7 điều cần biết về cuộc khủng hoảng di dân Châu Âu
Nguyễn Quốc Tấn Trung / 12 Sep 2015
Nguyễn Quốc Tấn Trung
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, đã có hơn 137,000 đàn ông, phụ nữ và
trẻ em vượt biển Địa Trung Hải để đến được bờ biển Châu Âu chỉ trong sáu
tháng đầu năm 2015. Vẫn còn hàng ngàn người đang đi dọc bán đảo Balkan
để tìm kiếm cơ hội vào Cựu Lục Địa. Con số chắc chắn sẽ không dừng lại cho
đến khi tình hình tại Syria được giải quyết.
Xét về mặt nhân đạo, rõ ràng với tư cách là khối cộng đồng chung thịnh
vượng nhất thế giới, việc nhiều người cho rằng Châu Âu nên hào phóng và
giúp đỡ giải quyết cuộc khủng hoảng là điều dễ hiểu. Nhưng xét về mặt pháp
lý, những cá nhân thuộc làn sóng dịch chuyển dân số khổng lồ này là ai?
Liệu Châu Âu có trách nhiệm giải quyết cuộc khủng hoảng? Và nếu có, trách
nhiệm của họ đến mức nào?
Các gia đình đang đi đến một trung tâm nhập cư sau khi vượt biên giới Hy
Lạp đến Macedonia. Ảnh: New York Times.
1. Họ là ai?
Có nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này. Tùy thuộc vào mục tiêu chính trị và
chính sách kiểm soát nhập cư, các quốc gia sẽ chọn một trong hai cách gọi
là “di dân” (Migrant) và “người tị nạn” (Refugee).
Cả hai khái niệm, trong văn cảnh thông thường, có thể hoán đổi cho nhau ở
một số trường hợp. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của cuộc khủng hoảng tại
Châu Âu, việc sử dụng hai khái niệm cần phải thật cẩn trọng bởi hệ quả
pháp lý và trách nhiệm của các quốc gia sẽ trở nên hoàn toàn khác biệt.
2. Thế nào là Người tị nạn (Refugee)?
Tổng quan, người tị nạn là một cá nhân rời khỏi quốc gia mà họ có quốc tịch
nhằm thoát khỏi sự đàn áp, bức hại của chính quyền sở tại. Tất nhiên, họ
cũng cần phải chứng minh được điều đó.
Cụ thể, theo quy định của Công ước về vị thế người tị nạn 1951 (“Công ước
1951”), được bàn luận và soạn thảo ngay sau Thế Chiến Thứ 2; người tị
nạn, là những người, “sợ hãi có cơ sở về việc có thể bị đàn áp hoặc bức hại
do các nguyên nhân liên quan đến chủng tộc, tôn giáo, dân tộc; do là thành
viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc do lý tưởng chính trị của cá nhân đó,
đang ở ngoài quốc gia mà họ có quốc tịch và không thể, hoặc không mong
muốn tiếp nhận thể thức bảo vệ công dân của quốc gia đó do những lo sợ
nói trên”.
3. Thế nào là Di dân (Migrant) ?
Khác với khái niệm người tị nạn, không có một định nghĩa cụ thể thống nhất
cho khái niệm di dân. Tuy nhiên, khái niệm di dân được hiểu một cách phổ
biến là bất kỳ ai di chuyển từ quốc gia mà họ có quốc tịch (hoặc đang sinh
sống) sang một quốc gia khác, bất kể vì lý do nào (trừ khi đã được xếp vào
trường hợp người tị nạn).
Như vậy, có thể thấy khái niệm “di dân” rộng hơn nhiều so với “người tị
nạn”. Các lý do dẫn đến việc di dân thường được biết đến như nhằm thoát
khỏi đói nghèo, hoặc dù có cuộc sống khá giả nhưng đơn thuần là tìm kiếm
những cơ hội mới, đoàn tụ với gia đình… kể cả những người đến quốc gia đó
thông qua những đường dây buôn người (human trafficking).
Cũng có những tranh luận về việc những người di cư khỏi quốc gia của họ do
tác động của biến đổi khí hậu – như quá trình sa mạc hóa tại Vành đai Sahel
(rìa phía Bắc của sa mạc Sahara), hoặc quá trình bị nước biển nhấn chìm các
quốc đảo ngoài khơi Bangladesh – nên được xác định là những người tị nạn.
4. Điều gì làm nên sự khác biệt pháp lý giữa di dân và người tị nạn?
Chủ quyền quốc gia:
Thẩm quyền áp dụng quy định pháp luật về vấn đề di dân hoàn toàn thuộc
vấn đề chủ quyền của quốc gia sở tại. Vì vậy, việc tiếp nhận hay không tiếp
nhận di dân là quyền của quốc gia đó.
Ngược lại, do các quốc gia tham gia Công ước 1951 đã từ bỏ một phần chủ
quyền của mình nhằm giải quyết hệ lụy chiến tranh hoặc khủng hoảng nhân
đạo nếu có xảy ra tại một số quốc gia, việc nhận người tị nạn trở thành một
nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, Công ước 1951 cũng đảm bảo quyền sử
dụng các biện pháp đánh giá tạm thời (Provisional measures – Điều 9 Công
ước)nhằm xác định liệu người xin quyền tị nạn (Asylum seeker) có đủ điều
kiện và cần thiết để được cấp quy chế bảo hộ người tị nạn hay không, vì lợi
ích an ninh quốc gia của quốc gia tiếp nhận.
Phân biệt đối xử:
Đối với trường hợp di dân, khả năng phân biệt đối xử thực tế hay kể cả bằng
pháp luật của quốc gia sở tại dựa trên chủng tộc, dân tộc, tôn giáo hay tình
trạng tài chính… diễn ra một cách thường xuyên. Dù vậy, không có sự kiểm
soát hay thỏa thuận giới hạn chung nào để xóa bỏ hiện trạng trên, khi các
quốc gia đều mong muốn kiểm soát đường biên giới của mình.
Đối với người tị nạn, đây là việc làm bị cấm bởi Công ước 1951 (Điều 3).
Bảo hộ quốc tịch:
Các di dân, tùy thuộc vào loại hình nhập cư mà họ được cấp (công dân, lao
động nước ngoài…) sẽ có quy chế bảo hộ tương ứng. Thông thường, những
di dân đều kê khai và đăng ký để trở thành công dân của quốc gia mới.
Nhưng trong trường hợp của người tị nạn, họ sẽ vẫn được xem là công dân
nước ngoài được hưởng các chế độ bảo hộ đặc biệt tại quốc gia tiếp nhận sau
khi được công nhận đủ tư cách người tị nạn. Việc nhập quốc tịch cho người tị
nạn được xem là “theo chừng mực” và thuộc quyền quyết định của quốc gia
tiếp nhận (Điều 34).
Trục xuất và hồi hương
Việc trục xuất hoặc hồi hương các di dân bất hợp pháp (thường được gọi là
undocumented migrant hoặc illegal migrant) thuộc toàn quyền quyết định
của quốc gia sở tại. Nếu được chấp thuận trở thành công dân, họ không còn
nguy cơ bị trục xuất nhưng phải chịu sự ràng buộc về chế tài của pháp luật
quốc gia mới.
Đối với người tị nạn, trước thời điểm họ được cấp quy chế bảo hộ tị nạn, họ
vẫn chỉ là những người xin quyền tị nạn tại quốc gia tiếp nhận. Vì vậy, nếu
quốc gia tiếp nhận cho rằng cá nhân này không đủ tư cách người tị nạn, họ
có quyền không cấp cơ chế bảo hộ này. Tuy nhiên, cơ chế bảo hộ đối với
người tị nạn rất cao khi đề cập đến vấn đề trục xuất hay hồi hương.
Cụ thể, cho dù việc người tị nạn sinh sống bất hợp pháp một quốc gia thành
viên, quốc gia này sẽ không được phép áp dụng hình phạt đối với người tị
nạn bất hợp pháp, với điều kiện họ hợp tác, trình diện theo yêu cầu của nhà
chức trách và chỉ ra nguyên nhân hợp lý về việc sinh sống bất hợp pháp tại
quốc gia này. Công ước còn quy định một cách kỹ thuật nhằm đảm bảo các
quốc gia thành viên sẽ hợp thức hóa việc đăng ký tị nạn, và tạo điều kiện,
thời gian hợp lý để các cá nhân này tìm kiếm quốc gia tiếp nhận khác (Điều
31). Quốc gia tiếp nhận cũng có quyền trục xuất những người tị nạn hợp
pháp nếu họ gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hay trật tự công cộng của
quốc gia tiếp nhận.
Cần lưu ý rằng, dù người tị nạn hợp pháp hay không hợp pháp tại quốc gia
sở tại, quốc gia này bị cấm trục xuất bằng hình thức đưa người tị nạn đến
biên giới thuộc những lãnh thổ nơi mà cuộc sống hay sự tự do của người ấy
bị đe doạ vì các lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, hay vì lý do là thành
viên của các nhóm xã hội nhất định, hay bởi quan điểm chính trị. Tuy nhiên,
những người là một mối đe doạ cho nền an ninh của quốc gia nơi mà người
đó đang sống, hoặc sau khi người ấy đã bị kết án về một tội hình sự đặc
biệt nghiêm trọng, tạo nên nguy cơ cho cộng đồng tại quốc gia tiếp nhận sẽ
không được hưởng những đặc quyền này.
5. Năng lực pháp lý của người tị nạn tại quốc gia tiếp nhận ra sao?
Họ có những quyền gì?
Người tị nạn, trong quá trình sinh sống và làm việc tại quốc gia tiếp nhận
được Công ước 1951 bảo đảm một số quyền năng pháp lý theo nguyên tắc
tối huệ quốc, tức pháp luật quốc gia sở tại sẽ cho họ hưởng các quyền lợi
không kém hơn so với những người nước ngoài đang sinh sống và làm việc
tại quốc gia đó với cùng hoàn cảnh.
Các quyền theo nguyên tắc tối huệ quốc mà người tị nạn được hưởng bao
gồm: Quyền sở hữu tài sản (Động sản và bất động sản); quyền về việc làm,
lao động và hành nghề tự do; các quyền liên quan đến giáo dục trên bậc
giáo dục tiểu học; quyền tự do đi lại.
Tuy nhiên cũng có một số quyền mà quốc gia sở tại có trách nhiệm áp dụng
theo nguyên tắc đối xử quốc gia, tức người tị nạn có ngang quyền với
công dân của quốc gia đó bao gồm: Tác quyền và quyền sở hữu trí tuệ; các
nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước hay quan trọng nhất là quyền tố tụng
trước tòa của quốc gia tiếp nhận, được lưu ý đặc biệt ở quyền kháng cáo
quyết định trục xuất của tòa có thẩm quyền.
Với những căn cứ trên, có thể thấy quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của người
tị nạn được đặc biệt bảo đảm một cách chặt chẽ mặt dù họ vẫn chưa được
xem là công dân của quốc gia đó.
6. Những người đặt chân đến Châu Âu được xem xét với tư cách nào
theo pháp luật quốc tế?
Đây là câu hỏi gây tranh cãi nhất trong suốt cuộc khủng hoảng và cho đến
nay vẫn không có được sự thống nhất từ các quốc gia tiếp nhận vì hệ quả
cực kỳ khác biệt của chúng.
Trong số những thường dân vượt Địa Trung Hải nửa đầu năm 2015, có một
số lượng lớn đến từ Syria, Afghanistan và Eritrea. Theo Cao ủy Liên Hiệp
Quốc về người tị nạn, Syria và Afghanistan có thể được xem là những vùng
có xung đột căng thẳng nhất thế giới, nên số thường dân này nên được chấp
thuận một cách phổ biến là người tị nạn. Tình trạng tương tự cũng diễn ra
đối với người dân từ Eritrea, nơi mà người dân có nguy cơ bị đàn áp chính trị
bởi một trong những chế độ áp bức hà khắc nhất thế giới.
Trong khi Đức, một trong những quốc gia hào phóng và không kiêng dè
trong việc tiếp nhận người tị nạn từ Syria, thì Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ – ông
Thomas de Maiziere cũng phải cảnh báo rằng có đến 40% số lượng đơn xin
quyền tị nạn chính trị tại nước ông lại đến từ các quốc gia ở bán đảo Balkan
vốn không hề có xung đột chính trị, là điều “không thể chấp nhận”. Những
người này, sẽ chỉ được xem xét là người nhập cư trái phép, và sẽ bị trục xuất
khỏi Đức bằng chính chi phí của họ, ông cho biết thêm.
Ngược lại, với lý luận rằng đây chỉ là những người di dân, Slovakia đề nghị
chỉ chấp nhận những di dân theo Thiên Chúa Giáo bởi quốc gia họ không có
cơ sở hay đền thờ Hồi Giáo nào giúp những người di dân này hòa nhập cộng
đồng. Một lý do rõ ràng mang tính chất kỳ thị tôn giáo.
7. Tác động của hai khái niệm đến cuộc khủng hoảng như thế nào?
Nhiều chuyên gia cho rằng, thái độ thiên cực của hai bên bảo vệ và chống
đối việc nhập cư với cơ sở đơn giản hóa hai khái niệm sẽ càng làm cuộc
khủng hoảng thêm trầm trọng.
“Cũng sai lầm như việc cho rằng tất cả các thường dân đến Châu Âu đều là
những di dân vì lý do kinh tế, không thể đánh đồng toàn bộ họ là người tị
nạn” – Bill Frelick, Giám đốc chương trình Quyền người tị nạn của Human
Rights Watch chia sẻ.
Thêm vào đó, Hệ thống tị nạn nhân đạo của Cộng đồng chung Châu Âu
(Common European Asylum System) quy định rằng người xin quyền tị nạn
có trách nhiệm đăng ký tị nạn với quốc gia đầu tiên mà họ đặt chân đến ở
Châu Âu – còn gọi là Dublin System. Dù vậy, nhiều người nhắm đến các
quốc gia như Anh hoặc Đức rõ ràng không chấp thuận cơ chế này. Họ bắt
đầu bỏ trốn khỏi các trại tị nạn và lang thang khắp Châu Âu. Điều này sẽ
càng làm khó khăn hơn cho các quốc gia trong việc xác định ai là người tị
nạn, ai là di dân, khiến cho quyền lợi của chính họ sẽ không được bảo đảm.
Tài liệu tham khảo:
Toàn văn Công ước Liên Hiệp Quốc về vị thế của người tị nạn 1951
Migrant
or
Refugee?
There
Is
a
Difference,
With
Legal
Implications
Understanding
Migration
and
Asylum
in
the
European
Union
The difference between a migrant and refugee, in one sentence
- Xem thêm -