Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngoại ngữ Kỹ năng viết tiếng Anh A spark, a flint_ how fire leapt to life...

Tài liệu A spark, a flint_ how fire leapt to life

.DOCX
4
534
85

Mô tả:

A spark, a flint: How fire leapt to life Lửa đã thay đổi cuộc sống như thế nào? The control of fire was the first and perhaps greatest of humanity’s steps towards a lifeenhancing technology. To early man, fire was a divine gift randomly delivered in the form of lightning, forest fire or burning lava. Unable to make fire for themselves, the earliest peoples probably stored fire by keeping slow burning logs alight or by carrying charcoal in pots. How and where man learnt how to produce flame at will is unknown. It was probably a secondary invention, accidentally made during tool-making operations with wood or stone. Studies of primitive societies suggest that the earliest method of making fire was through friction. European peasants would insert a wooden drill in a round hole and rotate it between their palms. This process could be speeded up by wrapping a cord around the drill and pulling on each end. The Ancient Greeks used lenses or concave mirrors to concentrate the sun’s rays and burning glasses were also used by Mexican Aztecs and the Chinese. Percussion methods of fire-lighting date back to Paleolithic times, when some Stone Age tool-makers discovered that chipping flints produced sparks. The technique became more efficient after the discovery of iron, about 5000 years ago In Kiểm soát ngọn lửa là bước đi đầu tiên và có lẽ vĩ đại nhất của nhân loại hướng đến một ngành công nghệ với mục tiêu nâng cao chất lượng sống. Với người nguyên thủy, lửa là món quà thiêng liêng được ban phát ngẫu nhiên dưới dạng sấm sét, lửa rừng hoặc dung nham nung chảy. Không biết cách tạo ra ngọn lửa, người nguyên thủy trữ lửa bằng cách giữ cho những khúc gỗ cháy chậm hoặc vùi than vào chậu. Cách thức và địa điểm con người tạo ra được ngọn lửa còn chưa được biết đến. Có lẽ nó chỉ là phát minh thứ hai, được vô tình phát hiện khi chế tác công cụ bằng gỗ hoặc đá. Những công trình nghiên cứu về xã hội nguyên thuỷ cho thấy phương pháp tạo lửa cổ xưa nhất dựa trên hiện tượng ma sát. Người nông dân châu Âu sẽ lồng một mũi khoan gỗ vào một lỗ tròn và xoay mạnh trong lòng bàn tay. Quá trình này có thể được rút ngắn bằng cách quấn một sợi dây thừng quanh mũi khoan và kéo mỗi đầu. Người Hy Lạp cổ sử dụng kính lúp hoặc gương lõm để hội tụ ánh sáng mặt trời và gương tạo lửa cũng được người Aztecs ở Mê Xi Cô và người Trung Quốc sử dụng. Các phương pháp đánh lửa hiện nay bắt nguồn từ thời kì đồ đá cũ, khi một số nhà chế tác công cụ bằng đá khám phá ra những mảnh đá lửa tạo các tia sáng. Kỹ thuật này đã trở nên hiệu quả hơn sau khi tìm ra sắt, vào khoảng 5,000 năm trước tại cực Bắc của Bắc Mỹ, người Eskimo đã tạo ra một Arctic North America, the Eskimos produced a slow-burning spark by striking quartz against iron pyrites, a compound that contains sulphur. The Chinese lit their fires by striking porcelain with bamboo. In Europe, the combination of steel, flint and tinder remained the main method of firelighting until the mid 19th century. Fire-lighting was revolutionised by the discovery of phosphorus, isolated in 1669 by a German alchemist trying to transmute silver into gold. Impressed by the element’s combustibility, several 17th century chemists used it to manufacture fire-lighting devices, but the results were dangerously inflammable. With phosphorus costing the equivalent of several hundred pounds per ounce, the first matches were expensive. tia lửa cháy chậm khi cho đá thạch anh va đập vào pyrit sắt, một hợp chất chứa lưu huỳnh. Người Trung Quốc đốt lửa bằng cách cạ mảnh sứ vào thanh tre. Ở châu Âu, việc kết hợp thép, đá lửa và bùi nhùi vẫn là phương pháp chủ yếu để nhóm lửa cho đến giữa thế kỷ 19. Việc tạo ra lửa được cách mạng hóa nhờ việc tìm ra phospho, một chất được phân tách vào năm 1669 bởi một nhà giả kim Đức khi ông cố biến bạc thành vàng. Bị ấn tượng bởi nguyên tố dễ cháy này, một số nhà hóa học thế kỷ 17 dùng nó để chế tạo máy phát sáng, nhưng gây cháy nổ nguy hiểm. Giá của phospho tương đương vài trăm pound một ounce làm cho những que diêm đầu tiên khá mắc tiền. Hành trình tìm ra một que diêm thực sự bắt đầu sau năm 1781 khi một nhóm các nhà hóa học người Pháp tìm ra nến phospho hoặc diêm Ether, một ống thủy tinh kín có chứa một gói giấy hai đầu xoắn chứa phospho. The quest for a practical match really began after 1781 when a group of French chemists came up with the Phosphoric Candle or Ethereal Match, a sealed glass tube containing a twist of paper tipped with phosphorus. Khi ống bị vỡ, không khí tràn vào bên trong làm cho phospho tự bốc cháy. When the tube was broken, air rushed in, causing the phosphorus to self-combust. Một thiết bị nguy hiểm hơn, được ưa chuộng ở Mỹ, là hộp sáng tức thời - một lọ chứa đầy An even more hazardous device, popular in axit sulfuric, trong đó nhúng các thanh được America, was the Instantaneous Light Box xử lý bằng hóa chất. — a bottle filled with sulphuric acid into which splints treated with chemicals were dipped. Những que diêm đầu tiên giống như ngày nay được sản xuất vào năm 1827 bởi John Walker, The first matches resembling those used today một dược sĩ người Anh đã mượn lại công thức were made in 1827 by John Walker, an từ một nhà sản xuất tên lửa quân sự tên là English pharmacist who borrowed the formula Congreve. from a military rocket-maker called Congreve. Giá một silinh một thùng, Congreves là Costing a shilling a box, Congreves were splints coated with sulphur and tipped with potassium chlorate. To light them, the user drew them quickly through folded glass paper. những que tráng lưu huỳnh và đầu bọc kali clorat. Để đốt chúng, người dùng quẹt nhanh qua tờ giấy nhám gấp nếp. Walker chưa bao giờ được cấp bằng sáng chế, Walker never patented his invention, and three ba năm sau nó bị bắt chước bởi Samuel Jones, years later it was copied by a Samuel Jones, người đã sản phẩm của ông ra thị trường với who marketed his product as Lucifers. cái tên là Lucifers. Trong khoảng thời gian này, một sinh viên About the same time, a French chemistry hóa học người Pháp tên Charles Sauria đã tạo student called Charles Sauria produced the ra loại diêm "quẹt bất cứ đâu" bằng cách dùng first “strike-anywhere” match by substituting phospho trắng thay cho kali clorat trong công white phosphorus for the potassium chlorate thức của Walker. in the Walker formula. Tuy nhiên, vì phospho trắng là một chất độc However, since white phosphorus is a deadly chết người, từ năm 1845, những công nhân poison, from 1845 match-makers exposed to sản xuất diêm phơi nhiễm khói phospho đã its fumes succumbed to necrosis, a disease chết vì bệnh hoại tử, một căn bệnh ăn mòn that eats away jaw-bones. xương hàm. Mãi cho đến năm 1906 chất này mới chính It wasn’t until 1906 that the substance was thức bị cấm. eventually banned. 62 năm sau một nhà hóa học người Thụy Điển That was 62 years after a Swedish chemist tên Pasch phát hiện ra phospho đỏ không độc called Pasch had discovered non-toxic red or hay phospho vô định hình, bước tiến này đã amorphous phosphorus, a development được khai thác thương mại hóa bởi người exploited commercially by Pasch’s đồng hương của Pasch tên J E Lundstrom vào compatriot J E Lundstrom in 1885. năm 1885. Que diêm an toàn của Lundstrom không gây Lundstrom’s safety matches were safe nguy hiểm vì phospho đỏ không độc; nó được because the red phosphorus was non-toxic; it sơn lên bề mặt quẹt thay vì đầu que diêm, nơi was painted on to the striking surface instead có chứa kali chlorat với nhiệt độ mồi khá cao of the match tip, which contained potassium là 182 độ C. chlorate with a relatively high ignition temperature of 182 degrees centigrade. Mỹ tụt hậu so với châu Âu trong công nghệ America lagged behind Europe in match sản xuất diêm và các tiêu chuẩn an toàn. technology and safety standards. Cho đến năm 1900, công ty Diêm Diamond It wasn’t until 1900 that the Diamond Match đã mua lại bằng phát minh que diêm an toàn Company bought a French patent for safety của Pháp – nhưng công thức này không còn matches — but the formula did not work chính xác với điều kiện khí hậu khác nhau properly in the different climatic conditions trên khắp nước Mỹ và mất thêm 11 năm nữa prevailing in America and it was another 11 trước khi các nhà khoa học chỉnh sửa lại bằng years before scientists finally adapted the French patent for the US. The Americans, however, can claim several “firsts” in match technology and marketing. In 1892 the Diamond Match Company pioneered book matches. The innovation didn’t catch on until after 1896, when a brewery had the novel idea of advertising its product in match books. Today book matches are the most widely used type in the US, with 90 percent handed out free by hotels, restaurants and others. Other American innovations include an antiafter-glow solution to prevent the match from smouldering after it has been blown out; and the waterproof match, which lights after eight hours in water. sáng chế của Pháp cho Hoa Kỳ . Tuy nhiên, người Mỹ đòi hỏi nhiều cái "lần đầu tiên" về mặt công nghệ và thị trường sản xuất diêm. Năm 1892 Công ty Diêm Diamond đã đi tiên phong trong các cuốn sách diêm. Sáng kiến này không phổ biến cho đến sau năm 1896, khi nhà máy bia có ý tưởng lạ trong việc quảng cáo sản phẩm trên các cuốn sách diêm. Ngày nay, sách diêm được được ưa chuộng nhất tại Hoa Kỳ, 90% được phát miễn phí bởi các khách sạn, nhà hàng và những nơi khác. Những cải tiến khác của người Mỹ gồm phương pháp chống tàn dư để ngăn que diêm cháy âm ỉ sau tắt; và loại diêm chống thấm có thể đốt 8 tiếng trong nước.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan