Chương 4 Nguyễn Tuân – bậc thầy sự kết tinh nét đặc sắc về nghệ thuật tùy bút
4.1 Lí giải Nguyễn Tuân viết ít tùy bút nhưng được coi là bậc thầy của tùy bút
Chúng ta đều biết Nguyễn Tuân nổi tiếng trên văn đàn như một nhà tùy bút xuất
sắc, cho tới tận bây giờ chưa có ai khả dĩ sánh kịp ông. Bắt đầu từ Một chuyến đi,
ngòi bút Nguyễn Tuân đã tỏ ra bén duyên với thể loại này. Nguyễn Tuân là người
không ưa sự ràng buộc, chinh vì thế tùy bút là sự lựa chọn đầu tự do và phù hợp
với ông. Không những tùy bút, cả truyện ngắn, tiểu thuyết lẫn phóng sự của
Nguyễn Tuân đều mang hơi hướng tùy bút. Hình như chất tùy bút đã thấm vào máu
của ông, để mọi dòng ông viết ra đều mang dấu ấn ấy.
Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, trong mỗi trang viết của ông, người ta thường bắt gặp ở
đó những điều thú vị, bởi nhà văn đã trải lên trên mặt giấy một lượng tri thức
phong phú, đa dạng, chính xác về nhiều nhanh khoa học, nghệ thuật và nhiều linh
vực khác thông qua những liên tưởng vô cùng độc đáo với một vốn ngôn từ hết sức
phong phú và linh hoạt. Ông vốn xuất thân là một nhà báo có vốn sống vốn hiểu
biết sâu rộng cùng với cái thú “ xê dịch ” dường như đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống nhà văn. Nguyễn Tuân từng quan niệm : đi là để
thay đổi thực đơn cho con mắt và đời sống tinh thần. Thế nên, qua những trang tùy
bút có thể thấy ông có mặt ở nhiều nơi, quan tâm tới nhiều vấn đề cuộc sống.
Và cái tài, cái bậc thầy nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân được thể hiện khá rõ
nét.
Tuỳ bút Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc trước hết bởi những trang viết chân thực
với lượng thông tin phong phú, đa dạng, chính xác. Ông vốn xuất thân là một nhà
báo, có vốn sống, vốn hiểu biết khá sâu rộng. Qua những trang tùy bút của Nguyễn
Tuân, có thể thấy ông có mặt ở nhiều nơi, quan tâm tới nhiều mặt của đời sống, đã
quan tâm tới cái gì thì tìm hiểu đến từng chi tiết nhỏ. Chính vì vậy mà tùy bút của
Nguyễn Tuân có lượng thông tin rất cao. Nhiều bài tùy bút của ông đã cung cấp
cho người đọc những kiến thức đa dạng, nhiều mặt cả về lịch sử, địa lý, địa chất,
hội họa, âm nhạc v.v… Trong một lần đề cập đến nghề viết của mình, Nguyễn
Tuân cho rằng: “Có hai lối viết, tôi gọi là lối nóng và lối lạnh. Cũng như tạng
người, có tạng hàn, tạng nhiệt. Tôi thích lối viết lạnh. Chém treo ngành (còn có
tên Bữa rượu máu) là lối viết lạnh, có anh không hiểu quy cho tôi là ca ngợi tên
đao phủ chém đầu người. Tôi cho tác phẩm phải tạo được không khí cho câu
chuyện của mình, không thì không có giá trị gì. Kinh nghiệm tạo không khí là phải
có tri thức lịch sử, địa lý, tri thức về thiên nhiên rồi dùng sức tưởng tượng mà dựng
lên”. Sự hiểu biết sâu sắc cặn kẽ của Nguyễn Tuân về một sự vật, hiện tượng nào
đó nhiều lúc đưa lại cho người đọc những trang viết đầy hấp dẫn, thú vị. Viết về
cây cầu Hiền Lương – thời kỳ đất nước còn bị chia cắt, tác giả say sưa kể về lịch
sử cây cầu một cách khá cặn kẽ: “Cầu Hiền Lương bắc vào năm 1950. Có bảy nhịp
kháp vào nhau. Sắt cầu của Anh “Made in England”, ván cầu Mỹ “us- Vigira”,
nhân công cầu là đám công bình trong quân đội viễn chinh Pháp cộng với số nhân
lực PMT… Cầu có bảy nhịp, cộng lại chỉ có 178 mét, và ván cầu tổng cộng chỉ có
894 miếng ván. Chiều dài cầu, miền Bắc miền Nam mỗi bên giữ 89 thước nhưng
ván cầu thì 450 tấn thuộc về Bắc, và như thế ta hơn mấy tấm” (Cầu ma – Tuyển tập
Nguyễn Tuân, tập II, tr.183). Đọc tùy bút Sông Đà, người đọc không chỉ được đắm
mình trong một cảnh sắc thiên nhiên vừa dữ dội, hoang sơ, vừa trữ tình thơ mộng
mà còn có thêm nhiều hiểu biết về lịch sử một vùng đất đầy đau thương đang
chuyển mình đi lên với cuộc sống mới. Trong thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân đã thể
hiện cái tôi rõ rệt nhất. Đó là một cái tội ngông nghênh, kiêu bạc không giống ai,
không ngần ngại phô diễn mình qua những trang văn dưới mọi hình thức. Hình
tượng cái tôi này được thể hiện trong những sang tác cảu Nguyễn Tuân trước và
sau cách mạng tháng Tám. Trong ý thức về mình, Nguyễn Tuân đã tìm đến với chủ
nghĩa cá nhân Phương Tây. Bằng tài hoa cùng với khát khao cống hiến, Nguyễn
tuân đã để lại cho đời một hình tượng cái tôi xuất chúng, tài hoa, uyên bác. Một cái
tôi luôn khao khát những cảm giác mới lạ, luôn khao khát một cảm giác tuyệt
đích,vô biên: “ Sinh thú của người là hưởng nhiều cái bất thinh linh và mọi cái
không chờ đợi. Tôi muốn mỗi ngày cuộc sống cảu tôi phải cho tôi cái say sưa của
rượu tối tân hôn. Mỗi một ngày tới lại đem cho ta một ngạc nhiên, bắt trí tò mò làm
việc. Khi nào mà người ta không biết sửng sốt nữa thì chỉ có cách trở lại cái
nguyên bản cảu mình là bịu bặm”.
Nguyễn Tuân sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất Tôi và thậm chí các nhân vật
khác cảu ông, mặc dù có tên gọi có thể thay đổi nhưng trên thực tế vẫn mang rõ
hình bóng chủ quan của tác giả.
Không dừng lại ở đó, tùy bút Nguyễn Tuân không chỉ giàu chất hiện thực, mang
tính thời sự cao, mà còn đậm đà chất trữ tình, thơ mộng. Chất tình cảm trong tùy
bút Nguyễn Tuân trước Cách mạng thường là buồn, phản ánh cái tâm trạng bức
bối, chán chường của tác giả trước một cuộc đời tù túng, tẻ nhạt (Thiếu quê
hương). Sau Cách mạng Tháng Tám, cảm xúc và suy nghĩ của Nguyễn Tuân có
nhiều thay đổi: say mê, nhiệt tình và lạc quan hơn, nhiều thiên tùy bút trong Sông
Đà là những áng thơ trữ tình bằng văn xuôi ca ngợi thiên nhiên và con người Tây
Bắc.
Ở tùy bút của Nguyễn Tuân, chất trữ tình đậm đà được kết hợp với chất trí tuệ sắc
sảo, với những liên tưởng phong phú, táo bạo bất ngờ đã làm nên nét độc đáo riêng
biệt của Nguyễn Tuân. Qua các thiên tùy bút, Nguyễn Tuân trò chuyện với bạn đọc
không chỉ bằng trái tim nghệ sĩ giàu cảm xúc mà còn bằng trí tuệ sáng suốt của
một con người từng trải, lịch lãm, có học vấn rộng về nhiều lĩnh vực, có tác phong
nghiên cứu điều tra tường tận, tỉ mỉ. Ông luôn giữ được cảm tình cũng như sự tin
yêu mến mộ của bạn đọc. Có được kết quả đó một phần không nhỏ là nhờ vào cái
“duyên tài tử”, cũng như lối hành văn, cách dẫn truyện hết sức tự nhiên của
Nguyễn Tuân.
Tính chất đa nghĩa của những thiên tùy bút Nguyễn Tuân cũng là một mặt mạnh
trong phong cách nghệ thuật của ông. Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, người đọc phải
nghiền ngẫm, suy nghĩ, phải có cùng một tư duy nghệ thuật với nhà văn thì mới
cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp của nó. Nói một cách hình ảnh, thì tùy bút
Nguyễn Tuân giống như một khối ru-bi, mà nhìn ở mặt nào, khía cạnh nào người
đọc cũng nhìn thấy sự toả sáng cả.
Vốn sống phong phú, cộng với sự nhạy cảm của các giác quan đã giúp cho ngôn
ngữ và bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân có một khả năng đặc biệt trong việc tạo
hình, tạo cảnh, tạo không khí. Chúng ta có thể dẫn ra những trang đặc sắc tả cảnh
thiên nhiên của Lai Châu từ thân đèo Khâu Ma Hồng “nhìn xuống thung lũn choé
vàng mây trắng giống như những cánh hoa thuê nổi trên tấm lụa chín”. Nhưng
trang tả trận đánh dữ dội giữa con thuyền đuôi én do những người lái đò dũng cảm
dày dạn kinh nghiệm và tài trí chỉ huy với hàng mấy chục cái thác dữ trên sông Đà
như dàn thành thế trận trên sông, chực sẵn để vồ lấy chiếc thuyền đơn độc và liều
lĩnh (Người lái đò Sông Đà). Văn xuôi của Nguyễn Tuân giàu hình tượng, giàu
nhạc điệu và đầy chất thơ. Đặc biệt, ông đã cho biết sử dụng mặt mạnh của nhiều
ngành nghệ thuật khác nhau: âm nhạc, hội họa, điện ảnh… để làm tăng thêm khả
năng biểu hiện của văn chương. Chẳng hạn thủ pháp motage vốn được coi là đặc
thù riêng của nghệ thuật điện ảnh cũng được Nguyễn Tuân sử dụng để tạo nên một
khung cảnh mới trong đó lắp ghép nhiều sự kiện, con người vốn xa cách nhau
trong không gian và thời gian (Xòe). Ngay cả thủ pháp quay phim cận cảnh, viễn
cảnh, trung cảnh, toàn cảnh cũng giỏi, khi miêu tả những tù binh Mỹ bị giải qua
các phố Hà Nội, sự quan sát của Nguyễn Tuân có lúc như một ống kính điện ảnh
quay từ xa để thu toàn cảnh “một xê ri đặc tả” từ những góc độ khác nhau như
“trông nghiêng, trông chếch ba phần tư goc” để làm hiện rõ bộ mặt thảm hại của
những tên tù binh Mỹ.
Ngoài điện ảnh ra, Nguyễn Tuân còn thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc, thấu đáo về
nhiều lĩnh vực khác. Khi đề cập tới hội họa, âm nhạc ông cũng có những nhận xét
sâu sắc, tinh tế. Nguyễn Tuân từng viết bài về tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái. Ông
thấu đáo từng gam màu đậm nhạt, từng đường nét uyển chuyển, táo bạo trong hội
họa. Nhiều khái niệm của hội họa, điêu khắc, nhiều trường phái nghệ thuật cổ điển,
hiện đại được Nguyễn Tuân đề cập, bàn bạc với sự hiểu biết thấu đáo như một họa
sĩ thực thụ. Trong một lần trao đổi vơi nhà phê bình Ngọc Trai, Nguyễn Tuân nói:
“Có một nhà văn nước ngoài viết: “Nghe mưa rơi không cần phiên dịch”. Hội họa
là vậy đó. Có một thứ ngôn ngữ mà bất cứ người nước ngoài nào cũng hiểu được
mình, giao hoà cảm thông với mình thì còn gì quý bằng. Tôi ghen với mấy ông họa
sĩ đó”.
Nhờ khả năng hiểu biết sâu sắc về hội họa mà trong tùy bút Nguyễn Tuân, chúng ta
thấy ông sử dụng các gam màu, sắc độ rất bạo, rất tài hoa “Trăng ngàn láng thủy
ngân… Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn vạn vạn sải… Đàn cá dầm xạnh
quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi…”. Đặc biệt, thủ pháp nghệ
thuật tương phản trong hội họa và điện ảnh, đã được Nguyễn Tuân sử dụng rất
thành công trong tác phẩm của ông. Trước Cách mạng Nguyễn Tuân hay dùng thủ
pháp tương phản chỉ để làm nổi bật cái “tôi” cá nhân của mình, để đối lập với cái
xã hội ô trọc, để tách mình ra khỏi đám chúng nhân tầm thường, tẻ nhạt và không
có bản lĩnh. Những năm sau này, Nguyễn Tuân cũng hay dùng nghệ thuật tương
phản, nhưng là để chiêm ngưỡng, so sánh quá khứ với hiện tại và tương lai, giữa
cái cũ với cái mới, giữa bọn đế quốc và bè lũ tay sai – hung thần của bóng tối và
ánh sáng của nhân dân, của Cách mạng. Tuy nhiên, việc sử dụng thủ phap nghệ
thuật này không phải lúc nào nhà văn cũng thành công một cách mỹ mãn.
Trong Sông Đà, có những trường hợp nhà văn quá sa đà vào quá khứ, thậm chí có
khi bóng đen của quá khứ còn đè nặng lên cuộc sống hiện tại. Trong Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi, thông qua cái nền đen tội ác của đế quốc Mỹ, nhà văn đã làm nổi bật
những nét đẹp đẽ, tươi sáng, cao cả của Hà Nội, nhưng bên cạnh đó nhà văn chưa
làm nổi rõ các khó khăn gian khổ, sự mất mát hy sinh cho nên sức thuyết phục của
tùy bút Nguyễn Tuân chưa phải đã đạt đến một hiệu quả cao nhất.
Nguyễn Tuân cũng là người rất say mê âm nhạc, ông rất sành các loại đàn sáo dân
tộc, các loại hình sân khấu như hát bội, hát chèo, ca Huế, ca cải lương, v.v… có lẽ
cũng vì vậy mà trong một số tùy bút của ông đôi khi ta gặp những điệu hò ơ ngân
dài, thân thiết như vọng ra từ chính tâm hồn của tác giả. Thật thú vị khi đọc những
trang viết Nguyễn Tuân, miêu tả những lời hát đối đáp của trai gái, những điệu hò
trên sông nước hay làn điệu dân ca quan họ Bắc Ninh đầy chất tạo hình: “mềm mại
như những đường cong các mái đình cổ tỉnh Bắc”. Ông thấy được: “Ca nhạc và
màu sắc quần áo tươi chói trong những buổi thu thanh vốn dân tộc và đĩa hát, càng
gợi nhắc đến những nét dịu dàng của tranh Tố nữ yếm đào làng Hồ” (Bến Hồ và
làng tranh).
Đặc sắc trong tùy bút Nguyễn Tuân còn ở cái tài kể chuyện rất vui, rất hóm và có
duyên của ông. Văn Nguyễn Tuân viết tự nhiên như người nói chuyện: Ông trò
chuyện với bạn đọc một cách thoải mái, chân tình, có khi điềm đạm, thẳng thắn,
nghiêm trang, nhưng nhiều khi vui nhộn, linh hoạt kiểu tán gẫu, nói trạng, đưa lại
cho người đọc những trang viết không kém phần thú vị. Giọng văn của ông luôn
chuyển đổi, đang trang nghiêm cổ kính bỗng chuyển sang bông đùa, bốc tếu, có
khi đang nói giọng Bắc lại chuyển sang giọng Trung, giọng Nam. Nhiều khi ông
nhìn cuộc sống với con mắt rất nhộn, rất nghịch. Đoạn văn ông tả miếng đòn hiểm
của thác nước sông Đà quật ngã người lái đò với những hình ảnh, liên tưởng
nghịch ngợm và bạo miệng khiến người đọc không khỏi bật cười: “Sóng thác đã
đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở chỉ bóp chặt lấy hạ bộ
người lái đò, hột sinh dục muốn vọt lên cổ” (Người lái đò sông Đà). Viết về thằng
phi công Mỹ Míchkên – con tên đô đốc chỉ huy hạm đội 6 bị ta bắt sống, ông
tưởng tượng cảnh thằng đô đốc chết, thằng con không về đưa ma được, chiếc kỳ
hạm đô đốc “phải treo mũ rơm, gậy tre lên đòn trục cầu tàu Hoa Kỳ để thay cho
thằng con bất hiếu” (Đèn điện phố Phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào).
Đây là một cách nói khôi hài rất Nguyễn Tuân để chửi, để rủa bọn hiếu chiến Hoa
Kỳ cho bõ ghét.
Văn tuỳ bút của Nguyễn Tuân biến đổi rất linh hoạt. Mạch văn tuôn chảy theo
dòng cảm xúc hết sức thoải mái, chuyện này chồng chéo lên chuyện kia không theo
một trình tự nào, và cũng không bị ràng buộc hạn chế bởi không gian, thời gian.
Văn của ông khi thì lướt rất nhanh, chỉ điểm một vài nét chấm phá, khi thì dừng lại
rất lâu ở một cảnh, một sự việc, rồi xoay ngang, xoay dọc, tỉa tót, chạm trổ tỉ mỉ,
công phu như một nghệ nhân tài ba. Có những lúc tác giả như vận dụng hết mọi
giác quan của mình để miêu tả: mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, trí óc liên
tưởng… chẳng hạn như đoạn văn miêu tả thứ mắm đặc sản Thạch Hà, Cẩm Phả rất
gợi cảm khiến ta đọc lên như cảm nhận thấy cả hương vị, màu sắc của nó: “Chà,
vui mắt quá, cái sân chế biến nước mắm, hàng ngang chum kiệu màu da lươn thẫm
dựng đứng theo hàng lối từng khu, mỗi khu xếp theo tuổi của nước mắm. Có
những chum nước mắm cá nục đã hàng chục niên tuổi, mở nắp ngửi thơm lừng như
hương quý bốc lên từ một thứ rượu mặn. Uống một chén suông, chặc lưỡi một cái
thấy ngọt lừ và không nghi ngờ gì nữa, đấy là cái vị ngọt chân chất của hoa quả
đem từ lòng vườn bách thảo về mà chế biến ngay trên bờ. Lại thấy nhơ nhớ cái
thơm lừng sảng khoái của nước mắm Hòn Năm xưa ghe bầu đem từ hòn đảo Phú
Quốc về” (Huyện đảo).
Văn tùy bút Nguyễn Tuân quả có nhiều nét đặc biệt dễ nhận thấy khiến người đọc
có thể dễ dàng phân biệt ông với những cây bút khác. Ông đã kế thừa được những
thành tựu từ nhiều nguồn phương Đông và phương Tây, từ dòng dân gian, cổ điển
đến hiện đại, nhưng đồng thời có sự sáng tạo đặc sắc mang dấu ấn riêng của
Nguyễn Tuân. Với thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân đã đạt được những thành công
rực rỡ, cả ở giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám, xứng đáng là một bạc
thầy về tùy bút.
- Xem thêm -