemia có sức sinh sản tốt hơn nhưng xét về khả năng ổn định thì dùng thức ăn tôm sú sẽ tiện lợi cho người nuôi hơn vì thức ăn tôm sú là nguồn thức ăn có sẵn trên thị trường, người nuôi có thể chủ động được nguồn thức ăn trong khi việc nuôi tảo cần thời gian và trải qua nhiều công đoạn. Bên cạnh đó, trên ruộng muối nuôi Artemia nông dân thường sử dụng phối hợp phân chuồng (chủ yếu là phân gà) kết hợp với phân vô cơ (Urea, DAP...) để gây màu trực tiếp (trong ao nuôi Artemia) hoặc gián tiếp (ngoài ao bón phân) trước khi cấp nước “màu” (nước tảo) vào trong ao nuôi. Phân gà khi được bón trực tiếp vào ao nuôi, ngoài việc cung cấp dinh dưỡng kích thích tảo phát triển, phân còn là nguồn thức ăn trực tiếp cho Artemia. Ngoài ra, khi lượng nước tảo cung cấp vào ao hàng ngày thiếu hụt, nông dân còn sử dụng cám gạo, bột đậu nành hoặc các loại phụ phẩm nông nghiệp khác...để duy trì quần thể Artemia. Cám gạo là nguyên liệu sử dụng phổ biến trong chế biến thức ăn thủy sản ở nước ta bao gồm cả thức ăn tự chế và thức ăn công nghiệp. Người nuôi thủy sản và các nhà máy chế biến thức ăn thủy sản có thể thu mua cám gạo ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Ưu điểm chính của các sản phẩm là chi phí thấp và có nguồn cung dồi dào. Điều quan trọng đối với thực phẩm khô này là đảm bảo chất lượng, nguồn cung cấp và khả năng lưu trữ lâu dài mà không làm giảm chất lượng. Vì vậy, nếu sản phẩm cần dùng với số lượng lớn thì phải được bảo quản ở nơi khô ráo và mát mẻ. Cám gạo thường có dạng bột, mềm và mịn. Cám gạo chiếm khoảng 1012% khối lượng lúa chưa xay xát. Cám là hỗn hợp của lớp vỏ ngoài của hạt gạo và lớp aloron. Những thành phần được thu hồi khi khi xay xát và chế biến gạo và được gọi chung là cám. Theo www.nutritiondata.com thì cám có lượng dinh dưỡng rất cao với lượng chất béo chưa bão hòa cao (4g/100g), vitamin nhóm E, nhóm B, phylate, kẽm, can xi, kali đều rất cao, ngoài ra trong cám còn có chứa chất béo omega 3 khá cao. Theo www.ricebranoil.info thì 65% chất dinh dưỡng của gạo tập trung ở cám, thành phần của cám có nhiều loại vitamin và chất béo tốt, lại cân đối và có nhiều xơ dễ tiêu có thể xem là rất tốt cho cả con người. Tuy nhiên cám thường được cho các loại gia súc và thủy sản ăn chứ không cho người. Nguyên nhân là do cám có một số enzym (chất men) nội tại hoạt động rất mạnh sẽ oxy hóa các nhóm béo chưa no của cám rất nhanh chỉ vài giờ sau khi chế biến tạo mùi hôi khó chịu. Thêm vào đó do công nghệ xay xát gạo chưa cao lại ít được đầu tư theo hướng thu cám sạch nên cám thường lẫn rất nhiều loại tạp chất (vỏ trấu, 10 sạn đá…). Do đó mà hầu hết lượng cám thu được thường được nông dân dùng nuôi các loại gia súc, gia cầm. Thành phần dinh dưỡng của cám gạo: Thành phần Khối lượng/100g - Calori 316 KJ - Tổng số lipit 21g - Chất béo bảo hòa 4g - Chất xơ tiêu hóa được 21g - Carbohydrat 28 g - Đường 0,9 g - Protein 13,3 g - Vitamin E 4,9 mg - Vitamin B6 4,1 mg - Canxi 57 mg - Kali Nguồn: www.Nutritiondata.com Cám gạo đóng vai trò là chất dinh dưỡng chính cho cá, cung cấp một lượng lớn vitamin, khoáng, chất béo và protein. Trong nghiên cứu nhằm mục đích xác định khả năng sử dụng cám ly trích dầu làm thức ăn cho cá của Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2006) thì kết quả phân tích cám ly trích có hàm lượng protein là 16,3%, lipid 2,76%. Chỉ số Peroxit (PV) của cám ly trích sau 4 tháng bảo quản là 11,2 meq/kg có thể sử dụng tốt làm thức ăn cho cá. Cám ly trích dầu có thể sử dụng tốt làm thức ăn cho cá Tra, Rô phi với hàm lượng cám phối chế có thể đến mức 60% trong công thức thức ăn. Nguyen Thi Ngoc Anh et al., (2009) thí nghiệm nuôi Artemia với các nghiệm thức thức ăn gồm tảo nước xanh (GW), tảo nước xanh + phân lợn (GW + PM), tảo nước xanh, phân lợn và cám gạo (GW + PM + RB) và tảo nước xanh, phân lợn và đậu nành (GW + PM + SB) thì trong 4 tuần nuôi đầu tiên, Artemia có sự khác biệt về sức sinh sản, mặc dù chiều dài giữa các nghiệm thức tương đương 11 nhau. Sức sinh sản từ tuần 2 – 4 trong nghiệm thức GW thấp hơn đáng kể so với 3 nghiệm thức còn lại (P<0,01). GW có sức sinh sản cao nhất ở tuần 5 sau đó giảm dần hoặc ổn định cho đến cuối vụ nuôi. Trong 3 nghiệm thức còn lại sức sinh sản tăng dần từ tuần 2 – 4, với nghiệm thức SB đạt cao nhất. Từ tuần 5 trở đi, sức sinh sản giảm trong cả 3 nghiệm thức. Nghiệm thức RB có giá trị trung bình giữa nghiệm thức PM và SB cho đến tuần 8. Từ tuần 9 – 12, sức sinh sản tương đương cho cả 3 nghiệm thức. Trong lứa đẻ đầu tiên (tuần 2) hình thức sinh sản đẻ con chiếm tỷ lệ tương đối cao (15,8 – 17,5%), sau đó hầu hết chuyển sang đẻ trứng trong lứa đẻ thứ 2 (tuần 3: đẻ con trong khoảng 5,8 – 12,5%). Từ tuần 4 trở đi, phần trăm Artemia đẻ con cho thấy có sự gia tăng ít nhiều ổn định cho tới cuối thời gian nuôi. Tỷ lệ con cái đẻ con từ tuần 3 – 5 cao hơn đáng kể ở nghiệm thức GW so với 3 nghiệm thức còn lại, và tuần thứ 6 trở đi thì sự đẻ con hay đẻ trứng tương đối đều nhau trong tất cả các nghiệm thức. Theo Dobbeleir et al., (1980) phụ phẩm từ cây nông nghiệp hoặc công nghiệp như cám gạo, cám ngô, bột đậu nành, lactoserum được xem như là một nguồn thức ăn thích hợp cho việc nuôi Artemia với mật độ cao. Vật chất hòa tan của loại thức ăn này không được Artemia lọc sẽ phân hủy trong môi trường nước làm suy giảm chất lượng nước thông qua các chất độc như ammonia và nitrit. Do đó, thức ăn có hàm lượng protein hòa tan cao (ví dụ bột đậu nành) cần được xử lý trước để hạn chế ô nhiễm. 2.3. Chế phẩm sinh học Bệnh do vi khuẩn được coi là nguyên nhân chính gây chết ở các trại nuôi ấu trùng tôm (Wyban and Sweeney, 1991; Wilkenfeld, 1992) và các trại cá giống (Grisez and Ollevier, 1995). Không những thế, chúng còn hạn chế việc sản xuất các loại ấu trùng khác (Daniels, 1993; Nicolas et al., 1996). Theo truyền thống, việc quản lý các vấn đề về vi khuẩn trong trại giống tôm sú dựa vào các hợp chất hóa học, kháng sinh, gần đây mới sử dụng các vi sinh vật probiotic và “tiêm chủng” hoặc các hình thức kích thích miễn dịch khác. Việc sử dụng kháng sinh là một thực tế phổ biến trong các trại giống tôm ở Mỹ Latin và Đông Nam Á, nơi có rất ít các biện pháp hạn chế sử dụng chúng. Lạm dụng kháng sinh có thể dẫn đến sự phát triển của các chủng vi khuẩn kháng thuốc (Weston, 1996). Việc đề kháng như vậy có thể dễ dàng làm các chủng vi khuẩn chuyển sang dòng khác sau khi thay đổi bộ gen hiện tại hoặc chuyển đổi vật liệu di truyền giữa các tế bào (Towner, 1995) thông qua plasmids hoặc một thể thực khuẩn. Dư luận ngày càng tăng sự quan tâm đến kiểm soát hoặc loại trừ sử dụng kháng sinh. Do đó, phương pháp thay thế cần phải được phát triển để duy trì một môi trường vi khuẩn hữu ích 12 trong các bể nuôi ấu trùng. Một trong những phương pháp được chấp nhận đó là sử dụng các chủng vi khuẩn probiotic để kiểm soát mầm bệnh tiềm ẩn. Theo Fuller (1992) được trích dẫn bởi Bruno Gomez-Gil et al., (2000), Elie Metchnikoff ở dầu thế kỷ 20 được coi là người đầu tiên ngiên cứu chế phẩm sinh học, ông mô tả chúng là vi khuẩn tiêu hóa với mục đích cải thiện sức khỏe. Định nghĩa này tương tự đã được sửa đổi để các sinh vật, các chất có đóng góp cho sự cân bằng vi khuẩn đường ruột (Parker, 1974), và sau đó Fuller (1989) định nghĩa là thức ăn bổ sung vi sinh vật sống có lợi tác động đến vật chủ bằng cách cải thiện sự cân bằng vi khuẩn đường ruột của nó. Những định nghĩa này được áp dụng cho các loại động vật trên cạn và người. Khi chế phẩm sinh học được áp dụng trong nuôi trồng thủy sản thì định nghĩa của chúng cũng được thay đổi. Gatesoupe (1999), Bruno Gomez-Gil et al., (2000) cho rằng chế phẩm sinh học như “các tế bào vi khuẩn được quản lý theo một cách nào đó mà khi vào đường tiêu hóa có thể còn sống, với mục đích cải thiện sức khỏe”. Gram et al., (1999) được trích dẫn bởi Bruno Gomez-Gil et al., (2000), mở rộng định nghĩa bằng cách loại bỏ những hạn chế để cải thiện ruột: “bổ sung vi sinh vật sống có lợi ảnh hưởng đến vật chủ bằng cách cải thiện sự cân bằng vi khuẩn của nó”. Kiểm soát sinh học được mô tả là sử dụng chúng như kẻ thù với các vi sinh vật có hại để giảm thiệt hại gây ra đến mức chấp nhận được (Debach và Rosen, 1991, được trích dẫn bởi Bruno Gomez-Gil et al., 2000). Nói cách khác, một chế phẩm sinh học không nên được phân loại như một tác nhân kiểm soát sinh học, một vi sinh vật probiotic không nhất thiết phải là kẻ thù tấn công các tác nhân độc hại (mầm bệnh) nhưng nó sẽ ngăn ngừa thiệt hại cho các vật chủ khỏi các tác nhân gây bệnh, thường là thông qua cạnh tranh, có thể tạo ra các chất ức chế sự tăng trưởng lên vi sinh vật có hại. Các nhóm vi khuẩn trong đường ruột của một số sinh vật có khả năng kháng hoặc bảo vệ chống lại bệnh ở một số mức độ khác nhau (Fox, 1988). Trong quần thể tự nhiên của động vật thủy sản, hệ vi sinh đường ruột có thể phẩn ảnh được môi trường nước. Tuy nhiên, trong việc ương nuôi ấu trùng, sự cân bằng này có thể thay đổi khi sử dụng nước khử trùng, vi tảo, Artemia nauplii, luân trùng và kháng khuẩn. Kết quả là, các nhóm vi khuẩn bảo vệ có thể không phát triển trong môi trường hoặc trong hệ tiêu hóa của ấu trùng. Các hậu ấu trùng được nuôi trong môi trường vô trùng sẽ phát triển không tốt bằng việc nuôi trong các ao nuôi, đặc biệt chúng có thể dễ nhiễm bệnh và bị áp lực về sinh lý. Do vậy, chế phẩm sinh học ngày nay được coi như một công cụ hữu hiệu để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong ao nuôi, chúng còn được chấp nhận rộng rãi để khống chế dịch bệnh, tăng sức đề kháng cho sinh vật. Khác với biện 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng