Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ An ninh lương thực của việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế...

Tài liệu An ninh lương thực của việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

.PDF
107
531
123

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ----------------- LÊ ANH THỰC AN NINH LƯƠNG THỰC CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Hà Nội - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ----------------- LÊ ANH THỰC AN NINH LƯƠNG THỰC CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế Mã số : 60 31 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Hà Văn Hội Hà Nội - 2012 MỤC LỤC Danh mục các ký hiệu viết tắt…………………………………………………i Danh mục các bảng……...……………………………………………………ii Danh mục các hình vẽ………………. ……….……………………..……….iii PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 CHƯƠNG 1 . CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN NINH LƯƠNG THỰC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ............................................ 7 1.1. Khái niệm và vai trò của an ninh lương thực .......................................... 7 1.1.1. Khái niệm an ninh kinh tế và an ninh lương thực ............................ 7 1.1.2. Quan hệ giữa an ninh lương thực, an ninh kinh tế và an ninh quốc gia .............................................................................................................. 13 1.1.3. Vai trò của an ninh lương thực đối với đời sống xã hội ................. 15 1.2. Nội dung của an ninh lương thực .......................................................... 19 1.2.1. Sự sẵn có về lương thực .................................................................. 19 1.2.2. Sự tiếp cận với lương thực .............................................................. 20 1.2.3. Sự ổn định của lương thực .............................................................. 20 1.2.4. Sự an toàn, chất lượng của lương thực được sử dụng .................... 20 1.3. Các nhân tố tác động đến an ninh lương thực ....................................... 21 1.3.1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ...................................... 21 1.3.2. Các nhân tố liên quan đến việc sản xuất và cung ứng lương thực . 32 CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH AN NINH LƯƠNG THỰC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .......................... 39 2.1. Khái quát về tiềm năng sản xuất lương thực của Việt Nam và chủ trương, chính sách của Nhà nước về an ninh lương thực quốc gia ................. 39 2.1.1. Khái quát về tiềm năng sản xuất lương thực của Việt Nam ........... 39 2.1.2. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về an ninh lương thực ................................................................................................. 41 2.2. Tình hình an ninh lương thực của Việt Nam ......................................... 44 2.2.1. Thành tựu an ninh lương thực Việt Nam ........................................ 45 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân...................................................... 52 2.3. Cơ hội và thách thức đối với việc đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ................................................. 61 2.3.1. Các cơ hội đảm bảo an ninh lương thực từ toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ........................................................................................... 61 2.3.2. Thách thức đối với Việt Nam trong đảm bảo an ninh lương thực.. 62 CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .................................................................................... 76 3.1. Dự báo an ninh lương thực trong những năm tới .................................. 76 3.1.1. Tình hình an ninh lương thực thế giới và dự báo về an ninh lương thực toàn cầu ............................................................................................. 76 3.1.2. Dự báo an ninh lương thực của Việt Nam ...................................... 81 3.2. Quan điểm định hướng và giải pháp bảo đảm an ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa ............................................................ 85 3.2.1. Quan điểm định hướng về an ninh lương thực của Việt Nam ....... 85 3.2.2. Một số giải pháp nhằm đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế .................................................... 86 KẾT LUẬN .................................................................................................... 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 99 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT STT Viết tắt Tiếng Việt 1 ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 2 CAP Chính sách nông nghiệp chung 3 CIEM Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương 4 EU Liên minh Châu Âu 5 FAO Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hợp quốc 6 HNKTQT Hội nhập Kinh tế Quốc tế 7 IDSARD Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn 8 IFPRI Viện Nghiên cứu và Chính sách lương thực thế giới 9 ILO Tổ chức Lao động Thế giới 10 IMF Quỹ Tiền tệ quốc tế 11 KCN Khu công nghiệp 12 NGOs Các tổ chức phi Chính phủ 13 OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế 14 TCH Toàn cầu hóa 15 UN Liên Hợp quốc 16 UNDP Chương trình Phát triển thuộc Liên hợp quốc 17 VFA Hiệp hội Lương thực Việt Nam 18 WB Ngân hàng Thế giới 19 WFP Chương trình Lương thực Thế giới 20 WTO Tổ chức Thương mại Thế giới i DANH MỤC CÁC BẢNG STT Số hiệu Nội dung 1 Bảng 1.1 Thuế nhập khẩu nông sản của các nước phát triển 30 2 Bảng 2.1 Sản lượng lương thực qua các năm 46 3 Bảng 2.2 Thu nhập bình quân đầu người 49 4 Bảng 2.3 Tiêu dùng gạo bình quân đầu người mỗi năm 51 5 Bảng 2.4 Diện tích trồng lúa qua các năm 52 6 Bảng 2.5 Diện tích, thu nhập và lợi nhuận của hộ trồng lúa 55 7 Bảng 2.6 Các kịch bản dự báo nước biển dâng đối với Việt Nam 66 8 Bảng 3.1 Dự kiến cân đối cung cầu thóc gạo của Việt Nam, 2007 – 2020 83 ii Trang DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ STT Số hiệu Nội dung Trang 1 Hình 1.1 Mối liên quan giữa mất an ninh lương thực, suy dinh dưỡng, và nghèo đói 15 2 Hình 1.2 Một cách tiếp cận vĩ mô về các yếu tố quyết định tới an ninh lương thực 17 3 Hình 2.1 Sản lượng lương thực, thực phẩm năm 2010 so với năm 1986 (lần) 46 iii PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu Người xưa nói: “Dân dĩ thực vi tiên” - tức dân lấy ăn làm đầu, cái ăn hay lương thực luôn là nhu cầu thiết yếu trước tiên của con người. Đảm bảo lương thực cho người dân luôn là vấn đề trước mắt cũng như lâu dài cho mọi quốc gia, trong mọi thời đại. Bước sang những thập niên đầu của thiên nhiên kỷ thứ 3, trong bối cảnh toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT), nhiều quốc gia vẫn đang phải đối mặt với vấn đề đảm bảo an ninh lương thực - nhân tố hàng đầu đảm bảo ổn định và phát triển xã hội, một nội dung quan trọng trong an ninh kinh tế quốc gia. An ninh lương thực ngày càng “nóng” lên, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và cộng đồng thế giới khi thế giới mới trải qua cuộc khủng hoảng lương thực năm 2008 và hiện nay giá lương thực lại đang có xu hướng tăng lên. Với 1/5 dân số thế giới trong diện đói nghèo ở nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển với biểu hiện là không đáp ứng được nhu cầu lương thực hiện vẫn là vấn đề lớn của thế giới hiện nay. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ là hai mặt của quá trình phát triển thế giới, có tác động ảnh hưởng đến các quốc gia, các lĩnh vực của thế giới, trong đó có an ninh lương thực ở cấp độ quốc gia và toàn cầu. Chính bối cảnh hiện nay, đòi hỏi các quốc gia cần phải giải bài toán an ninh lương thực trong sự tác động ảnh hưởng tổng thể của quá trình phát triển thế giới. Quá trình hình thành dân tộc Việt Nam gắn liền với sản xuất lúa nước lâu đời, hình thành nên một quốc gia nông nghiệp và ông cha ta đã đúc kết một chân lý: “phi nông bất ổn”. Đảng ta từ khi ra đời, lãnh đạo cách mạng đã rất quan tâm đến vấn đề nông nghiệp và nông dân, đến đảm bảo lương thực cho nhân dân. Quá trình đổi mới hơn 25 năm qua, nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực, trong đó nổi bật là thành tựu xóa đói giảm 1 nghèo, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đồng thời duy trì vị thế của nước xuất khẩu gạo hàng đầu góp phần đảm bảo an ninh lương thực của thế giới. Tuy nhiên, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia còn có những hạn chế, như an ninh lương thực còn thiếu bền vững khi còn có sự chênh lệch về tiếp cận lương thực giữa các nhóm và giữa một số vùng của đất nước; sản xuất lương thực chịu tác động từ tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu và các cú sốc từ thị trường lương thực thế giới; yêu cầu phát huy lợi thế so sánh từ địa vị quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu để gia tăng năng suất và thu nhập cho người sản xuất lương thực .v.v…Trong bối cảnh đó, một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam cần phải được giải quyết thấu đáo, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay: 1) Tại sao an ninh lương thực lại là vấn đề cấp bách đối với mọi quốc gia trong bối cảnh hiện nay? 2) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến an ninh lương thực thế giới nói chung và an ninh lương thực của Việt Nam nói riêng? 3) Tình hình an ninh lương thực của Việt Nam hiện nay như thế nào? 4) Việt Nam cần phải làm gì để đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế? Những vấn đề trên đang đặt ra cho Việt Nam những câu hỏi cần lời giải đáp. Do đó, nghiên cứu một cách hệ thống về lý luận an ninh lương thực, về thực trạng an ninh lương thực thế giới và Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp góp phần đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam là vấn đề cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ các lí do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “An ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” để làm luận văn Cao học ngành Kinh tế đối ngoại. 2 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài An ninh lương thực được nhiều chính phủ, các tổ chức quốc tế và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm dưới các góc độ và cấp độ khác nhau: 1) Trong Báo cáo phát triển con người năm 1994 của Liên Hợp quốc (UNDP) với chủ đề: “Những khía cạnh mới của an ninh con người” đã tiếp cận an ninh con người với nội hàm bao gồm an ninh lương thực. 2) Báo cáo phát triển con người năm 2005 của Liên Hợp quốc (UNDP) với chủ đề: “Hợp tác quốc tế trong thời điểm quyết định: viện trợ, thương mại và an ninh trong một thế giới không bình đẳng” đã chỉ ra những cản trở, bất bình đẳng của thương mại trong nông nghiệp hiện nay đối với các nước đang phát triển, từ đó tác động đối với sản xuất lương thực và đảm bảo thực hiện mục tiêu an ninh lương thực trên thế giới. 3) Trong Báo cáo phát triển thế giới năm 2008 của Ngân hàng thế giới với tiêu đề: “Tăng cường nông nghiệp cho phát triển” đã chỉ ra vai trò của nông nghiệp với đảm bảo an ninh lương thực, các giải pháp phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần đảm bảo an ninh lương thực ở cả cấp độ toàn cầu, quốc gia và hộ gia đình. 4) Các học giả Trung Quốc, Vương Dật Châu và cộng sự (1999) trong cuốn sách “An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa” đã đề cập đến nội dung của an ninh lương thực dưới góc độ là bộ phận quan trọng của an ninh kinh tế, đề ra tác động của toàn cầu hóa đối với an ninh lương thực của Trung Quốc. 5) Các nhà nghiên cứu Việt Nam như Nguyễn Xuân Thắng và cộng sự (2006) trong cuốn sách: “Chênh lệch phát triển và an ninh kinh tế ở ASEAN” trên cơ sở hệ thống khái niệm an ninh kinh tế theo cách tiếp cận phi truyền thống đã chỉ ra biểu hiện và cấu thành của an ninh kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa gắn với nhiều tiêu chí trong đó có làm rõ nội hàm của an ninh lương thực, dấu hiệu chính để xác định an ninh lương thực, hệ thống giám sát đảm bảo an ninh lương thực và nguyên nhân của bất ổn an ninh lương thực. 6) Trong quyển sách “Kinh tế Việt Nam năm 2008” và 7) Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội (8/2008) của các tác giả Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung 3 ương, đã đề cập đến sản xuất lúa gạo và vấn đề an ninh lương thực ở Việt Nam, trong đó khái quát thành tựu của Việt Nam trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo thời kỳ đổi mới, thực trạng của sản xuất lúa gạo hiện nay gắn với yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực, đề xuất giải pháp đối với sản xuất lúa gạo gắn với đảm bảo an ninh lương thực trong hội nhập WTO. 8) Trong quyển sách “Thành viên WTO thứ 150 – bài học từ các nước đi trước” của Nguyễn Văn Thanh đã phân tích những tác động được – mất trong lĩnh vực nông nghiệp khi là thành viên WTO là các quốc gia đang phát triển. Một số bài viết bằng Tiếng Anh trong thời gian gần đây đề cập đến an ninh lương thực của Việt Nam trong mối quan hệ với phát triển nền kinh tế, như 9) Nguyen Van Ngai (2010): “food security and economic development in Vietnam”; 10) Kazunari Tsukada (2007): “Vietnam: food security in a rice – exporting country”, đề cập đến vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt, đó là vừa phải đảm bảo gạo an toàn cho thị trường trong nước vừa phải cải thiện thu nhập cho người nông dân trồng lúa bằng việc gia tăng xuất khẩu gạo, từ đó phân tích và rút ra bài học từ thực tế Việt Nam. Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng tải trên các trang web ở trong và ngoài nước của các tác giả đề cập đến nội dung liên quan đến an ninh lương thực. Những tài liệu nêu trên thật sự bổ ích, sẽ được tác giả nghiên cứu sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc triển khai đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích tình hình an ninh lương thực của thế giới và Việt Nam trong bối cảnh TCH và HNKTQT từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam. Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: - Phân tích rõ nội hàm của an ninh lương thực hiện nay; chỉ ra những yếu tố tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đến an ninh lương thực quốc gia . 4 - Phân tích, đánh giá tình hình an ninh lương thực của Việt Nam thời gian qua. - Dự báo và đề xuất một số định hướng giải pháp góp phần đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là an ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Phạm vi nghiên cứu: - Về thời gian: từ năm 1998 đến nay. Đây là mốc thời gian Việt Nam bắt đầu hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới. - Về không gian và nội dung: + An ninh lương thực, an ninh năng lượng, các cân đối vĩ mô… là các nội dung của An ninh kinh tế. Luận văn chỉ tìm hiểu một khía cạnh của an ninh kinh tế đó là an ninh lương thực, nhưng cũng có phân tích mối liên hệ của các nội dung của an ninh kinh tế. + Do an ninh lương thực là vấn đề toàn cầu không chỉ là quốc gia, nên luận văn khái quát tình hình an ninh lương thực trên thế giới, chỉ ra các tác động của bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với an ninh lương thực. Đi sâu phân tích thực trạng an ninh lương thực của Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin để nghiên cứu an ninh lương thực trong sự vận động, phát triển và liên hệ với các yếu tố tác động ảnh hưởng của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; đánh giá về an ninh lương thực trên quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển; tìm ra bản chất của an ninh lương thực quốc gia để chủ động đề ra giải pháp ứng phó. 5 Sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống để nghiên cứu an ninh lương thực của Việt Nam trong an ninh lương thực của thế giới, trong sự tương tác, liên quan từ các yếu tố tác động của bối cảnh toàn cầu và các yếu tố liên quan trong nước. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích tài liệu, số liệu; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê số liệu; phương pháp tổng hợp; phương pháp trao đổi với chuyên gia. 6. Đóng góp mới của luận văn - Làm rõ khái niệm an ninh kinh tế, trong đó có khái niệm an ninh lương thực ở các cấp độ. - Luận giải sự cần thiết phải đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. - Dự báo và đề xuất một số giải pháp góp phần đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Bố cục của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về an ninh lương thực trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 2: Tình hình an ninh lương thực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 3: Dự báo và một số giải pháp đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 6 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN NINH LƯƠNG THỰC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm và vai trò của an ninh lương thực 1.1.1. Khái niệm an ninh kinh tế và an ninh lương thực 1.1.1.1. Khái niệm an ninh kinh tế Thuật ngữ an ninh quốc gia hiện nay đang có sự mở rộng, từ tiếp cận truyền thống sang cách tiếp cận phi truyền thống. Theo cách tiếp cận truyền thống vốn tương đối hẹp trước đây, quan niệm an ninh quốc gia là bảo vệ độc lập chủ quyền, chế độ chính trị và người dân trước các mối đe dọa, xâm lược bên ngoài là chủ yếu. Cách tiếp cận phi truyền thống đã mở rộng quan niệm về an ninh quốc gia không chỉ quan niệm an ninh quốc gia truyền thống mà còn bao hàm cả các lĩnh vực khác như: an ninh kinh tế, an ninh xã hội, an ninh con người, an ninh văn hóa – tư tưởng… trong đó không chỉ nhấn mạnh các mối đe dọa, xâm lược từ bên ngoài mà còn chú ý đến cả các mối đe dọa từ bên trong, cả quân sự lẫn phi quân sự. Bối cảnh quốc tế trong thập niên cuối của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, xu thế hợp tác, phát triển gia tăng và nhất là xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ đã làm cho vấn đề an ninh kinh tế ngày càng trở nên cấp thiết đối với mọi quốc gia, dân tộc. Hiện có nhiều định nghĩa về an ninh kinh tế theo các hướng và góc độ khác nhau. Chẳng hạn, theo B.Buzan, an ninh kinh tế liên quan đến khả năng tiếp cận các nguồn lực, thị trường cần thiết bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, phúc lợi của nhân dân và sức mạnh của nhà nước [15, tr.23]. 7 Theo Vương Dật Châu và cộng sự (1999) trong An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, an ninh kinh tế để chỉ năng lực của một hệ thống kinh tế quốc gia chống lại những sự quấy nhiễu, uy hiếp, tấn công xâm nhập của cả bên trong lẫn bên ngoài, là môi trường trong nước và quốc tế mà trong đó, một hệ thống kinh tế quốc gia được phát triển liên tục và an toàn [2, tr.261]. Theo Nguyễn Xuân Thắng và cộng sự (2006) trong sách Chênh lệch phát triển và an ninh kinh tế ở ASEAN, an ninh kinh tế được thể hiện thông qua sự ổn định và tiềm năng duy trì ổn định nền kinh tế của một quốc gia (ở tầm vĩ mô) và kinh tế của hộ gia đình (ở tầm vi mô). Khi nền kinh tế luôn phát triển, ổn định, mức tăng trưởng đều đi đôi với tăng trưởng có chất lượng, trong khi các nguồn lực của tăng trưởng được duy trì một cách bền vững thì nền kinh tế đó được coi là đảm bảo về an ninh. Khi nguồn thu nhập của một hộ gia đình luôn được đảm bảo và ổn định, các cơ hội về việc làm luôn sẵn có thì hộ gia đình được coi là đảm bảo an ninh về kinh tế [11, tr. 37]. Các quan niệm trên có điểm chung là đều chỉ ra yêu cầu về sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế quốc gia (hoặc kinh tế của hộ gia đình) như là đặc trưng biểu hiện của an ninh kinh tế. Tuy nhiên, việc đi sâu phân tích và trình bày quan niệm về an ninh kinh tế không phải là yêu cầu đặt ra mà vấn đề là cần làm rõ vị trí, vai trò hiện nay của an ninh kinh tế trong an ninh quốc gia hay chính là việc làm rõ vì sao an ninh kinh tế nổi lên thành một vấn đề cấp thiết, một trụ cột trong an ninh quốc gia của nhiều nước. Bối cảnh và nguyên nhân nảy sinh vấn đề an ninh kinh tế có thể chỉ ra trên các điểm cơ bản: Trước hết, do bối cảnh quốc tế sau chiến tranh lạnh, cuộc chạy đua vũ trang đã chuyển sang chạy đua về sức mạnh kinh tế, đa số các quốc gia đều lấy phát triển kinh tế làm trung tâm trong chiến lược phát triển của mình. Tiếp đến, sự mở rộng của thể chế kinh tế thị trường trên thế giới, làm cho các nước phụ thuộc, gắn bó lẫn nhau trong mạng lưới phân công quốc tế. Ngoài ra còn phải kể đến sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên chiến 8 lược toàn cầu cho sự tồn tại và phát triển của các nền kinh tế như tài nguyên dầu mỏ, nước, lương thực… Các nguyên nhân cơ bản nêu trên đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng ngày nay, làm cho an ninh kinh tế ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết, một trong những trụ cột của an ninh quốc gia. Có thể dẫn ra đây lời nhận xét của Vương Dật Châu và cộng sự (1999) trong quyển sách An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa: Vấn đề an ninh kinh tế chắc chắn đã chiếm vị trí trung tâm trong lĩnh vực an ninh quốc tế và an ninh quốc gia hiện nay và sẽ chỉ đạo hướng đi của an ninh quốc tế trong thế kỷ sau cũng như việc chế định chiến lược an ninh của các nước [2, tr.261]. 1.1.1.2. Khái niệm an ninh lương thực Theo Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thuộc Liên Hợp quốc (FAO) (2002) trong Trade reform and security food, hiện nay có đến hơn 200 định nghĩa về an ninh lương thực, mỗi cách tiếp cận đều đưa ra một quan niệm về an ninh lương thực [16]. Vì thế khái niệm này được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Các nhà nghiên cứu cho rằng, bất cứ khi nào quan niệm an ninh lương thực được đề cập đến trong tiêu đề của một nghiên cứu thì nên đưa ra các định nghĩa rõ ràng hoặc ngầm định cho sát với thực tế. An ninh lương thực là quan niệm chỉ mới xuất hiện vào giữa những năm 70 của thế kỷ XX trong các thảo luận về tình hình lương thực thế giới và là phản ứng trước cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu vào thời điểm đó. Quan tâm ban đầu chủ yếu tập trung các vấn đề cung lương thực - đảm bảo nguồn cung cấp và ở một mức độ nào đó là ổn định giá cả của nguồn thực phẩm chủ yếu ở cấp độ quốc gia và quốc tế. Mối quan ngại về cung của các tổ chức quốc tế bắt nguồn từ việc thay đổi tổ chức của nền kinh tế lương thực toàn cầu và điều này đã gây ra khủng hoảng. Sau đó đã diễn ra các vòng đàm phán quốc tế dẫn đến việc tổ chức Hội nghị lương thực thế giới năm 1974 và 9 các hệ thống thể chế mới liên quan đến thông tin, nguồn lực để đảm bảo an ninh lương thực và các diễn đàn thảo luận chính sách [16]. Theo FAO, an ninh lương thực là một trong những khái niệm ứng dụng trong chính sách công, quan niệm này tiếp tục được phát triển để phản ánh được độ phức tạp của các vấn đề chính sách và kỹ thuật có liên quan. Hội nghị thượng đỉnh lương thực thế giới năm 1974 định nghĩa an ninh lương thực là: “lúc nào cũng có đủ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cơ bản của thế giới để đảm bảo việc tiêu dùng lương thực, thực phẩm ngày một nhiều hơn và để bù đắp được những biến động trong sản xuất và giá cả” (UN, 1975). Năm 1983, FAO mở rộng quan niệm này để tính thêm cả việc đảm bảo cho những người dễ bị tổn thương tiếp cận được với các nguồn cung cấp sẵn có, hàm ý rằng cần phải quan tâm đến sự cân bằng giữa cầu và cung trong phương trình an ninh lương thực: “đảm bảo tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được về mặt thể chất và kinh tế đối với nguồn lương thực mà họ cần”. Sau đó, Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 1986 với tiêu đề “Đói nghèo” đã tập trung vào tính linh hoạt theo thời gian của mất an ninh lương thực. Báo cáo này đã đưa ra sự phân biệt giữa mất an ninh lương thực kinh niên, gắn liền với các vấn đề về nghèo khổ lâu năm hoặc nghèo khổ cơ cấu và thu nhập thấp và mất an ninh lương thực đang chuyển đổi liên quan đến các giai đoạn khi thảm hoạ thiên nhiên, kinh tế sụp đổ hoặc xung đột gây ra các sức ép lớn; và điều này đã được chấp thuận rộng rãi. Quan niệm về an ninh lương thực được cụ thể hoá hơn theo nghĩa: “tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được với đủ lương thực, thực phẩm để đảm bảo một cuộc sống khoẻ mạnh và năng động.” Đến giữa những năm 1990, an ninh lương thực được xem là mối quan ngại nghiêm trọng, trải nhiều cấp độ từ cấp cá nhân lên đến cấp toàn cầu. Tuy nhiên, vấn đề “tiếp cận” trong an ninh lương thực hiện nay còn bao gồm cả vấn đề có đủ lương thực và điều này cho thấy người ta vẫn lo ngại về suy dinh dưỡng prôtêin. Việc mở rộng quan niệm bao gồm các khía cạnh an toàn 10 lương thực, cân bằng dinh dưỡng cũng cho thấy quan ngại về thành phần lương thực, thực phẩm gồm các điều kiện về dinh dưỡng vi mô và vĩ mô cần thiết cho một cuộc sống năng động và khoẻ mạnh. Người ta cũng khuyến cáo các hộ gia đình để đảm bảo cho con em mình có cân bằng dinh dưỡng và thực phẩm, đặc biệt trong giai đoạn phát triển ban đầu. Các tổ chức quốc tế liên quan đến các vấn đề về lương thực và y tế như Tổ chức Nông - Lương thế giới (FAO), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Chương trình lương thực thế giới (WFP), Viện nghiên cứu và chính sách lương thực thế giới (IFPRI) và nhiều tổ chức khác kêu gọi phát triển nguồn lương thực, thực phẩm cân bằng và đời sống khoẻ mạnh. Người ta cũng quan tâm nhiều hơn đến sở thích đối với lương thực, thực phẩm theo truyền thống văn hoá hoặc xã hội. Mức độ phức tạp và cụ thể theo từng hoàn cảnh của an ninh lương thực cho thấy rằng quan niệm này không còn đơn giản và tự nó không phải là mục đích mà nó là một loạt các hành động trung gian nhằm đạt được một đời sống năng động và khoẻ mạnh. Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) năm 1994 cổ vũ cho quan niệm về an ninh con người, bao gồm một loạt khía cạnh, trong đó có an ninh lương thực. Quan niệm này cũng liên quan chặt chẽ đến quan điểm về quyền con người trong phát triển đã có ảnh hưởng đến đến các thảo luận về an ninh lương thực. Hội nghị lương thực thế giới năm 1996 sử dụng một khái niệm thậm chí còn phức tạp hơn: “an ninh lương thực ở các cấp độ cá nhân, gia đình, khu vực và toàn cầu (đạt được) khi tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được về mặt thể chất và kinh tế đối với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn và đảm bảo dinh dưỡng, để đáp ứng nhu cầu bữa ăn và sở thích đối với thức ăn, nhằm đảm bảo một cuộc sống năng động và khoẻ mạnh” [16]. Báo cáo về tình hình mất an ninh lương thực năm 2001 đã chỉnh sửa lại quan niệm này như sau: “an ninh lương thực là tình trạng khi tất cả mọi người lúc nào cũng tiếp cận được về mặt thể chất, xã hội và kinh tế đối với nguồn 11 lương thực đầy đủ, an toàn và đảm bảo dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu bữa ăn và sở thích đối với thức ăn nhằm đảm bảo một cuộc sống năng động và khoẻ mạnh”. Quan điểm của các nhà nghiên cứu Việt Nam, Theo Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Viết Thông trong Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, thì an ninh lương thực là khái niệm chỉ tình trạng ổn định, an toàn, vững chắc của sản xuất, cung ứng lương thực và dự trữ lương thực bên trong một nước cũng như phạm vi toàn cầu. Theo Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, an ninh lương thực ở Việt Nam bao gồm 3 nội dung chính: lương thực có đủ, lương thực được cung cấp đều và mỗi gia đình có khả năng kinh tế để có lương thực. An ninh lương thực là kết quả tổng hợp của sự phối hợp nhiều hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối [14, tr.16]. An ninh lương thực là một khái niệm với nhiều cấp độ tiếp cận, nhiều cách nhìn khác nhau. Chính vì vậy đề tài thấy cần phải xác định cách tiếp cận phù hợp. Trước hết cần thống nhất cách hiểu về lương thực. Hiện có nhiều trường phái khác nhau trong quan niệm về lương thực. Trường phái cho rằng lương thực gồm: lúa gạo, lúa mì, lúa mạch, ngô, kê - ngũ cốc. Trường phái khác cho rằng lương thực gồm: lúa gạo, ngô, khoai, sắn - nhóm tinh bột. Có quan niệm còn quan niệm lương thực theo nghĩa rộng, gồm lương thực, thực phẩm [3]. Trong luận văn này, thống nhất hiểu lương thực chủ yếu là lúa gạo và ngô tức là lương thực có hạt, trong đó tập trung nghiên cứu lương thực là lúa gạo. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn với cách tiếp cận an ninh lương thực ở cấp độ quốc gia, trên cơ sở kế thừa các quan niệm về an ninh lương thực của các học giả và tổ chức trong và ngoài nước, luận văn thống nhất quan niệm về an ninh lương thực của Việt Nam là việc có đầy đủ, 12 ổn định lương thực cho toàn dân trên phạm vi toàn quốc cả trước mắt và lâu dài để không ai bị đói và mọi người đều được hưởng cuộc sống năng động và khoẻ mạnh. Nội dung cơ bản của an ninh lương thực của Việt Nam gồm có các nội dung là: lương thực có đầy đủ từ sản xuất hoặc nhập khẩu; đảm bảo lương thực ổn định trong mọi tình huống; đảm bảo người dân đều có được lương thực để tiêu dùng từ thu nhập của mình; lương thực cung cấp cần phải đảm bảo an toàn, chất lượng. 1.1.2. Quan hệ giữa an ninh lương thực, an ninh kinh tế và an ninh quốc gia Khi đề cập đến nội hàm của an ninh kinh tế, đa số các học giả hiện nay đều xác định một trong những bộ phận quan trọng là an ninh lương thực. Theo Vương Dật Châu và cộng sự, khi xác định đặc điểm của tình trạng an ninh kinh tế hiện nay là: Tài nguyên lương thực cũng là nhân tố quan trọng của an ninh kinh tế; sự tăng trưởng của tài nguyên lương thực chịu sự khống chế nghiêm ngặt của đất đai, nước, môi trường sinh thái; và đối với nhiều nước đang phát triển, vấn đề lương thực vẫn là thách thức gay gắt đối với an ninh kinh tế [2, tr.274]. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đã khẳng định: “Về an ninh kinh tế, phải giữ vững các cân đối vĩ mô; ngoài an ninh lương thực và an ninh năng lượng, cần tăng nhanh dự trữ ngoại tệ, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài; phát huy cao nhất các nguồn lực để xây dựng nhanh kết cấu hạ tầng và phát triển có hiệu quả một số ngành và sản phẩm thiết yếu” [5, tr.181]. Theo các học giả của Bộ Ngoại giao Việt Nam như Phạm Quốc Trụ và Trần Trọng Toàn (2001), trong quyển sách An ninh kinh tế ASEAN và vai trò của Nhật Bản, khi xem xét đặc điểm, yêu cầu của an ninh kinh tế trong thời 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng