TRƯỜNG.........................................
KHOA.............................................
LUẬN VĂN
Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của
hải quan Việt nam và sự cần thiết
phải hiện đại hoá
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................... 3
Chương 1: VAI TRÒ CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN
HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN............................................................. 6
1.1. Các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan ............ 6
1.1.1.
Quá trình hình thành và phát triển của các điều ước quốc tế về hải
quan hoặc liên quan đến hải quan ...................................................................... 6
a)
Hải quan với sự xuất hiện trong lịch sử hoạt động thương mại. ............. 6
b)
Vai trò, vị trí của các điều ước quốc tế trong đời sống luật pháp quốc tế
nói chung và hải quan nói riêng: .......................................................................... 7
1.1.2.
Các điều ước quốc tế về hải quan ......................................................... 8
1.1.3.
Các điều ước liên quan đến hải quan................................................. 12
1.1.4.
Các tổ chức quốc tế có liên quan ........................................................ 16
a)
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)......................................................... 16
b)
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu A - Thái Bình Dương (APEC) ............ 22
c)
Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) ............................................. 27
d)
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế A - Âu (ASEM) ............................................. 29
1.2. Vai trò của các điều ước quốc tế đối với vấn đề hiện đại hoá hải quan
33
1.2.1.
Hiện đại hoá hải quan - một tất yếu khách quan:.............................. 33
1.2.2.
Các nội dung hiện đại hoá hải quan: ................................................. 36
1.2.3.
Vai trò của các Điều ước quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải
quan:
38
1.2.4.
Vai trò của các Tổ chức quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải
quan:
39
Chương 2 THỰC TIỄN THAM GIA, THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN CỦA
HẢI QUAN VIỆT NAM ................................................................................... 44
2.1. Tổng quan về hải quan việt nam ............................................................ 44
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
2.1.1.
Hải quan việt nam qua các thời kỳ ..................................................... 44
2.1.2.
Yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới: ............................................. 46
2.2. Thực tiễn tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về hải quan hoặc
liên quan đến hải quan của hải quan việt nam:.............................................. 49
2.2.1.
Sự cần thiết tham gia vào các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên
quan đến hải quan trong tiến trình cải cách, hiện đại hoá của Hải quan Việt
Nam:
49
2.2.2.
Thực tiễn tham gia các điều ước quốc tế về hải quan và liên quan đến
hải quan của hải quan Việt Nam....................................................................... 54
2.3. Những khó khăn, thuận lợi của Hải quan việt nam khi tham gia các
điều ước quốc tế này: ........................................................................................ 58
2.3.1.
Khó khăn, tồn tại :............................................................................... 58
2.3.2.
Thuận lợi:............................................................................................ 60
2.3.3.
Bài học rút ra: ..................................................................................... 62
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN:..... 65
3.1. Phương hướng tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về hải quan
hoặc liên quan đến hải quan của Hải quan việt nam. .................................... 65
3.2. Đề xuất kiến nghị..................................................................................... 67
I- Biện pháp thực hiện Công ước KYOTO: ..................................................... 67
II- Thực hiện Công ước HS.............................................................................. 73
III. Thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO: .................................................. 74
IV. Công nghệ thông tin: ................................................................................... 76
V- Thực hiện Hiệp định TRIPs: ........................................................................ 79
KẾT LUẬN........................................................................................................ 81
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-2-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và nhà nước ta đã chủ
trương đẩy mạnh cải cách hành chính, coi đó là một trong những khâu quan trọng
để có thể hội nhập kinh tế quốc tế cả về diện rộng và bề sâu. Với định hướng đó,
ngành Hải quan đã sớm tham gia vào quá trình này và đã đạt được nhiều thành
tích quan trọng trong các mảng công việc chủ yếu của Ngành như giám sát quản
lý, thu thuế xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu..., bước đầu tạo tiền đề
thuận lợi cho tiến trình hiện đại hoá hoạt động hải quan .
Tuy nhiên, theo đà phát triển kinh tế, thương mại trên thế giới và ở Việt
Nam, giao lưu kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch của nước ngoài với Việt Nam
cũng tăng lên đáng kể, điều đó làm cho khối lượng công việc mà ngành Hải quan
phải quản lý cũng tăng lên gấp nhiều lần trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật, biên
chế, trình độ cán bộ có tăng lên không đáng kể. Hệ thống các quy trình làm việc
tuy đã được cải tiến, nâng cấp nhưng vẫn chưa thoát hẳn khỏi các biện pháp
truyền thống trong khi ngành Hải quan đang trên đà triển khai áp dụng các quy
trình nghiệp vụ tiên tiến, hiện đại. Chính khoảng cách bất cập giữa quy trình
truyền thống với những mục tiêu yêu cầu của quy trình hiện đại đã đặt ngành Hải
quan trước một thách thức phải khẩn trương hiện đại hoá nghiệp vụ hải quan.
Hơn nữa, với chính sách thu hút đầu tư, tạo thông thoáng cho các hoạt động xuất
nhập khẩu của Đảng, nhà nước, hoạt động của Hải quan cũng phải phục vụ cho
định hướng này, phải giảm thiểu phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
những doanh nghiệp làm ăn chính đáng trong khi vẫn phải đảm bảo yêu cầu quản
lý, mà chìa khoá của vấn đề này,từ thực tiễn của hải quan các nước, là nghiệp vụ
hải quan đã được hiện đại hoá.
Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra đối với Hải quan Việt Nam trong tiến
trình hiện đại hoá là: muốn làm tốt thì trước hết phải hiểu rõ, nắm bắt được chính
-3-
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
xác và đầy đủ các nội dung, yêu cầu hiện đại hoá để từ đó định ra phương án,
cách thức, bước đi phù hợp, hiệu quả nhất, mà hầu hết các nội dung hiện đại hoá
được đúc kết và tích tụ trong các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan
đến hải quan - đối tượng nghiên cứu của khoá luận này.
Thông qua việc phân tích nội dung các Điều ước quốc tế có liên quan, các
yêu cầu hiện đại hoá nghiệp vụ Hải quan, đối chiếu với các nội dung quy định tại
các Điều ước quốc tế đa phương về Hải quan, khoá luận sẽ góp thêm phần cơ sở
lý luận, cơ sở pháp lý cho tiến trình hiện đại hoá Hải quan, xây dựng một chiến
lược tiếp cận và tham gia các Điều ước quốc tế đa phương về Hải quan, giúp cho
hoạt động Hội nhập quốc tế về Hải quan có những bước đi, lộ trình thích hợp,
bảo đảm hài hoà giữa thực hiện các yêu cầu quốc tế với lợi ích quốc gia. Đó cũng
chính là việc nhận biết tốt hơn "luật chơi" để tránh bị áp đặt, tránh những bước đi
thiếu tỉnh táo trong hội nhập.
Phục vụ cho mục tiêu nêu trên, khoá luận tập trung phân tích một số nội
dung chủ yếu sau:
- Tính tất yếu, khách quan của các yêu cầu hiện đại hoá công tác hải quan.
- Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của Hải quan Việt nam và sự cần thiết
phải hiện đại hoá.
- Các nội dung hiện đại hoá hải quan trên thế giới.
- Quá trình hội nhập, hiện đại hoá nghiệp vụ của hải quan Việt nam và
những bài học rút ra.
- Phương hướng chiến lược về hiện đại hoá công tác hải quan và các kiến
nghị, giải pháp cụ thể.
Trong quá trình thực hiện, người viết đã căn cứ vào các quan điểm, đường
lối của Đảng - Nhà nước trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, sử dụng các
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-4-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo... để làm rõ
vấn đề, bảo đảm tính khách quan của kết quả nghiên cứu.
Các tài liệu được sử dụng bao gồm các tài liệu, báo cáo tổng kết công tác
của ngành hải quan, tài liệu của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), các tài liệu
chuyên ngành và các tài liệu khác trong và ngoài nước có liên quan đến các Công
ước về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan.
Khóa luận được chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Hải quan là một xu thế phát triển
tất yếu.
Chương 2. Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của hải quan Việt nam và sự
cần thiết phải hiện đại hoá.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hiện đại hoá hải quan trong tiến
trình hội nhập quốc tế.
Người viết xin chân thành cám ơn Tiến sĩ Nguyễn Hữu Khải cùng nhiều cán
bộ của Vụ Hợp tác Quốc tế - Tổng Cục Hải quan đã tận tình giúp đỡ để người
viết hoàn thành tốt khoá luận này.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-5-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Chương 1:
VAI TRÒ CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI
QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN
1.1. Các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các điều ước quốc tế về hải
quan hoặc liên quan đến hải quan
Hải quan với sự xuất hiện trong lịch sử hoạt động thương mại.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, nhu cầu của con người ngày
càng đa dạng, phong phú và ngày một đòi hỏi cao sự thoả mãn về hàng hoá. Do
vậy, các dịch vụ trao đổi, mua bán, chuyển nhượng, tín dụng, thông tin ngày
càng phát triển... nên có thể nói, các phạm trù như buôn bán, thương mại, thương
trường, thị trường, cạnh tranh luôn gắn liền với sản xuất hàng hoá của xã hội loài
người.
Như vậy, có thể nói nguồn gốc của các hoạt động hải quan là từ khi xuất
hiện sản xuất hàng hoá, con người sản xuất hàng hoá ra không chỉ để thoả mãn
nhu cầu của bản thân mà với mục đích để trao đổi, đây chính là tiền đề về kinh tế.
Khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, giai cấp chủ nô ra đời dựa vào vị
thế và sức mạnh của mình đã chiếm đoạt thành quả, sản phẩm lao động của các
nông nô, dần dần xuất hiện những thành phần dư giả vật chất trong xã hội, thúc
đẩy sự phát triển của các nghề thủ công, thúc đẩy việc buôn bán, thúc đẩy quá
trình tách thành thị ra khỏi nông thôn, cơ cấu xã hội thay đổi và hình thành bộ
máy quản lý cai trị trong xã hội. Như vậy, khi xã hội phân chia giai cấp và hình
thành các quốc gia, đây chính là các điều kiện về chính trị của việc xuất hiện các
hoạt động hải quan.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-6-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Như vậy, hoạt động hải quan xuất hiện từ khi có sự phân công lao động
sản xuất và xuất hiện hàng hoá, và luôn gắn liền với việc trao đổi buôn bán
thương mại giữa các vùng lãnh thổ khác nhau. Các cộng đồng này để bảo vệ
lợi ích của mình tự đặt ra các biện pháp quy định để kiểm soát hàng hoá qua
lại địa phận mình. Có thể nói, nếu không có trao đổi buôn bán thương mại
giữa các cộng đồng, các lãnh thổ thì cũng không có hoạt động của hải quan.
Xã hội càng phát triển, sự giao lưu giữa các cộng đồng càng đa dạng phong
phú về tất cả mọi lĩnh vực, đòi hỏi mỗi cộng đồng, quốc gia phải tự ban hành các
quy định về hoạt động của hải quan để kiểm tra, kiểm soát và thực hiện các
đường lối chính sách phát triển kinh tế, chính trị xã hội của quốc gia mình và như
vậy cùng với sự phát triển của xã hội, pháp luật hải quan cũng ngày một phát
triển và hoàn thiện.
Ngày nay, pháp luật hải quan của các nước, ngoài việc thực hiện các chức
năng chính như kiểm tra hàng hoá, thu thuế, chống buôn lậu, còn có nhiệm vụ
mới như kiểm soát lưu chuyển tiền tệ, chống việc rửa tiền của bọn tội phạm, thực
hiện việc kiểm tra đối với các quyền về sở hữu trí tuệ, ngăn chặn và phòng chống
tội phạm kinh tế, hình sự; kiểm soát sự tuân thủ pháp luật về môi trường, về hàng
hải, hàng không và kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hoá, bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng...
Vai trò, vị trí của các điều ước quốc tế trong đời sống luật pháp quốc tế
nói chung và hải quan nói riêng:
Tiến trình phát triển theo dòng lịch sử của các quốc gia và dân tộc trên thế
giới đã nảy sinh các mối quan hệ chính trị, kinh tế văn hoá ngày càng phong phú,
đa dạng và phức tạp. Để các mối quan hệ đó phát triển ổn định theo những
phương hướng nhất định, luật pháp quốc tế đã ra đời, tồn tại thông qua hai hình
thức cơ bản, đó là điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Nói cách khác, điều ước
quốc tế chính là một trong hai nguồn cơ bản của Luật quốc tế, là sự thoả thuận
-7-
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
giữa các chủ thể của Luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm
thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những qui phạm luật quốc tế để ấn
định, thay đổi hoặc huỷ bỏ những quyền và nghĩa vụ với nhau.
Vì hoạt động hải quan gắn liền với giao lưu và buôn bán quốc tế, hải quan ra
đời sau khi phát sinh các nhu cầu và hoạt đông thực tế về giao lưu và buôn bán
quốc tế, nên thế giới đã xây dựng nhiều điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên
quan đến hải quan. Mục tiêu của các điều ước quốc tế này nhằm định ra những
khuôn khổ pháp lý chung đảm bảo sao cho trong khi hải quan từng nước phục vụ
lợi ích và chủ quyền quốc gia mình vẫn dựa trên một số nguyên tắc và tiêu chuẩn
nhất định nhằm thúc đẩy giao lưu và thương mại chung của thế giới. Phần nhiều
các điều ước đa phương này thể hiện dưới dạng Công ước.
Từ đó càng thấy rằng trước yêu cầu quốc tế hoá và hội nhập mạnh mẽ hiện
nay, chúng ta cần coi trọng việc nghiên cứu để nắm vững, trên cơ sở đó có những
bước đi hợp lý trong việc tham gia các công ước quốc tế về hải quan hoặc liên
quan đến hải quan. Việc hiểu rõ vai trò của các điều ước quốc tế về hải quan hoặc
liên quan đến hải quan sẽ tạo cho ta thế chủ động trong hội nhập quốc tế và khu
vực, hạn chế các yếu tố bất lợi, đồng thời qua đó từng bước chuẩn hoá các luật và
quy định của ta đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt và lâu dài.
1.1.2. Các điều ước quốc tế về hải quan
Có 15 Công ước về hải quan do Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) xây
dựng và quản lý. Cụ thể như sau:
i) Công ước thành lập Hội đồng hợp tác Hải quan (có hiệu lực từ
4/11/1952).
Mục đích: định ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động, mục tiêu
của Hội đồng hợp tác Hải quan. Các nước, lãnh thổ Hải quan độc lập, các tổ chức
quốc tế tham gia công ước này thì trở thành thành viên WCO, được hưởng các
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-8-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ của WCO. Cho đến nay đã có 161 quốc gia
và các lãnh thổ tham gia ký kết công ước này khiến WCO trở thành tổ chức quốc
tế lớn thứ hai trên thế giới sau Tổ chức Liên hiệp quốc.
ii) Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục Hải quan (Công
ước Kyoto) có hiệu lực từ 25/9/1974):
Mục đích: nhằm làm cho thủ tục Hải quan của các nước trên thế giới đơn
giản hơn và hài hoà với nhau để tạo thuận lợi cho xuất nhập khẩu, xuất nhập
cảnh. Đây được coi là một công ước "xương sống" về nghiệp vụ Hải quan.
Qua quá trình thực hiện, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ
tục hải quan (cũ) đã bộc lộ rõ những nhược điểm của nó mà một trong những
nhược điểm cơ bản là chưa tạo ra sự thống nhất, hài hoà thực sự các qui trình thủ
tục hải quan giữa các nước. Bằng việc sửa đổi nội dung, cơ cấu, các yêu cầu cụ
thể, tiên quyết khi tham gia công ước, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài
hoà thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999) đã giải quyết được nhược điểm của
Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (cũ) nhằm tạo ra
sự thống nhất hài hoà thực sự giữa thủ tục hải quan cuả các nước trên thếgiới.
Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan sửa đổi năm
1999 (hiện vẫn chưa có hiệu lực vì đang chờ đủ số thành viên theo qui định thông
báo việc tham gia chính thức của họ vào Nghị định thư sửa đổi là 40 thành viên),
đến nay mới có 25 nước tham gia ký kết.
iii) Công ước về Hệ thống hài hoà trong mô tả và mã hoá hàng hoá (Công
ước HS) có hiệu lực từ 1/1/1988), hiện có 108 nước tham gia ký kết.
Mục đích: nhằm thống nhất tên gọi của mọi loại hàng hoá trong thương mại
quốc tế bằng việc đưa ra một hệ thống thống nhất trong mô tả và mã hoá hàng
hoá. Hệ thống này đáp ứng được những yêu cầu cơ bản trong tất cả các lĩnh vực
có liên quan (thương mại, hải quan, thuế xuất nhập khẩu, thống kê, giao nhận vận
chuyển... hàng hoá).
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-9-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
iv) Công ước về Danh mục phân loại hàng hoá theo biểu thuế có hiệu lực
từ 11/9/1959, nhưng ít được sử dụng. Hiện chỉ có 8 nước tham gia.
v) Công ước Hải quan về sổ ATA cho việc chấp nhận tạm thời hàng hoá
(Công ước ATA) có hiệu lực từ 30/7/1963, hiện có 63 nước tham gia.
Mục đích: tạo thuận lợi cho việc tạm chấp nhận (tạm nhập, tạm xuất khẩu
hàng hoá) thông qua việc ban hành và sử dụng bộ chứng từ ATA (Admission
Temporaire - Temporary Admission) mang tính quốc tế và các biện pháp bảo
dảm cho việc thực hiện.
Phạm vi áp dụng: thường áp dụng đối với hàng hoá là các thiết bị chuyên
ngành, hàng hội chợ, triển lãm, hàng phục vụ hội nghị hoặc các sự kiện tương tự.
vi) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng khoa học có hiệu lực từ
5/8/1969 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 56 nước tham gia.
vii) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng giáo dục có hiệu lực từ
10/9/1970 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 38 nước tham gia.
viii) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng chuyên nghiệp có
hiệu lực từ 1/7/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 55 nước tham gia.
ix) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng của người đi biển có
hiệu lực từ 1/12/1965 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 42 nước tham gia.
x) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng bao bì có hiệu lực từ
15/3/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 38 nước tham gia.
xi) Công ước Hải quan về tạm nhập các hàng hoá phục vụ hội chợ triển
lãm có hiệu lực từ 13/7/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 61 nước
tham gia.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-10-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
xii) Công ước Hải quan về quá cảnh quốc tế hàng hoá (Công ước ITI)
tạm nhập các vật dụng khoa học có hiệu lực từ 7/6/1961 do WCO xây dựng và
quản lý.
xiii) Công ước Istanbul có hiệu lực từ 26/6/1990, hiện có 38 nước tham
gia.
Mục đích: cũng nhằm tạo thuận lợi cho việc tạm chấp nhận, nhưng bao gồm
nhiều chủng loại hàng hoá hơn và áp dụng cả đối với các phương tiện giao thông,
súc vật...
Công ước này cũng quy định tính bắt buộc phải sử dụng bộ chứng từ ATA.
xiv) Công ước Nairobi có hiệu lực từ 21/5/1980, còn gọi là Công ước quốc
tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau nhằm ngăn ngừa và trấn áp các vi phạm Hải
quan. Hiện có 51 nước tham gia công ước này.
Mục đích: nhằm thiết lập sự hợp tác đa phương giữa các nước thành viên
WCO trên cơ sở trao đổi các thông tin và phối hợp về kiểm soát chống buôn lậu,
chống gian lận thương mại, trong đó có chống buôn lậu ma tuý, các chất hướng
thần và tài sản văn hoá.
xv) Hiệp định Hải quan ASEAN có hiệu lực từ 3/1997:
Do các nước ASEAN cùng nhau dự thảo và ký kết, có thể coi như là Tuyên
ngôn của ASEAN về Hải quan. Hiệp định nêu ra các mục tiêu phấn đấu của Hải
quan các nước trong khối là:
Đơn giản hoá và hài hoà hoá trên các lĩnh vực: trị giá hải quan (theo trị
giá GATT/WTO với một lộ trình đẩy nhanh); danh mục biểu thuế quan
theo mã HS; thủ tục Hải quan (theo tiêu chuẩn của Công ước Kyoto).
Có hệ thống pháp luật hải quan trong sáng, minh bạch.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-11-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Quản lý có hiệu quả và giải phóng hàng hoá nhanh chóng để thúc đẩy
thương mại và đầu tư nội khu vực.
Phòng ngừa và đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Với những mục tiêu cụ thể như:
Xây dựng Danh mục Biểu thuế hài hoà ASEAN (AHTN) theo mã HS,
hài hoà danh mục biểu thuế cấp 8 số. AHTN sẽ dựa vào HS 6 số, sẽ sử
dụng cấp độ 8 số có mục đích thuế.
Trị giá Hải quan: trị giá theo GATT, không sử dụng xác định trị giá hải
quan như công cụ bảo hộ. Cần có lịch trình thực hiện GATT. Thống nhất
cách thức thực hiện Hiệp định ở tất cả các nước thành viên.
Thủ tục hải quan: thực hiện đơn giản và hài hoà hoá thủ tục hải quan theo
chuẩn mực của Công ước Kyoto nhằm thông quan hiệu quả và nhanh
chóng.
Trong số các điều ước quốc tế nêu trên, Hải quan Việt Nam tập trung nghiên
cứu tham gia một số công ước quan trọng như Công ước Kyoto, Công ước HS,
Công ước Nairobi, Công ước ATA.
1.1.3. Các điều ước liên quan đến hải quan
Ngoài những công ước trên còn có một số Công ước do các tổ chức quốc
tế khác xây dựng và quản lý có liên quan đến hải quan như:
i) Hiệp định về Trị giá GATT/WTO (Hiệp định thực hiện Điều VII của
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT do Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) xây dựng và Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) quản lý, có hiệu lực
từ 1/1/1981 và được điều chỉnh lại khi GATT trở thành WTO, hiện có 145 nước
tham gia, trong đó có 127 nước là thành viên WCO, 18 nước không phải là thành
viên WCO, 25 nước là quan sát viên WTO.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-12-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Mục đích: tạo ra một hệ thống xác định trị giá Hải quan hợp lý, thống nhất,
trung tính. Bao gồm các nguyên tắc: chấp nhận giá thực trả hoặc sẽ phải trả trong
điều kiện giao dịch bình thường trên thị trường tự do như là cơ sở để xác định trị
giá; việc xác định trị giá được dựa trên giá CIF và trên số lượng thực tế nhập
khẩu.
ii) Công ước Hải quan về Container do WTO xây dựng và WCO quản lý,
có hiệu lực từ 6/12/1975, hiện có 26 nước tham gia ký kết.
Mục đích: cho phép chấp nhận tạm thời (tạm nhập, tạm xuất) các container
(có hàng hoặc rỗng) mà không thu thuế. Công ước bao gồm các điều khoản về
việc tạo ra container, các thủ tục chấp nhận tạm thời container, sử dụng container
trong vận chuyển nội địa, quy định kỹ thuật về container dùng trong vận chuyển
quốc tế với niêm phong Hải quan...
iii) Nhóm các Công ước về ma tuý:
Do Liên hợp quốc ban hành, bao gồm: "Công ước thống nhất về ma tuý năm 1961", "Công ước về các chất kích thích - năm 1971", "Công ước về chống
buôn bán ma tuý - năm 1988":
Mục đích: thống nhất trong phạm vi quốc tế về việc chống buôn bán, vận
chuyển, sử dụng và sản xuất trái phép các loại ma tuý, quy định các biện pháp
hợp tác quốc tế về vấn đề này.
iv) Nhóm công ước về tạo thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển hàng
hoá:
Xu hướng quốc tế hoá kinh tế và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, sự gia
tăng du lịch làm bùng phát các nhu cầu về giao thông, vận chuyển hàng hoá, đi
lại. Uỷ ban kinh tế, văn hoá, xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) của
Liên hợp quốc đã thông qua giải pháp lớn về cải thiện tình hình giao thông và đi
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-13-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
lại trong khu vực, lấy thập kỷ 90 làm thập kỷ giao thông liên lạc châu Á - Thái
Bình Dương. Giải pháp của ESCAP gồm 2 mặt:
- Thúc đẩy thiết kế, xây dựng các tuyến đường bộ, đường sắt trong khu vực
và liên khu vực với cơ sở hạ tầng hiện đại (phần cứng).
- Mặt khác, nhanh chóng tiêu chuẩn hóa, đơn giản hoá và hài hoà các biện
pháp quản lý việc đi lại, vận chuyển hàng hoá giữa các nước trong khu vực (phần
mềm). "Phần mềm" được phát triển song song với "phần cứng" thì cơ sở hạ tầng
mới phát huy được tác dụng.
Cả Liên hợp quốc cũng như ESCAP đều khuyến nghị các nước trong khu
vực tham gia các Công ước:
* Công ước Hải quan về Vận tải hàng hoá quốc tế với sổ TIR (Công ước
TIR, 1975):
Mục đích: đưa ra phương thức vận tải quá cảnh sử dụng bộ chứng từ TIR
(TIR: vận tải đường bộ quốc tế). Bộ chứng từ này được lập dưới dạng sổ gồm
nhiều liên khai báo về hàng hoá được vận chuyển. Trang đầu bộ chứng từ này ghi
kết quả kiểm tra, xác nhận của Hải quan nước xuất phát. Những trang sau lần
lượt được lưu tại Hải quan nước quá cảnh và nước đến cuối cùng để theo dõi (các
nước này công nhận kết quả kiểm tra Hải quan của nước xuất phát và không kiểm
tra hàng quá cảnh nữa). Như vậy hàng quá cảnh sẽ đi qua các biên giới rất nhanh
chóng.
* Công ước quốc tế về hài hoà các hình thức kiểm tra ở biên giới (1982):
Vì ở biên giới các nước thường có rất nhiều loại hình kiểm tra thuộc nhiều
chuyên ngành: kiểm dịch động thực vật, kiểm tra y tế, kiểm tra sự ăn khớp với
các tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm tra chất lượng, các loại hình kiểm tra khác về xuất
nhập khẩu và quá cảnh hàng hóa, kiểm tra hải quan... Nếu như thiếu sự phối hợp
thống nhất các loại hình kiểm tra này thì sẽ gây phiền hà, ách tắc tại các cửa
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-14-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
khẩu. Công ước khuyến nghị: do kiểm tra Hải quan mang tính phổ biến nhất nên
các loại hình kiểm tra khác phải hoạt động hài hoà với kiểm tra hải quan. Đồng
thời, các nước có chung biên giới cần thu xếp tương thích với nhau về các hoạt
động kiểm tra, về giờ giấc làm việc của các trạm cửa khẩu...
* Công ước hải quan về tạm nhập xe cộ đường bộ phục vụ thương mại
(1956):
Đề cập đến việc tạo thuận lợi và các biện pháp quản lý tạm nhập miễn thuế
xe cộ dùng trong hoạt động này (xe cộ vận chuyển kinh doanh hành khách, vận
tải hàng hoá).
v) Hiệp định WTO về Sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) có hiệu lực
năm 1995:
Trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu, lợi dụng sự nới lỏng các biện
pháp quản lý, tình trạng buôn bán trao đổi hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
ngày càng nổi cộm, chiếm tới 5-8% tổng số thương mại thế giới. Vòng đàm phán
Urugoay đã mất nhiều thời gian để đàm phán, đi đến ký kết "Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - TRIPS".
Hiệp định TRIPs có bước phát triển mới trong việc đề ra các biện pháp thực
thi, nhất là khẳng định vai trò quan trọng của Hải quan đối với thực thi quyền sở
hữu trí tuệ tại biên giới qua kiểm tra, kiểm soát xuất nhập khẩu. Cơ sở của vấn đề
là: nếu thực hiện tốt các biện pháp tại biên giới về sở hữu trí tuệ (thông qua kiểm
soát xuất nhập khẩu) thì có thể ngăn chặn hàng hoá vi phạm sở hữu trí tuệ trước
khi đưa vào lưu thông, sẽ hiệu quả hơn rất nhiều khi phải truy tìm trong nội địa.
vi) Hiệp định về Chương trình Thuế quan ưu đãi hiệu lực chung
(CEPT) ký tại Singapore ngày 28/1/1992 đã đưa ra phương pháp và mục tiêu cụ
thể:
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-15-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
- Xây dựng lộ trình cắt giảm thuế trong nội khối ASEAN xuống 20%, sau
đó là 0-5% - theo chương trình cắt giảm thuế quan (điều 4 của Hiệp định CEPT).
- Những hàng hoá thoả mãn tiêu thức của CEPT được xác định theo hàm
lượng xuất xứ ASEAN là 40% (Điều 5-A2).
- Xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế (Điều 5-A2).
- Ap dụng Hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO (Điều 5-D).
vii) Hiệp định quá cảnh ASEAN có hiệu lực từ 1998:
Hiệp định nhấn mạnh đến việc tạo thuận lợi cho quá cảnh hàng hoá giữa các
nước ASEAN, được ký kết cuối năm 1998 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại
Hà Nội. Hiệp định bao gồm hàng chục nghị định thư nhằm cụ thể hoá các nội
dung và cách thức hoạt động và có hiệu lực vào cuối năm 2000. Về hải quan có
tới 2 Nghị định thư liên quan trực tiếp (được ASEAN giao cho Hải quan các
nước dự thảo và hoàn tất) là Nghị định thư số 2 "Về bố trí các cửa khẩu quá cảnh
ASEAN", Nghị định thư số 7 "Về thủ tục Hải quan đối với hàng hoá, phương tiện
quá cảnh". Theo quy định này, thủ tục Hải quan với hàng hoá và phương tiện quá
cảnh ASEAN sẽ giảm thiểu đáng kể, tạo thuận lợi cho việc giao lưu thương mại
và du lịch trong nội bộ khối.
1.1.4. Các tổ chức quốc tế có liên quan
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
Lịch sử hình thành:
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ngày 12 tháng 9 năm 1947, 13 nước
thành viên đại diện cho Uỷ ban Hợp tác Kinh tế Châu Âu đã nhất trí thành lập
một Nhóm nghiên cứu để xem xét khả năng thành lập một hay nhiều liên minh
hải quan giữa các nước Châu Âu trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp định chung
về Thuế quan và Thương mại (GATT).
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-16-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
Năm sau đó Nhóm nghiên cứu này đã thành lập ra 2 Uỷ ban - Uỷ ban về
Kinh tế sau này trở thành Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Uỷ
ban Hải quan sau này trở thành Hội đồng Hợp tác Hải quan (CCC).
Uỷ ban Hải quan có nhiệm vụ nghiên cứu tổng hợp các vấn đề về kỹ thuật
hải quan ở nhiều nước khác nhau nhằm tiêu chuẩn hoá thủ tục hải quan, hài hoà
Danh mục hàng hoá và thống nhất định nghĩa trị giá hải quan và các quy định,
luật lệ hải quan khác.
Ngày 15 tháng 12 năm 1950, Nhóm nghiên cứu này đã đi tới quyết định cần
phải thành lập một tổ chức mới mang tính toàn cầu, chuyên trách các vấn đề
thuộc nghiệp vụ hải quan nhằm nghiên cứu sâu hơn lĩnh vực phân loại, xác định
trị giá hải quan,vv. đồng thời có thể mở rộng phạm vi hoạt động. Thế là “Công
ước thành lập Hội đồng Hợp tác Hải quan” ra đời và chính thức có hiệu lực ngày
4/11/1952. Sau đó, hai Công ước quan trọng khác đã được ký kết tại Brussels là
“Công ước về Trị giá Hải quan của hàng hoá (có hiệu lực từ ngày 28/7/1953) và
Công ước về Danh mục Phân loại Hàng hoá và Biểu thuế Hải quan (có hiệu lực
từ ngày 11/9/1959).
Tổ chức chính thức của Hải quan đã ra đời. Hội đồng Hợp tác Hải quan
không chỉ có nhiệm vụ thực hiện 2 Công ước quốc tế nêu trên mà còn nhằm đạt
được ở mức độ cao nhất việc hài hoà và thống nhất các hệ thống quy trình thủ tục
hải quan và tăng cường phát triển các kỹ thuật nghiệp vụ và luật lệ quy định về
Hải quan.
Ngày 26/1/1953 Kỳ họp lần thứ nhất của Hội đồng Hợp tác Hải quan đã
diễn ra tại Brussels (với sự tham gia của Tổng cục trưởng Hải quan 17 nước Châu
Âu). Vì ý nghĩa lịch sử này, 30 năm sau (năm 1983), Hội đồng Hợp tác Hải quan
đã quyết định chọn ngày 26/1 hàng năm làm "Ngày quốc tế Hải quan".
Theo Công ước thành lập, chức năng và mục tiêu của Hội đồng Hợp tác Hải
quan bao gồm:
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-17-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
a. Nghiên cứu mọi vấn đề có liên quan đến hợp tác hải quan mà các bên ký
kết thoả thuận phát triển phù hợp với các mục tiêu chung của Công ước này;
b. Kiểm tra mọi khía cạnh kỹ thuật của các chế độ hải quan cũng như các
nhân tố kinh tế liên quan đến chúng, nhằm đề xuất với các thành viên của Hội
đồng những phương tiện thực tiễn để đạt được mức độ hài hoà và thống nhất cao
nhất;
c. Dự thảo các công ước và điều khoản bổ xung Công ước, cũng như
khuyến cáo việc thông qua các dự thảo đó cho các Chính phủ hữu quan;
d. Ban hành các khuyến nghị nhằm đảm bảo việc giải thích và áp dụng
thống nhất các Công ước đã ký do kết quả các công việc của Hội đồng, cũng như
đối với Công ước về Danh mục nhằm phân loại hàng hoá trong các biểu thuế
quan và Hiệp định về xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá do Nhóm nghiên
cứu của Liên minh thuế quan Châu Âu soạn thảo, và để đạt được mục đích này,
thực hiện những chức năng mà các điều khoản của Công ước trên quy định rõ
ràng cho Hội đồng;
e. Ban hành các khuyến nghị với tư cách là một cơ quan hoà giải nhằm giải
quyết các tranh chấp có thể nảy sinh trong việc giải thích hoặc áp dụng các Công
ước nêu tại khoản (d) trên đây, phù hợp với các điều khoản của các Công ước đó;
các bên hữu quan có thể với sự nhất trí chung, thoả thuận trước việc tuân thủ
khuyến cáo của Hội đồng;
f. Đảm bảo việc phổ biến các thông tin liên quan đến luật lệ và nghiệp vụ
hải quan;
g. Cung cấp cho các Chính phủ hữu quan , mặc nhiên hoặc theo yêu cầu của
họ những thông tin hoặc ý kiến về các vấn đề hải quan nằm trong khuôn khổ các
mục tiêu chung của Công ước và ban hành các khuyến nghị về lĩnh vực này;
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-18-
Vai trò các Điều ước quốc tế về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan trong quá trình hiện đại hoá Hải quan
h. Hợp tác với các Tổ chức liên chính phủ về các lĩnh vực thuộc thẩm quyền
của Hội đồng.
Để phản ánh thực tế qui mô phát triển về số lượng các thành viên và ý nghĩa
ngày càng tăng trên toàn cầu, Hội đồng Hợp tác Hải quan chính thức được đổi tên
thành Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) năm 1994.
Cho đến tháng 6/2002, WCO có 161 thành viên, 16 Công ước Quốc tế (tính
cả Công ước Kyoto sửa đổi) và 50 khuyến nghị về các lĩnh vực hoạt động của
Hải quan.
Các Uỷ ban chính của WCO gồm có Hội đồng, Uỷ ban Chính sách, Ban
Thư ký, Ban Tài chính, Ban Kiểm soát, Ban kỹ thuật thường trực và Tiểu ban
quản lý thông tin, Ban Kỹ thuật về Nguyên tắc Xuất xứ, Ban Kỹ thuật về Trị giá,
Ban Kỹ thuật về Hệ thống Hài hoà (HS) và các Tiểu ban Đánh giá lại HS, Tiểu
ban Khoa học.
Hội đồng là cơ quan quyết định tối cao, gồm những người đứng đầu tổ chức
hải quan các nước thành viên, họp phiên toàn thể vào cuối tháng 6 hàng năm tại
Brussel hoặc tại một nước thành viên, quyết định đường lối chính sách chung cho
các hoạt động trong năm.
Ban Thư ký, đứng đầu là Tổng Thư ký, với sự trợ giúp của một Phó Tổng
Thư ký, một Cục trưởng Cục Tạo thuận lợi và Tuân thủ, một Cục trưởng Cục các
Vấn đề thương mại và Thuế quan, đặt trụ sở chính tại Brussels (Bỉ), với 140 quan
chức và nhân viên, có nhiệm vụ hỗ trợ các vấn đề liên quan đến trước và sau
phiên họp toàn thể của Hội đồng.
Uỷ ban Chính sách bao gồm Chủ tịch Hội đồng do Hội đồng bầu ra và 6 Phó
chủ tịch (trưởng đại diện 6 khu vực hải quan), và 17 thành viên, có nhiệm vụ xem
xét, đưa ra những khuyến nghị đối với các vấn đề thuộc chính sách chủ yếu của
WCO, và hoạt động như một nhóm chỉ đạo định hướng của Hội đồng.
Deleted: Page 2
Deleted: of 78
-19-
- Xem thêm -